Liễu Huệ đứng lấp ló mãi mà vẫn chưa dám gọi trong khi lòng dạ cô nóng ran, không thể chờ được nữa. Bên trong, anh chàng Thanh An đang say sưa giảng bài các học sinh đang chăm chú lắng nghe... Chính điều đó đã khiến cho Huệ không dám lên tiếng.
Chợt An từ trong đưa mắt nhìn ra, Huệ cố gọi vừa đủ nghe:
- Cậu An! Cậu...
Thanh An đã nhìn thấy, anh vội chạy ra, tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Em đi đâu giờ này mà lại ở đây?
Liễu Huệ đưa nhanh cho An cuốn sổ nhỏ:
- Có lời nhắn của cô Trúc Quỳnh trong đó. Và cậu phải mau theo em, kẻo không kịp nữa!
Xưa nay An và Quỳnh vẫn thường liên lạc với nhau qua quyển sổ này, và dĩ nhiên người làm cầu nối là Liễu Huệ. Thấy thái độ của Huệ, Thanh An hiểu là có chuyện hệ trọng, anh hỏi nhanh:
- Chuyện gì vậy, Huệ?
Huệ không đáp, kéo mạnh tay anh lôi đi: - Đi nhanh kẻo không còn kịp nữa!
An khựng lại:
- Làm sao tôi đi được lúc này. Lớp học đang còn...
- Lớp gì cũng bỏ! Nếu không, cậu hối hận không kịp đó.
Huệ vùng bỏ chạy, còn An đang lúng túng chưa biết phải làm sao thì may sao có một thầy giáo khác từ ngoài bước vào, An mừng rỡ:
- Anh Phùng, dạy giùm tôi tiết học sau với. Tôi có việc nhà quá gấp!
Thầy Phùng gật đầu:
- Cũng được. Nhưng ngày mai thầy lại phải bù cho tôi đấy nhé.
Thoát ra được, An phóng nhanh theo Liễu Huệ. Phải hơn nửa đường anh mới bắt kịp.
- Chuyện gì, nói cho tôi nghe đi Huệ?
Huệ càng chạy nhanh hơn, vừa giục:
- Lẹ lên, cái cậu này chậm như rùa!
Thấy không khai thác được gì thêm, Thanh An cố bước nhanh hơn. Lát sau đã tới trước ngôi nhà to nhất vùng: Nhà Đốc phủ Vệ. Từ ngoài, An đã nghe tiếng huyên náo hơi lạ bên trong, nên có ý rụt rè, chưa dám bước vào. Liễu Huệ lại giục: - Nhanh lên cậu!
Bằng cửa hông, An theo Huệ vào nhà trong. Đây là nhà mà từ gần ba năm qua An đã trọ học, nhưng bởi kiếp ăn nhờ ở đậu, nên lúc nào vào ra anh cũng khép nép. Mặc dù có một người trong nhà này, thân thiết còn hơn ruột thịt.
An nghe tiếng gào lên của bà Phủ:
- Cũng tại ông hết! Ép nó làm gì để bây giờ nó đóng cửa phòng trốn biệt, không ra mà cũng chẳng màng đến ăn uống. Bộ ông muốn hại con mình đến chết hay sao?
Không nghe tiếng ông đáp lại, An hơi yên tâm. Bởi thật lòng mà nói, mỗi khi phải giáp mặt ông là An thấy lo lo.
Nhìn thấy An về, bà Phủ như chết đuối vớ được phao:
- Con Quỳnh trong đó. Con gọi nó giùm bác coi!
An chưa hiểu đầu đuôi chuyện ra sao, nhưng cũng gọi to:
- Quỳnh ơi! Quỳnh!
Bấy giờ mới có tiếng của ông Phủ Vệ:
- Để đó tao!
