Hai cậu bé quyết định đi xem hố bom vào ngày hôm sau, nơi đã từng có một nhà thờ nhỏ đứng sừng sững ở đó. Quả bom thực chất đã rơi xuống nghĩa địa, sóng xung kích truyền tới làm tòa nhà đã không được sửa sang nhiều năm đổ sụp, mái vòm ở gian giữa sụp xuống, những thanh xà gỗ, ghế dài, tranh vẽ và bàn thờ cũng bị ngọn lửa nuốt chửng. Chẳng ai biết tại sao nhà thờ này lại trở thành mục tiêu, có lẽ kẻ đánh bom đã quyết tâm thả từng ký đạn dược xuống vùng đất Anh lâu đời, cũng có lẽ máy bay cần phải giảm trọng gấp. Đội cứu hỏa trong thị trấn đã không còn hoạt động, trừ ông Bailey già quản lý vật liệu, những người khác đều đã đi đầu quân. Ngày thứ ba sau cuộc đánh bom, người dân trong thị trấn họp thành một đội cứu hỏa tình nguyện lỏng lẻo, như một đàn kiến tốt bụng tốt dạ nhưng lại khờ dại. Họ dọn dẹp những đống gạch vụn còn sót lại, dời cây thánh giá đến phòng chứa đồ lặt vặt của đồn cảnh sát, đặt chung với những cái cuốc chim, áo khoác đồng phục quá lớn hoặc quá nhỏ và những chiếc đèn pin bị hỏng. Vụ đánh bom đã xới tung những nấm mồ và một số quan tài bằng gỗ mục nát, bọn họ đành tạm thời để nguyên trạng như vậy bởi không ai biết phải xử lý như thế nào.

Hố bom đã đọng nước, vũng nước tối tăm, bẩn thỉu. Hai chú bé ném mấy cục đá vào trong, rất nhanh đã thấy nhàm chán. Ở một bụi cây đã bị thiêu rụi, Alex phát hiện ra một lối vào, trước kia ở đó có lẽ có một cánh cửa gỗ nhỏ hình vòng cung nhưng cơn hỏa hoạn đã đốt cháy nó, bây giờ chỉ còn lại vách đá đen xì và vết đinh đóng trên đó, tựa như những vết thương chưa lành.

Bậc thang được làm bằng đá, có lẽ là đá hoa cương, ở giữa bị mài mòn hơi lõm xuống. Mảnh thủy tinh dưới chân phát ra tiếng lạo xạo, hai đứa men theo tường đá sần sùi, dè dặt đi xuống như đang thăm dò trong cổ họng tối đen của một con sư tử. Alex hình như đụng phải cái gì đó phát ra tiếng loạt soạt, Harry gọi tên cậu, đưa tay quờ quạng nhưng cậu bé lại như đã biến mất trong bóng tối. Tay Harry chạm trúng góc nhọn của một chiếc tủ thấp, sau đó là vách tường được phủ bởi một tấm thảm trơn mềm.

"Alex?" Cậu lại gọi thêm một tiếng nữa.

Vẫn không có ai trả lời. Ánh sáng chợt lóe lên, ngọn lửa nhảy nhót từ que diêm đốt cháy tàn bấc. Alex thổi tắt que diêm, giơ cao ngọn nến, để ánh sáng có thể lan đầy trong không gian nhỏ hẹp dưới lòng đất. Đây hẳn là phòng đặt thánh khí của nhà thờ, chiếc tủ đặt những dụng cụ bằng bạc tuy trống trơn nhưng những món đồ lặt vặt khác thì vẫn còn, lễ phục treo trên móc, giá cắm nến, bình hoa, đèn dầu và một chồng bản nhạc bị mọt ăn thật dày.

"Chẳng phải chuyện này rất tuyệt sao?" Alex hỏi, ánh nến chiếu sáng gò má của hắn.

Harry nhìn một khe hở trên tường, nó kéo dài từ trên trần nhà đến tận sau chiếc tủ thấp: "Tớ nghĩ rằng chúng ta nên đi thôi."

"Sẽ không có ai tới chỗ này đâu."

"Có lẽ chúng ta cũng không nên vào đây."

