Mấy hôm nay ông Út không được vui. Trong lòng ông cứ mãi buồn bực về việc cái chuồng gà bị kẻ trộm vào nẫng mất bầy gà giò.

Mà thật kỳ lạ, cái chuồng được đặt gần kề căn buồng của ông và cậu em trai bị bệnh nằm liệt giường. Ấy thế mà gà vẫn mất! Mất êm ru như không có việc gì xảy ra. Không một tiếng động. Không tiếng kêu la. Ngay cả con Lu thính nhạy thường ngày là thế, cũng không sủa tiếng nào...

Càng nghĩ ông Út càng thấy tức anh ách trong lòng. Có phải cái số ông làm nhà nhằm cung Lục súc hay sao, mà mấy năm nay không có gà ăn trong ba ngày Tết!

Đã lâu lắm rồi, từ lúc hai cụ thân sinh mất đi, để lại đứa em sống dở chết dở, ông chưa bao giờ biết đến mùi vị của thịt... Lúc thì cáo vào ăn hết gà, chỉ chừa lại nắm lông đỏ máu, nằm rải rác trong chuồng. Một vài sợi lông lua tua máu, còn được con cáo tinh quái tha đến tận sàn giường của ông và đứa em. Lúc thì kẻ trộm lẻn vào nhà khi ông đi ruộng, bắt mất gà...

Cái thằng em thật vô tích sự! Tối ngày nó chỉ trợn mắt, nhăn nhở cười với cái miệng méo xệch chứ nhất định không nói. Mà nếu nó biết nói, biết đâu lũ cáo lại sợ tiếng người mà không dám bén mảng đến gần. Đã thế nó cũng chẳng biết đi. Có khi nghe bước chân của người, nhà ông đã không mất trộm. Mà lại trộm giữa ban ngày cơ chứ!...

Mà thôi cũng không nên trách nó. Có trách hãy trách ông xanh, sao lại hẩm hiu cho ra đời một sinh vật không hoàn hảo. Còn nếu cho nó là động vật có tay chân cũng bằng thừa, khi không thể sử dụng tứ chi trong việc ăn uống hay sinh hoạt cá nhân.

Những ông bác sĩ học trường tây, bạn cụ tổng năm nào có nói về bệnh tình của nó. Ông ấy nói gì... gì về chứng thoái hóa não hay bại xụi gì đó... mà ông Út chẳng biết. Cuộc đời ông sinh ra đã là tá điền. Ông bà cha mẹ cũng thế! Thì làm sao có chữ nghĩa để hiểu những việc phức tạp của người trên, kẻ trước...

Bình tâm nghĩ ngợi một lúc, ông Út vội vàng đi vào nhà cầm lấy cái mác, đi chẻ tre. Tre trong đất ông chủ Cả vốn nhiều, nhưng những người tá điền như ông chỉ xin được ruột đem về xài tạm. Vỏ tre người ta chẻ ra đan mê bồ, quây vòng đựng lúa. Có khi tre được đan giỏ, đan nia, vót câu...

Người giàu có đất thì tha hồ sử dụng tre như một món hàng đa dụng. Nhưng... kẻ nghèo như ông, chỉ biết xin ruột tre đem về chẻ ra đan mê, làm vách.

Vách nhà ông toàn bằng mê tre. Chỗ nào cứng cáp thì lót tạm một miếng. Nơi yêu yếu thì hai ba miếng cho kín gió, ấm nhà, chống mưa giông...

Bàn tay khéo léo của ông Út nhẹ nhàng chẻ một thân tre ra thành miếng. Ông dùng mũi mác tách đầu của chúng thành từng mảnh nhỏ, thật mỏng. Sau đó uốn thân tre cho dập đi và bắt đầu tước thành nhiều mảnh nhỏ, đan vào tấm mê còn dang dở. Xong đâu đó ông Út đem tấm mê phủ lên một khung tre đã làm sẵn trước đó mấy hôm rồi. Dùng những nẹp nhỏ và dây, ông bắt đầu buộc chúng lại với nhau. Lúc mặt trời xế bóng, ông đã làm xong một cái cửa hình chữ nhật, với một chiếc đố dọc dài hơn cái bên khoảng hai tấc.

Như vậy ông đã có một cánh cửa lắp vào nhà, mà không cần phải ra chợ mua bản lề cho phí tiền. Cái trụ dài cứ cho vào một lóng tre đóng sâu xuống đất. Đầu trên dùng dây lạt dừa cột lại, đã có ngay một cánh cửa cối xay có thể mở ra mở vào...



