Thiên nhãn mở ra rồi,
con đường Minh Khánh đi thuận lợi bình an đến không ngờ. Ngày đi đêm nghỉ, hắn tới đầm Nhất Dạ sớm hơn dự kiến gần một ngày. Minh Khánh đứng bên bờ nước nhìn ra. Đó là cả một vùng nước
mênh mông, lau lách um tùm. Mặc dù trong đầm cũng có một số
loại động vật nguy hiểm như cá sấu hay trăn, rắn và các loại
côn trùng có độc nhưng Minh Khánh biết thứ đáng sợ nhất trong
đầm không phải là chúng. Người ta sợ hãi đầm Nhất Dạ bởi vô
số những cái bẫy chết chóc nhất của tự nhiên ẩn trong lòng
nó. Đó chính là các vũng lầy. Dù là người tu đạo hay người
bình thường, một khi rơi xuống những cái vũng đó thì hầu như
đều phải mất mạng.
Minh Khánh có đọc qua cuốn sách Nhập hồn của Kim Thiền chân
nhân , một trong những thầy trừ tà nổi tiếng nhất suốt chiều
dài lịch sử. Trong đó ông có kể về việc đi tìm thần xác của
kẻ xấu số thông qua việc để linh hồn người chết nhập vào
người. Ông cảm nhận được những cái chết thông qua ký ức của
người xấu số. Một trong những cái chết khiến ông khiếp đảm
nhất là cái chết gây ra bởi đầm lầy. Khi nạn nhân rơi xuống vùng sình lầy, dù là đứng yên hay cố gắng vùng vẫy thì cái chết cũng sẽ mau chóng đến với bạn. Chân không có điểm tựa, mọi nỗ lực “bơi” hay di chuyển đều là vô vọng. Chẳng mấy chốc kẻ xấu số bị đầm lầy nuốt chửng. Khi
không còn có thể nín thở được nữa thì bùn và cát sẽ tràn đầy phổi, dạ
dày. Chúng sẽ đúc tượng nạn nhân từ trong ra ngoài trước khi nhấn
chìm người đó xuống phần lỏng hơn phía đáy của đầm lầy. Sau đó kẻ
xấu số sẽ vĩnh viễn nằm lại dưới đó mà không một ai biết.
Bởi thế trong đầm Nhất Dạ, tất cả mọi người đều phải đi
thuyền. Minh Khánh đi dọc bờ khoảng năm dặm thì tìm thấy bến.
Ở đó có rất nhiều người chờ đò tụ tập chỉ để kiếm ít đông
bạc sống qua ngày. Minh Khánh chọn con thuyền nhỏ của một ông
già tóc bắt đầu điểm bạc. Minh Khánh ngồi lên phía mũi
thuyền, bắt đầu ngắm cảnh xung quanh. Ông lão dường như rất
thuộc đường, chỉ trong chốc lát đã đưa con thuyền đi vào trong
đám lau sậy. Qua lớp sương mù dày đặc, Minh Khánh phát hiện ra
con thuyền đang đi trên một dòng nước rộng chỉ tầm chưa đến hai
trượng, hai bên bờ là một rừng lau sậy um tùm.
Thỉnh thoảng Minh Khánh lại thấy những con chim bay lên từ trong bụi khi nghe tiếng chèo khua nước. Hầu hết trong số chúng là
cuốc hoặc một loại cò trắng nhỏ. Đôi khi là bói cá hoặc
những loài chim lạ mà Minh Khánh không biết tên.
Ông lái đò dường như đã thuộc lòng con đường. Mỗi lần gặp
ngã ba hay khúc quanh ông đều điều chỉnh thuyền đi ở giữa dòng, tay chèo thậm chí không hề lắc lư. Đi qua một đoạn, Minh Khánh
nhìn thấy một dãy những ngôi mả đắp cao nằm gọn gàng bên bờ
nước. Chúng dường như đẫ có từ rất lâu rồi. Những hàng chữ
trên tấm bia đá đã mờ đến nỗi đôi mắt tinh của Minh Khánh cũng không nhận ra. Hắn cất giọng hỏi ông chèo thuyền:
-“Ông ơi, những ngôi mộ này là của ai mà nằm tận trong này hả ông?”
Ông lái đò cười khà khà hỏi lại: “Cậu mới đến đây lần đầu đúng không?”
- “Vâng”
Ông ta lại hỏi: “Thế cậu đã nghe về vua Lí Nam Đế bao giờ chưa?”
Thấy Minh Khánh gật đầu, ông bèn cao giọng ngâm:
“"Bốn phương phẳng lặng can qua,
Theo nền nếp cũ lại ra Long Thành".”
“Khi đế quốc hùng mạnh ở phương Bắc tung binh xâm lược, , Lý Nam
Đế gặp thất bại ở trận hồ Điển Triệt. Ông bèn trao hết binh quyền cho
Tả tướng Triệu Quang Phục. Nhưng lúc này số binh lực dưới tay ông
ba phần chỉ còn lại hai. Triệu Quang Phục quyết định lui về ẩn náu ở đầm Nhất Dạ ở Khoái Châu. Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy,
người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt
trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc
không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết, bị vũng lầy nuốt chửng. “
“Triệu Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn hai vạn người
vào đóng ở nền đất trong đầm,Ông dùng chiến thuật du kích, ban ngày
tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem
quân ra đánh doanh trại của quân xâm lược, cướp hết lương thực vũ khí,
giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu
dài. Giặc phương Bắc thua tan tác. Triệu Quang Phục được dân
chúng tôn xưng làm Dạ Trạch Vương. Từ đó đầm Nhất Dạ còn có
một cái tên nữa là đầm Dạ Trạch. “
Rôì ánh mắt ông lão trở nên đầy tự hào.
“Trong những ngày khó khăn nhất bị giặc ngoại xâm truy lùng càn quét, phải ăn gạo rang, thịt sống, thậm chí là rễ cây để sinh tồn, thế nhưng có rất nhiều binh lính đã chiến đấu đến hơi
thở cuối cùng để ngăn cản bước chân quân thù tiến vào vũng
đất trung tâm của đầm. Nhờ đó đội quân của Dạ Trạch Vương mới
có thế đứng vững trước sự càn quét của giặc phương Bắc. Sau
khi đuổi giặc ngoại xâm đi rồi, những binh lính đó đều được
đồng đội và dân trong vùng mai táng cẩn thận. Những ngôi mộ
này chính là có từ thời điểm đó.”