Ông ta vốn không có cảm tình với An, ai trong nhà cũng hiểu điều đó, nên vừa nghe ông nói vậy thì cả bà Phủ và Liễu Huệ đều liếc nhìn An, ngầm bảo An lui ra, nhưng trong lòng anh chàng đang sôi lên nỗi lo, nên anh quên sự có mặt của khắc tinh bên cạnh, vẫn cất tiếng gọi: - Quỳnh ơi!
Vẫn không nghe tiếng đáp lại từ bên trong, nên lúc này bà Phủ mới là người sốt vó, bà gào to:
- Tông cửa vào đi!
An chưa dám làm thì đã có tiếng ông Phủ:
- Mấy đứa kia đâu, đạp bung cửa ra!
Có lệnh của ông, hai tên lính vệ dùng hết sức đạp bung cánh cửa gỗ kiên cố. Cửa vừa bật ra thì cùng lúc có mấy tiếng thét kinh hoàng lên:
- Trời ơi!
Trong phòng, xác Trúc Quỳnh treo lơ lửng giữa trần nhà. An là người nhào vô trước, anh chụp lấy chân nàng đỡ lên. Nhưng lúc ấy anh đã cảm nhận được rằng mình tới đã quá trễ. Trúc Quỳnh đã chết!
Bà Phủ như điên loạn, ôm xác con, bà xỉa xói về phía chồng:
- Ông là người gϊếŧ con! Chính ông, ông Phủ Vệ ơi, chỉ vì ông bắt ép nó.
Có lẽ sợ vợ nói ra điều ông không muốn ai biết, nhưng trong lúc này lòng ông cũng đang rối bời, sửng sốt, nên lời ngăn cản chỉ mang tiếng chiếu lệ: - Chuyện đó mà cũng nói.
Bà Phủ được nước lại càng gào to:
- Tôi nói rồi, chuyện gì cũng để từ từ tính, ông lại quyết liệt bắt ép nó! Cũng chỉ vì bên chỗ khốn nạn đó, nó nói gì cũng nghe, để đến nông nổi này, vừa lòng ông chưa! Ông ở lại đó mà sống, tôi chết theo con tôi.
- Quỳnh ơi!
Thi thể Trúc Quỳnh còn chưa lạnh, chứng tỏ nàng mới tắt thở chưa lâu, lúc này Liễu Huệ mới vừa khóc vừa nói khẽ.
- Em đã giục cậu đi mau lên mà cũng không kịp.
An giờ mới hiểu ra, Liễu Huệ tới gọi anh đi gấp là lúc Trúc Quỳnh đã vào phòng đóng cửa để tránh mặt đám người của nhà đại phú gia họ Đoàn, những người mà ông Phủ Vệ quyết tâm kết làm thông gia, mặc dù Quỳnh nhiều lần cương quyết chối từ. Cách đây mấy hôm, chính Quỳnh đã báo cho An biết tin này và nàng còn quả quyết với anh rằng nếu gia đình ép quá đáng thì nàng sẽ bỏ nhà trốn đi chớ quyết không chấp nhận. - Ông vừa lòng chưa? Ông đem xác con ông đi mà gả cho họ!
Bà vừa gào vừa lao tới ông Phủ Vệ như muốn xé xác ông ta ra. Tranh thủ lúc đó, Liễu Huệ lại nói khẽ với An:
- Cô Quỳnh còn gửi vật này cho cậu đây.
Đó là chiếc quạt giấy, vật mà trước đây An đã tặng cho nàng. Và đây là vật mà ít khi nào Quỳnh chịu rời ra, ngoại trừ...
Liễu Huệ nói thêm:
- Cô Quỳnh dặn đưa ngay cho anh một lượt với cuốn sổ. Nhưng vì quá vội nên lúc nãy em quên. Không biết cô có ý gì...
An nhìn thấy ở đầu cây quạt có một dòng chữ viết tháo: ""Dù thế nào cũng ở bên em, anh nhé!""
- Quỳnh ơi!
Thì ra đó là những lời trối trăng của nàng. Có nghĩa là Quỳnh biết trước kết cuộc này. Vậy mà An thì vẫn vô tình.