...

Hôm rồi, vì nhà không có cửa sau, nên con Lu lẻn vào ăn mất nửa cân thịt của ông. Cái số ông sao thật bẽ bàng và vô duyên với thịt. Ông anh làng bên biết ông bị mất trộm, lại mấy năm thất bát chăn nuôi nên biếu cho nửa cân thịt. Thế mà con chó chết tiệt, cả gan xực mất của ông nửa cân thịt quí. Nhưng nghĩ cũng lạ... Con Lu xưa nay vốn chưa bao giờ dám hỗn hào kiểu đó. Nó có thể săn chuột, bắt kỳ đà, chứ chưa từng đụng chạm vào những thức ăn để trên chạn bao giờ. Không biết con chó ăn phải gan con gì mà dám làm như thế?

Từ khi thằng Bé, em ông lớn lên một chút, căn nhà trơ trọi trong xẻo vắng càng vãn bóng người. Những đứa trẻ hàng xóm không thích đến nhà ông để rồi chứng kiến một con người đáng thương, nhưng lắm tật kinh khiếp.

Mà bọn chúng sợ thằng Bé cũng đúng! Bởi sắc mặt trắng xanh của nó bao giờ cũng lồng vào một nét cười quái dị. Đôi mắt trắng dã mở trừng trừng nhìn mọi đứa trẻ với một sự thèm thuồng không lời giải thích. Ánh mắt ấy nhìn vào ai cũng không biết, khi tròng trắng quá nhiều để chứa đựng con ngươi bé tí cứ mãi chạy vòng quanh. Cái miệng nó trông qua cũng thật kỳ, khi thì méo mó hoặc trễ xuống với cái lưỡi dài ngoằng, đỏ hòm hom, mỗi khi ngoác miệng cười cùng ai đó.

Những đứa nhỏ trong xóm nói với nhau rằng: "Cái lưỡi của thằng em ông Út dài quá! Nó dài đến nỗi không biết thật của con người hay không?"

Dĩ nhiên những điều này được già trẻ lớn bé thì thào với nhau một cách thầm kín. Vì sợ ông Út nghe thấy rồi buồn phiền. Nhưng cái gì ở đời càng xầm xì thì càng dễ lọt tai. Ông Út vô tình nghe thấy thế cũng mặc. Bởi ông biết người ta sợ thằng Bé là đúng, khi ông thương nó nhiều...mà lắm lúc nhìn lại cũng kinh hoảng nữa là...

"Con người vốn có số!" Ông Út thường hay nói như vậy, khi phải cưu mang một đứa em tàn tật, tách biệt với người làng. Nó có cái số khổ, còn ông khổ phải đeo mang một giọt máu mà không nỡ vứt đi...

Thịt ăn không có. Thực phẩm chính trong nhà là cá ngoài đồng. Điều này đôi khi làm ông Út yên tâm hơn. Dù sao cá ngoài đồng cũng nhiều vô số. Chỉ vài mươi cần câu cắm vội thì đã có cái ăn. Nhưng thằng Bé ở nhà khó ăn lắm!

Nó sinh ra trong nhà tá điền mà giống như sống với nhà giàu không bằng. Cơm ăn ba hột. Cá mắm sơ sài không làm cho nó hài lòng.

Có hôm bận việc, vừa kho vội nồi cá ông đã bỏ đi sau khi múc ra tô mấy khúc cá cho thằng em. Khi xong việc trở về mới thấy là nồi cá chưa chín tới, mùi còn tanh lợm. Ấy thế mà thằng Bé đã ăn hết sạch tô cá để phần. Nhìn ánh mắt nó, ông Út kinh ngạc. Xem ra cu cậu thích ăn món bở ra trò. Thông thường ông kho cá rất ngon nhưng không thể làm đứa em vừa miệng. Nó ăn ít lắm mà vẫn lớn nhanh. Chỉ phải cái là không chịu đi đứng như người ta thôi.

Nó càng lớn, người càng hôi ra với cái mùi gà vịt phảng phất đâu đó. Nhưng nó có mùi gà vịt trong khi nhà lại không có con gà, con vịt sống được bao lâu với cái họa cáo bầy và lũ trộm ngày. Hàng xóm cũng than vãn mất gà, mất vịt liên miên mà không hiểu được nguyên do.