"Không, Harry, cậu không hiểu ý tớ rồi. Tớ nói rằng sẽ chẳng có ai tới chỗ này đâu."

Harry chờ. Nhưng sáp nến nóng bỏng chợt rơi xuống tay Alex, đứa bé tóc vàng xuýt xoa một tiếng, cậu buông tay, ngọn nến lăn trên mặt đất, tắt ngúm, đưa hai đứa trẻ trở lại trong bóng tối không thể thấy rõ năm ngón tay. Sau một hồi lục lọi, đụng vào đối phương, đụng vào vách tường, đụng vào những góc cạnh cứng rắn của những thứ không biết tên. Alex quẹt diêm, Harry tìm lại ngọn nến đã lăn xuống đáy tủ rồi đốt lên, cắm vào giá cắm nến bằng đồng.

"Vậy tức là, chỗ này là của chúng ta." Alex nói nốt nửa vế sau.

Một căn hầm bí mật sẽ cần một cái tên bí mật, Harry đề nghị lấy tên "Thánh John" cho giống với nhà thờ nhưng Alex lại cho rằng tên như vậy không bí mật gì cả, ai cũng có thể đoán được, hắn muốn một cái tên không hề liên quan đến nơi này như "Đất trống trong rừng" hoặc "Quả cầu thủy tinh". Harry thì nghĩ rằng hai cái tên này nghe thật ngu xuẩn. Sau khi phân vân giữa "Huyệt thú" và "Trạm gác", hai đứa trẻ quyết định đặt tên căn phòng dưới đất này là "Nhà trên cây", không chỉ không khiến người khác chú ý mà còn chẳng dính dáng gì đến cây cỏ.

Cả tháng bảy, hai đứa trẻ như hai chú chim khách lén lút dọn từng thứ lấp lánh sáng bóng đến "Nhà trên cây". Một chiếc kính lúp, đống sách vở ngày càng nhiều, một bộ cờ vua, giá vẽ, giấy, màu vẽ và cọ, một hộp bánh bích quy, một quyển sưu tập tem, một bộ bài, một bộ dụng cụ điêu khắc gỗ được bọc trong túi da, ngoài ra còn có một chiếc đèn bàn dù cho trong "Nhà trên cây" không có điện nhưng Alex vẫn cho rằng một cửa hàng dưới lòng đất nên có một ngọn đèn. Nguồn sáng chân chính là một ngọn đèn lồng xưa cũ mà hai đứa đã tìm thấy trong đống đá vụn, bên trong có thể đặt hai cây nến nhưng thỉnh thoảng sẽ cần lau dọn đống sáp nến bị tích tụ ở dưới. Dựa vào ngọn đèn này, hai đứa có thể diễn kịch, biến hóa phóng to những chiếc bóng trên tường trở thành kỵ sĩ hoặc phù thủy, thành rồng hoặc họa sĩ, thủy thủ, nhà sư, nhà vua và cả kỳ lân.

Tháng bảy mưa nhiều, cỏ dại nhanh chóng vươn lên từ những khe hở trên sàn nhà, bọn trẻ phải chắn một tấm ván xuống trên bậc thềm ngăn không cho nước mưa chảy vào. Hố bom đã trở thành một cái ao nhỏ, lớp bùn đất xung quanh được cỏ dại bao phủ. Có một lần, bọn chúng đã nhìn thấy một con cóc to bằng bàn tay ở trong bụi cỏ, không đợi hai đứa đến gần, nó đã nhảy vào trong nước, đạp chân, bơi về phía bên kia của hố bom, trông nó như một người thủy thủ tuyệt vọng đang cố gắng thoát khỏi chiếc thuyền bị chìm. Hai đứa bé trai ném đá xung quanh nó như lựu đạn rơi xuống, cuối cùng một viên đá có góc cạnh sắc nhọn đã rơi xuống trúng đầu con cóc, nó co giật một lúc rồi ngửa cái bụng trắng xám, lơ lửng giữa làn nước trong xanh không còn nhúc nhích.