Liễu Huệ đưa sơ đồ địa điểm nhà cho An, vừa dặn:
- Chính bà chủ đã dặn em đưa cho cậu. Bà không nói điều này cho ông biết. Trong tờ sơ đồ vẽ một ngôi nhà nằm trong một điền trang lớn ở một vùng núi khá rộng. Huệ giải thích thêm:
- Đây là điền trang riêng của ông bà, cách nơi này khoảng ba mươi dặm. Nơi đó có sẵn một ngôi nhà khang trang, trước đây xây dựng dành để cho gia đình nghỉ dưỡng vào mùa hè, nhưng từ nhiều năm rồi do ông bận việc quan trường nên rất ít về đó. Nửa năm trở lại đây thì ông lại bị đau nặng một bên chân, nên chắc chắn là sẽ không còn cơ hội về nơi ấy. Đường đi hơi khó, nhưng là nơi có khung cảnh bình yên, thơ mộng. Bà quyết định đưa cô Trúc Quỳnh về đó mai táng là có ý để cho cô cậu có điều kiện gần gũi bên nhau, bởi bà biết ý cô và cậu nữa, dẫu âm dương đôi đường nhưng chắc không muốn rời xa nhau!
An cầm tờ sơ đồ lên tay mà chua xót trong lòng. Anh chép miệng: - Sống không cho gần nhau, thì chết rồi còn nghĩa lý gì đâu!
Liễu Huệ là người hầu của Trúc Quỳnh từ hơn chục năm, được cô chủ thương và tin tưởng, mà cả bà Phủ cũng mến, nên cô nàng biết khá nhiều chuyện:
- Cậu không biết chớ đã nhiều lần bà bênh vực cậu quyết liệt, không để cho ông đuổi cậu đi. Bà thương cậu, nhưng trước uy quyền quá lớn của ông nên đành phải bất lực.
Anh đâu còn ai để tâm sự nên phải nói với Huệ:
- Tôi biết chớ. Chỉ vì làm theo lời mẹ tôi dặn lúc lâm chung, nên tôi mới cắn răng tới ở đây để đi học, rồi khi đi ra trường tôi đã có ý đi tìm chỗ trọ khác, nhưng Trúc Quỳnh không cho.
Huệ thêm vào:
- Cô đời nào để cậu đi! Cô Quỳnh đã nhiều lần kể cho em nghe chuyện gia đình cậu và ông bà Phủ hứa với nhau kết thông gia khi cậu và cô Quỳnh lớn lên. Cho đến khi thấy cảnh nhà cậu sa sút thì ông đổi ý, muốn hủy hôn. Chính cái ngày ông Phủ tuyên bố hủy hôn thì đã một lần cô Quỳnh khóc hết nước mắt, đòi bỏ nhà đi, làm cho ông phải cho người canh giữ cô ấy rất kỹ. Lần đó là lúc cậu gần thi tốt nghiệp, cậu nhớ không? An gật đầu:
- Đó là lần ông ấy đuổi tôi ra khỏi nhà. Cũng nhờ bà Phủ ngăn lại và cũng vì lo cho Quỳnh nên tôi bấm bụng, chịu nhục ở lại đây...
Vừa giúp An chuẩn bị hành lý, Huệ lại dặn:
- Bà dặn em đừng để cho ông biết chuyện này. Hình như ông cũng không thích cậu dính líu bất cứ chuyện gì trong nhà này. Mà này, cậu...
Liễu Huệ định hỏi gì đó thì vừa lúc có tiếng quát tháo của Phủ Vệ bên ngoài, nên cô ngưng ngay, vừa đi ra vừa dặn:
- Khi nào sửa soạn xong cậu cứ đem đồ ra bờ sông, có chiếc ghe nhỏ đợi sẵn ở đó, chừng hai mươi phút sau thì em sẽ ra tới. Em đích thân đưa cậu đi.
An ái ngại:
- Đường xa, cô đi đâu có tiện?