Điều này ông Út cũng thấy được. Bởi lúc trước, gà vịt hàng xóm cũng có qua đây, nhưng mỗi năm một vắng. Sau đó thì mất tiệt... Như vậy do lũ cáo quá lộng hành hay là bọn trộm, ngày một tinh ma, quỷ quyệt cũng không biết? Tai họa là họa tai chung!



Nhưng những lời nói thì thầm lọt tai càng lúc càng khó nghe hơn. Người già, trẻ nhỏ nói rằng: khu vườn nhà ông có ma... Con ma này chuyên ăn thịt sống nên không có con gà, con vịt nào sống được trong khu vườn ấy...

Ông Út không bận tâm đến những lời nói vu vơ. Ngày ra đồng đến tối mịt mới về. Buổi sáng lại vội vã thổi cơm, rồi chia ra hai phần: Một đem theo bên mình. Một cho đứa em tật nguyền. Như vậy ông chỉ còn buổi tối tương đối thảnh thơi, khi bên chén trà, lúc vài chung rượu nhỏ. Sau đó lăn ra ngủ, chờ trời sáng...

Giấc ngủ nhà nông nặng nề là vậy mà lũ chuột trong nhà lại trở chứng, lộng hành nhiều ra. Lúc rày trong lơ thơ giấc ngủ, ông lại nghe bọn chúng lục lạo nồi niêu đến khó chịu. Sáng ra, những con cá lóc phơi vừa một nắng, đã biến mất không thấy tăm hơi. Chuột gì như quỷ như ma? Chúng chuyên ăn cá sống, còn khô phơi tới nắng thì không đụng đến bao giờ...

Lâu ngày mất của cũng xót. Nhiều đêm ông Út cố canh, tìm hiểu xem mặt mũi lũ chuột ra sao. Như hiểu được ý định của ông, bọn chúng trở nên im hơi lặng tiếng như chưa từng có mặt bao giờ. Ấy vậy mà khi quá mỏi mệt, vừa chợp mắt một chút chúng đã đại náo nồi niêu.

Có hôm trăng sáng soi vào kẽ hở của vách phên bên đầu hè, làm căn phòng lờ mờ sáng. Lơ mơ giấc ngủ ông Út như thấy một dải lụa màu đỏ phất phới trong gian nhà trống. Cái dải lụa mờ mờ ảo ảo đó, thoắt ẩn thoắt hiện, và chợt biến mất lúc ông mở choàng mắt ra. Nhiều lần như vậy lắm, nhưng ông vẫn cho là mình mơ ngủ nên nhìn gà hóa cuốc đó thôi...

...

Một ngày, nhà bên có giỗ, ông Út được mời sang ăn chén cơm ngày kỵ.

Hôm ấy ông uống hơi nhiều nên say túy lúy. Vừa về đến nhà ông liền ngã ra vạc giường ngủ ngay. Cái giường rộng một mét sáu, bao giờ cũng đủ chỗ cho cả hai anh em. Giữa khuya ông Út chợt tỉnh khi thấy một bên má nhồn nhột. Có cái gì đó mềm mại như lụa ướt, cứ vuốt ve lên khuôn mặt ông.

Trong cơn say ngà ngật, ông Út cứ tưởng con Lu dở chứng nhảy lên giường liếm mặt mình. Nhưng mở mắt ra nhìn kỷ, ông lại nhận thấy chính cái dải lụa đỏ thường ám ảnh mình từng đêm đang múa may, uốn lượn. Cái dải lụa đỏ bằng ba ngón tay cứ phất phơ, phơ phất... như chơi đùa, bởn cợt với gương mặt người say... Ông Út muốn đưa tay túm lấy dải lụa, nhưng bàn tay không sao theo ý được.

Tay người say có bao giờ tuân theo ý chủ, lại trong lúc vừa tỉnh cơn ngái ngủ. Tiếng động làm cái dải lụa chợt biến mất như được ai kéo vào một nơi tối, gần lắm... Hình như nó ở ngay cạnh nơi ông nằm... Nơi thằng Bé đang im lặng nhìn ông... Ông Út nhìn nó như không hiểu. Cái thằng, sao giờ này vẫn không ngủ, cứ mở mắt nhìn trừng trừng nhìn ông thế kia! Mà sao mắt nó xanh lè như thế... Không! Không phải màu xanh. Trong đó còn có ánh lửa chập chờn của hai viên bi đỏ rực...

Nhìn nó ông Út chợt hoảng kinh hét lớn:

- Mày làm gì đó hở Bé!?...

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play