Ngày tôi lấy vợ, tôi gặp mẹ tôi đứng cùng cha trong buồng. Mắt bà ướt đẫm. Mắt ông đục ngầu. Họ cười. Vợ tôi nắm chặt lấy tay tôi, cùng nhau bước ra giữa lễ đường. Chúng tôi trao cho nhau những ly rượu đỏ thẫm. Khi tôi trao nhẫn cưới vào tay của vợ tôi, cô cười thật to. Bỗng tôi vô tình nhìn vào mắt cô. Bỗng tôi ngã nhào ra phía sau. Cha Sứ nhào đến đỡ tôi đứng dậy, ông không biết tôi lúc đấy cảm thấy như thế nào. Căn bệnh quái ác lại trỗi dậy trong đầu tôi. Tôi không thể nhớ. Không thể nhớ được tên của người con gái đang đứng trước mặt tôi. A? B? C?... Đó là bảng chữ cái. Gián? Rết? Không, đó là côn trùng. Chó ? Không, đó là tôi. À, không đó không phải tôi. Bụng tôi đau nhói. Tôi đã ném chiếc nhẫn cưới xuống dưới mặt đất trước mặt người vợ chưa chính thức của tôi. Thật ra không cần thiết nữa, vì tôi quên mất phải đeo nhẫn ngón nào. Tôi tháo mảnh vải đã băng bó cổ tay tôi mười mấy năm trời.
Rồi tôi phóng lên xe của cha tôi, chạy khỏi lễ đường. Tôi không biết tôi chạy đi đâu, chỉ biết là đủ xa để tôi quên mất đường về nhà.
Hai mươi năm sau, tôi đi ngang qua nhà tôi. Tôi cầm chai rượu, một tay phủi sạch bụi đất trên cơ thể. Tôi bước vào nhà. Tôi đã hoàn toàn hết bệnh. Tôi đã tập sống chung với nó và thật kì diệu, nó đã buông tha cho tôi. Tôi mở cửa phòng khách ra. Cha và mẹ tôi ngồi đó, nhìn tôi không nói một lời. Ông ấy và bà ấy không thể thoát khỏi căn bệnh đó, họ đã quên cách đối mặt với một thằng chó đẻ như tôi. Tôi đi khắp căn nhà, nhìn ngắm nó sau bao nhiêu năm đã không nhìn thấy. Tôi nhìn thấy nhiều thứ.
Ly sữa tôi quên bỏ đường vẫn còn trên bàn ăn.
Những quyển vở tôi để quên nằm trên bàn học.
Những chiếc xe máy và những cái điện thoại đã trở về.
Vợ tôi và chiếc nhẫn đang nằm ngủ trong phòng.
Và đâu đó trong nhà, một mùi hương dễ chịu nhưng đượm buồn thoảng bay qua. Tôi ước gì mình nhớ ra đó làm mùi gì. Tôi nhìn lại ngôi nhà một lần cuối. Tôi lạy cha mẹ, và bước thẳng ra cổng, không quay đầu lại.
Sau lưng tôi, hai người khóc như hai đứa trẻ con.