Huệ cười:
- Đâu có sao. Em vốn là dân sông nước, lại quen địa hình vùng này như lòng bàn tay, cậu An không phải lo.
An vừa hồi hộp, vừa mừng vui. Bởi đây là lần đầu tiên sau hơn một tháng anh mới có dịp tới chỗ chôn cất Trúc Quỳnh. Hôm di quan Quỳnh đi, chẳng hiểu có ý gì mà Phủ Vệ đã quyết liệt ngăn cản không cho An đi theo. An đã tính liều mạng chống lại quyết định ấy, nhưng bà Phủ đã ngầm bảo An cố chịu đựng, và hôm nay An mới hiểu ý của bà mẹ tốt bụng đó. Bà đã ngầm bố trí cho An chuyển tới sống hẳn ở điền trang, và như thế là bất cứ phút giây nào anh cũng ở bên cạnh Quỳnh mà chẳng làm phiền lòng ai. Cũng chính bà đã ngầm vận động cho An chuyển về dạy ở ngôi trường gần điền trang, để anh không phải vất vả đi về trường cũ quá xa xôi. Dẫu sao thì An cũng cảm ơn và được an ủi là trong gia đình Phủ Vệ vẫn còn có những người không tệ bạc. - Cậu An ơi!
Nghe tiếng gọi khẽ của Liễu Huệ ngoài cửa sổ, An bước ra và hiểu là có chuyện, An hỏi nhanh:
- Có gì trục trặc chăng?
Huệ đưa một gói giấy nhỏ, bảo:
- Ai gửi cái này cho cậu mà để ở ngoài cửa phòng, em sợ ông thấy nên cầm ra đây cho cậu, vừa tiện báo cho cậu nên đi ra ngay, trong lúc ông đang có khách ở nhà trên.
An cầm gói giấy dán kín trên tay ngạc nhiên hỏi:
- Cái này của ai vậy?
Huệ gấp rút chạy đi trước, An đành phải xách va li chạy theo mà vẫn còn thắc mắc về vật cầm trên tay.
Mãi đến khi ghe đã rời bến rồi, anh mới hỏi:
- Cô nói ai gửi cho tôi cái này?
- Em không biết, hỏi bà thì bà cũng không biết. Cậu mở ra xem là cái gì?
An nhẹ tay mở ra và kinh ngạc:
- Cái áo cánh lụa màu vàng này là của... của Trúc Quỳnh.
Liễu Huệ xác nhận:
- Đúng là của cô Quỳnh! Nhưng lạ quá cậu An... Huệ ngừng tay chèo, cầm lấy chiếc áo lụa nhìn kỹ:
- Chính tay em giúp bà mặc chiếc áo này cho cô Quỳnh hôm tẩm liệm cô ấy, mà sao bây giờ nó lại ở đây?
An run lên vì xúc động:
- Đúng là áo của Quỳnh rồi. Nó có hơi của cô ấy đây.
Liễu Huệ đưa trả chiếc áo lụa cho An vừa lẩm bẩm:
- Không lẽ...
An hỏi lại:
- Cô vừa nói gì?
- Dạ... không có gì.
Thật ra Huệ đang nghĩ đến điều mà cô cảm thấy nổi gai ốc cả người. Vốn người rất nhạy cảm, nên Huệ có lẽ cảm nhận được điều lạ trước hơn An. Cô lén nhìn An, đưa mắt dò xét... Thấy An ngây người ra, cô im lặng để không phá vỡ dòng suy tư của anh. Mãi khi ghe tới ngay một khúc sông rộng thì Huệ nhắc:
- Cậu An có nhớ lần mình đi về quê ngoại cô Quỳnh không? Khi đi ngang qua đây, cô Quỳnh đã đố cậu cái cây gie ra sông kia là cây gì, khi cậu trả lời đúng tên thì cô ấy giận cậu. An cười gượng:
- Nhớ chớ. Đó là cây bần. Khi tôi nói tên cây và ví nó như mình thì Quỳnh giận ra mặt, cấm không cho tôi nói như vậy nữa. Mà cũng lạ, tôi nghèo, ví mình như cái cây mọc bơ vơ ven sông đó, sao Quỳnh lại cho tôi yếm thế, mỉa mai.