Cả tuần đầu tiên của tháng tám trời trong xanh, rốt cuộc người làm vườn cũng cho phép đứa con nhỏ nhất của ông, Lyle, người chỉ vừa tròn mười tám tuổi vào một tháng trước rời đi. Elena Carlston - cô gái đã trở thành người đưa thư thay cho ông Bolton - đã đưa Lyle đến trạm xe lửa bằng chiếc xe tải nhỏ có sơn ký hiệu bưu điện hoàng gia. "Không quân cũng giống như hy vọng của thằng bé vậy." Người làm vườn nói trong phòng bếp, ông đổ rượu Brandy vào trong tách trà rồi nhìn chằm chằm vào tách trà có màu nâu sậm ấy, hồi lâu sau vẫn không nói gì.

"Hoa hồng cũng sắp nở rồi." Cuối cùng ông nói thêm một câu, tựa như việc này còn quan trọng hơn tất cả những chuyện khác.

Hai cậu bé lại chơi ở bên ngoài, chúng dắt Mercury ra khỏi chuồng ngựa. Bóng ma về người lính nhảy dù đã dần phai nhạt, hai đứa lại leo lên sườn núi đầy những cây gỗ sồi, tổ chức cuộc thi điền kinh của riêng hai đứa, người dự thi chỉ có hai bé trai và một con ngựa Ả Rập. Martha than phiền áo sơ mi của hai đứa dính quá nhiều bùn đất, cảnh cáo hai đứa rằng một ngày nào đó chúng sẽ té gãy cổ hoặc đạp phải một con rắn đang trốn trong bụi cỏ. Đến nay hai đứa vẫn chưa nhìn thấy rắn nhưng chúng đã nhìn thấy một con cáo tận hai lần, hai cậu bé gọi nó là "Charlie". Charlie có màu nâu, trên con mắt trái của nó có một nhúm lông trắng, trông nó lúc nào cũng có vẻ đói bụng. Alex định đút cho nó một miếng chân giò xông khói nhưng chú cáo đã nhanh nhẹn trốn vào một bụi cỏ rồi biến mất. Lần thứ hai nhìn thấy nó, Charlie đang ngậm một con cáo con trong miệng, quan sát hai đứa trẻ từ phía xa xa, lúc hai đứa đến gần thì không nhìn thấy gì ngoài những bụi cỏ um tùm và đám cỏ dại rậm rạp. Từ hôm đó, hai đứa quyết định đổi tên Charlie thành "Charis", tiếc là Charis không bao giờ xuất hiện nữa.

Chiến tranh vẫn tiếp tục, chỉ là nó chỉ diễn ra ở phía xa, tan vào cảnh vật. Ở Cornwall, hai cậu bé chỉ có thể nghe thấy tiếng vang yếu ớt. Thỉnh thoảng sẽ có một hai chiếc máy bay Spitfire cất cánh từ bờ biển rồi vẽ một đường vòng cung kéo dài từ tây sang đông, mỗi khi nghe thấy tiếng động cơ, Alex sẽ chạy ra "Nhà trên cây", leo lên đống gạch chỉ còn một nửa rồi vẫy tay với máy bay, bởi vì "George có thể ở phía trên".

Harry đút hai tay trong túi quần, cậu ngửa đầu nhìn, đến khi máy bay chiến đấu biến mất sau những tầng mây mới thôi.

- --

"Sau đó đến tháng chín năm 1940." Prudence nói.

Người phóng viên kiểm tra lượng pin của bút thu âm, anh đẩy mắt kính lên, lật sang một trang mới trong quyển sổ tay rồi viết "40/9".

"Ngày bốn tháng chín, George trở về, ngày ấy giống như dịp lễ giáng sinh, Martha khóc vì quá vui mừng. Đó là lần đầu tiên tôi gặp George Loiseau, gương mặt anh ấy góc cạnh hơn Alex nhiều, anh ấy không có má lúm, gò má cao hơn, trông vô cùng nghiêm trang. Anh ấy không thể ở lâu, thời gian nghỉ phép quá ngắn, đến buổi trà chiều đã phải rời đi. Lúc mới đầu thì Alex rất dính anh ấy nhưng đến buổi chiều thì lại mất tích, cậu ấy trốn trong 'Nhà trên cây', không muốn nói lời từ biệt với anh cậu ấy. Đó chính là cách mà Alex xử lý vấn đề." Prudence cười một tiếng, nhẹ nhàng thả phong thư lại vào trong hộp sắt: "Mười một ngày sau chính là ngày mười lăm tháng chín, cậu Rivers ạ."