Liễu Huệ vẫn còn bênh cô chủ mình:
- Lúc nào cô cũng không muốn cậu mang mặc cảm giàu nghèo. Bởi dưới mắt cô, cậu đâu phải thầy giáo nghèo, đâu phải là người bị rẻ rúng.
An nhẹ lắc đầu:
- Thực tế là vậy rồi, chối bỏ làm gì!
Thấy An không vui, Liễu Huệ thôi không nói chuyện đó nữa, cô chuyển sang chuyện khác:
- Em hỏi thật liệu về sống ở điền trang này cậu chịu được bao lâu?
- Sống mãi ở đó.
- Đấy là cậu nói đó nhé! Không ai ép...
An sa sầm ngay nét mặt:
- Từ Iâu nay cô Huệ biết tính tôi. Đâu bao giờ tôi đùa giỡn với tình cảm dành cho Quỳnh. Xin cô tôn trọng cho. Liễu Huệ hoảng hốt:
- Dạ không, em không có ý đó! Xin cậu...
An nghiêm giọng:
- Tôi sẽ ở với Quỳnh, kể cả khi cha mẹ cô ấy không cho nữa thì tôi vẫn tìm cách ở lại điền trang đó. Làm người quét lá, dọn vườn cũng được!
Huệ pha trò cho nhẹ bầu không khí:
- Em đang tính xin với ông bà về điền trang để ngày ngày được hầu hạ cô Quỳnh như khi cô còn sống, vậy chắc là không có việc làm rồi! Cậu An giành mất còn đâu!
An mải lý sự mà quên chiếc áo cánh còn trong tay, khi nhớ ra, anh đột nhiên hỏi:
- Huệ nhớ lại xem, có phải chiếc áo này đã cho vào áo quan?
Huệ gật đầu quả quyết:
- Chính tay em đưa cho bà và bà bảo em đặt lên ngực của cô Quỳnh, bởi khi sống cô ấy thích chiếc áo màu vàng này nhất, trong số bốn năm chiếc khác màu. Chẳng biết lý do gì... Em không thể lầm!
An muốn tiết lộ chính anh là người đã mua tặng cho Quỳnh chiếc áo này, và cũng là chiếc áo mà cô nàng luôn mặc mỗi sáng khi đứng nép bên rào tiễn anh đi dạy học. - Thưa cậu...
Liễu Huệ định nói gì đó, nhưng lúc ấy An đang thẫn thờ đưa mắt nhìn ra xa, nên cô chỉ nhẹ thở dài im lặng...
Đến xế trưa hôm đó thì họ tới nơi. Khu điền trang này An mới đến lần đầu, nên khi vừa bước lên bờ, anh đã hỏi:
- Mộ của Quỳnh chôn ở đâu?
- Ngay cạnh ngôi nhà kia. Tuy nhiên vừa đi đường xa đến, cậu không nên ra mộ ngay. Vả lại cậu còn ở đây lâu dài mà, lo gì...
An rất nôn nóng muốn gặp lại người yêu, nên mặc cho Huệ nói, anh hấp tấp đưa hành lý vào nhà rồi bảo Huệ:
- Cô giúp tôi thu xếp chỗ. Tôi ra ngoài một chút.
Không cần hỏi thêm, An bước đi như chạy, nhầm hướng sau nhà. Và anh tìm được khu nghĩa trang gia đình, gồm bốn ngôi mộ nằm quây quần nhau. Trong số đó, mộ của Trúc Quỳnh mới xây nổi bật giữa thảm cỏ xanh rì.
Hôm đi an táng Quỳnh, An bị cấm không cho theo, nhưng sao lạ quá, trên mộ bia của nàng có đôi dòng chữ màu đỏ được viết khác hẳn với những chữ chạm khắc thông thường. Mà những chữ này lại chính là câu thơ của chính An tặng cho Quỳnh cách nay đã lâu! Chẳng lẽ cha mẹ Quỳnh cho viết lên đây? An đưa tay sờ lên hai dòng chữ thì... từng chữ một dính theo tay anh xóa mất mấy chữ.
- Không!
An rụt tay về và cảm giác như tay mình buốt lạnh, và màu đỏ kia chẳng khác màu máu!
- Có ai đó vừa viết những chữ này?
An chưa biết hỏi ai thì đã có giọng của Liễu Huệ:
- Đã nói rồi, cậu chưa khoẻ mà...
An quay lại hỏi ngay:
- Ai đã viết những dòng này lên bia?
Huệ ngạc nhiên:
- Chữ nào?
An quay lại chỉ, dòng chữ bị ngón tay anh xóa vừa rồi đã... hiện trở lại như trước đó, không thiếu một nét!
Không tin vào mắt mình, anh ghé sát mắt vào nhìn, vừa định gí tay vào lần nữa, nhưng lại sợ chữ bị biến đi.
Huệ thấy lạ liền hỏi:
- Chuyện gì vậy cậu An?
- Cô có biết ai viết hai dòng chữ màu đỏ này lên bia không?
Liễu Huệ bước đến gần xem kỹ, rồi lắc đầu:
- Hôm dựng bia có mặt em, đâu có thấy những dòng này đâu. Cô vô tình đưa tay chạm vào và rụt ngay tay về, kêu lên:
- Lạnh quá!
Huệ có cảm giác lạnh buốt cả đầu ngón tay. Vừa lúc An la lên:
- Cô đừng chạm vào đó!
Lần này những dòng chữ cũng bị xóa đi ngay chỗ Huệ vừa chạm vào. Tuy nhiên màu đỏ không bám theo tay của Huệ, mà chảy dài xuống mặt đá phẳng bóng. Chẳng khác gì những giọt máu đang tuôn trào!
Trong lúc An lặng người đi thì Huệ bỗng hốt hoảng, lùi lại:
- Cậu An!
An ra dấu cho Huệ đứng yên, còn anh thì lại đặt tay vào đúng chỗ những chữ vừa mất. Như một điều kỳ diệu, dòng chữ lại y nguyên như trước! An nói, như chỉ muốn mình Quỳnh nghe:
- Anh hiểu rồi, bây giờ anh đã có mặt và mãi mãi sẽ ở bên em!
Anh quay lại bảo Huệ:
- Cô có thể về được rồi đó. Tôi sẽ ở lại đây, không cần phải làm quen chỗ đâu.
- Nhưng bà Phủ dặn em là phải chờ cho cậu sắp xếp mọi việc xong rồi mới về, nhất là việc dẫn cậu đến trường học gần đây để cậu nhận việc đã. An trấn an:
- Không sao đâu. Tôi tự lo liệu được.
Liễu Huệ vẫn không chịu:
- Vậy thì cậu cũng phải vào nhà để em dặn mấy điều quan trọng này. Bà sẽ rất buồn nếu cậu không làm theo.
Dẫu đang rất muốn một mình ở lại bên mộ, nhưng nghe vậy, An đành miễn cưỡng đứng lên theo vào nhà. Căn phòng chính trong nhà dành riêng cho An, cửa vẫn khóa. Huệ bảo:
- Bà dặn khi tới đây phải chính cậu với lên trên cao lấy chìa khóa phòng. Ở trên đầu hồi, em không với tới được.
An rất khó khăn mới lấy được xâu chìa khoá bám đầy bụi, chứng tỏ từ lúc để đến giờ chưa một lần lấy xuống. Huệ dặn:
- Cậu mở cửa phòng rồi đưa hành lý vào, để em đi làm mấy món ăn cho bữa cơm chiều giúp cậu rồi về cũng không muộn.