"Nhiều cuộc không kích hơn?"

"Cuộc không kích kịch liệt nhất vào ban ngày." Prudence gật đầu: "Tôi không thể nói rằng tôi đã trải qua chuyện này, đối với tôi, ngày hôm đó là một ngày thật sự buồn chán, không thể đi ra ngoài chơi, cậu chỉ có thể chờ đợi, không ai biết chuyện gì đã xảy ra, tất cả chỉ là nghe hơi nồi chõ. Những thị trấn lân cận đều đã bị giải tán, mọi người di tản về nông thôn, họ tụ tập trong nhà của những người xa lạ, vây quanh chiếc đài phát thanh, trông cứ như những con vịt chết khát đang chờ tin tức mới. Bầu không khí trong phòng bếp như một buổi tang lễ, người làm vườn không ngừng hút thuốc, Martha thì không ngừng cầu nguyện, tôi và Alex cũng không được phép đi ra ngoài, đó là lệnh của Nam tước, lần này ông ấy vô cùng nghiêm túc. Cả buổi chiều vẫn không có tin tức gì, trong đài phát thanh chỉ có tiếng ồn do tĩnh điện, cô Carlston từ bưu điện đã đến dinh thự bằng xe đạp, thông báo rằng London đã bị san bằng, Birmingham cũng vậy. Chúng ta cũng mất đi đường dây liên lạc với London nhưng đường dây đến Manchester vẫn còn hoạt động, tin tức này tới từ bên đó. Khoảng mười giờ tối, trời vẫn chưa tối, chúng tôi đã bị ép phải về phòng ngủ, ngày hôm đó kết thúc."

"Ngày mười bảy tháng chín, Nam tước nhận được thông báo George mất tích."

Người phóng viên ngẩng đầu lên: "Theo tôi được biết, George không..."

Prudence ra hiệu anh đừng lên tiếng, ngón trỏ đè trên môi: "Đừng vội cậu Rivers ạ, chỉ có hai loại người vội vàng hỏi kết cục khi câu chuyện vẫn chưa kết thúc: Trẻ con chưa học xong đọc viết và người vốn không muốn lắng nghe câu chuyện. Không, George không chết, anh ấy hạ cánh khẩn cấp ở một nơi có tên là vịnh Henney, ngoài cánh tay bị gãy thì không còn vết thương nghiêm trọng nào cả, người dân ở đó đã đưa anh ấy về căn cứ không quân ở Southampton... Chúng tôi biết tất cả những chuyện này vào hai tháng sau, đau khổ suốt hai tháng, sau đó kỳ tích bỗng từ trên trời rơi xuống. Tôi không biết liệu kỳ tích có phải là một cách nói chính xác hay không nhưng xem xét những chuyện đã xảy ra sau đó, có lẽ George chết trong cuộc không kích đó mới là kết cục tốt hơn. Chuyện này để nói sau đi, chúng ta không thể nhảy nhanh quá, đúng không? Phải tránh cho ghi chép của cậu bị rối loạn nữa chứ." Prudence thở dài: "Mà tôi khi ấy, vì tính bốc đồng trẻ con và sự tự tin thái quá mà đã đưa ra một quyết định hỏng bét trong khoảng thời gian tiếp theo. Tôi đã định sẽ lén trở lại London để tìm mẹ của tôi, cậu có thể nói đây là trực giác của một đứa trẻ. Trên người tôi không có cả một xu cho nên xe lửa không nằm trong phạm vi lựa chọn. Tôi đã mượn chiếc xe đạp của Martha, nói với bà ấy rằng tôi muốn đến bưu điện. Lấy một ít chân giò xông khói và bánh mì từ phòng bếp, tôi nhét tất cả vào trong balo. Sau đó tôi đi tìm Alex, nói với cậu ấy rằng tôi phải đi."

"Cậu ấy nói: 'Tớ với cậu cùng đi'."

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play