An vừa đẩy cửa phòng vào đã khá ngạc nhiên thấy trên giường ngủ chăn, nệm, gối được xếp ngay ngắn, gọn gàng và còn có mùi hương nhẹ thoảng khắp cả phòng. Dấu hiệu căn phòng mới chớ không phải bỏ lâu ngày! Bật diêm tìm cây đèn dầu hay nến, nhưng vừa khi ấy tự dưng toàn gian phòng sáng trưng. Bóng đèn điện đang cháy khiến An ngỡ ngàng. Anh không nghĩ chốn sơn trang này lại có đủ tiện nghi thế này. Nhưng ai đã bật điện, trong khi anh chưa hề chạm vào công tắc điện?
Nhìn một lượt khắp gian phòng An càng ngạc nhiên hơn, bởi bốn bên tường đều có treo những bức thư pháp toàn những câu thơ của An và Quỳnh. Kể cả những đoạn hai người viết cho nhau một cách kín đáo cũng được chép lại ở đây. Mà chữ thì rõ ràng là của chính Trúc Quỳnh!
- Sao lại thế này?
An còn đang hoang mang thì đã nghe tiếng la thất thanh của Liễu Huệ:
- Cậu An ơi, ra xem nè!
An chưa kịp bước ra thì Huệ đã đứng bên ngoài cửa phòng, sắc mặt hớt hải:
- Ai... ai đã... dọn cơm sẵn rồi.
An bước xuống nhà bếp, anh nhìn thấy trên bàn ăn một mâm cơm còn bốc khói, ai đó đã dọn sẵn. - Cô làm phải không Huệ?
Liễu Huệ giọng vẫn còn run:
- Em mới xuống là đã nhìn thấy rồi.
Nhìn kỹ hơn, An nhận ra toàn những món ăn khoái khẩu của mình. Tuy chưa một ngày chung sống với nhau, nhưng ngoài Quỳnh ra thì chưa một ai rành sở thích của An như vậy. Bởi đã đôi lần Quỳnh hỏi An thích ăn gì, mặn lạt ra sao. Quỳnh bảo phải biết rõ sở thích của anh, để sau này thành vợ chồng còn biết đường mà phục vụ. Đứng im một lúc, An lẩm bẩm:
- Chính Quỳnh đã làm chuyện này.
Nghe không rõ, Liễu Huệ hỏi lại:
- Cậu An nói sao?
An nhẹ lắc đầu:
- Không có gì.
Trong lòng An đang lóe lên một điều gì mà ngay lúc đó anh cười một mình. Ngại Huệ hỏi thêm lôi thôi, An mời:
- Huệ cùng tôi ăn bữa cơm này rồi về kẻo muộn. Chẳng biết ai nấu, nhưng chắc là ai đó có ý tốt, nên mình cũng chẳng ngại. Liễu Huệ tìm cách về ngay:
- Thôi, để em về cho kịp con nước xuôi dễ đi. Cậu cứ ăn đi.
Khi Huệ ra tới ngoài rồi, An chợt nhớ nên chạy theo dặn:
- Cô chớ nên kể cho ai nghe những gì thấy nãy giờ. Kể cả với bà Phủ.
- Nhưng bà có lòng với cậu mà!
An phải giải thích:
- Biết là vậy. Nhưng chuyện hôm nay còn chưa rõ ràng, nói e bà sẽ lo lắng. Để vài hôm tôi theo dõi kỹ rồi sẽ báo sau.
Huệ vốn tính thật thà, cô hứa liền:
- Cậu An không phải lo, em lúc nào cũng kín miệng. Miễn sao cậu sống được yên ổn là tốt rồi. Thôi, em về đây.
An ra bờ sông đứng, chờ cho Huệ đi thật xa rồi mới quay vào nhà. Chỉ còn lại một mình, lúc này An mới ngửa mặt lên trời nói thật to:
- Trúc Quỳnh của anh! Đừng hù doạ anh nữa!
Mặc cho An la, gào, bốn bề chung quanh anh vẫn lặng như tờ. Trời bên ngoài bắt đầu tối...
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT