“Dám hỏi đường tại phương nào? Đường tại dưới chân ta”
- Lời bài hát “Dám hỏi đường tại phương nào” Tây Du Ký 1986
Trên một con đường núi gập ghềnh đá sỏi, vài con lừa nối đuôi mấy thớt ngựa từ từ tiến tới, mỗi bước một gian nan.
Nắng hè cháy bỏng như nung như thiêu khiến mặt đất hóa than, bốn bề sơn cốc vây quanh chắn gió hình thành lò lửa, thiếu một chút nữa là có thể đem người sống trực tiếp luyện thành nhân đan.
Thiếu niên cưỡi trên tuấn mã lông đen phía trước nhất nhìn mồ hôi ngựa yêu vã ra như mưa, đau lòng than: “Làm gì sinh ra lông đen khác loại a, xui cho ngươi!”
Hắn lại quay ra sau nhìn bầy người ngựa cũng đà thấm mệt, lại cuối xuống đất nhìn bóng ước đoán giờ giấc rồi hô to:
“Đã sắp tới giờ Ngọ (gần 11 giờ),
Xem độ trưa nay khó mà tìm được nơi dừng chân thích hợp.
Phải dựng lều nghĩ ngơi thôi”
Những người phía sau nghe vậy ngay lập tức kéo cương ngựa dừng lại.
“Hị! Lịch kịch lộc cộc”
Lũ ngựa được ân xá cũng lười lồng lộn hí vang, chủ yếu là vì chẵng còn sức lực để thiết tha khoe mẽ sự hung mãnh của mình.
“Á A! Ợt ợt?”
Ba con lừa đi sau chót không tiếp tục bị dây thừng xiết thân thúc giục thì cũng đứng lại, le lưỡi kêu vài tiếng, có lẽ chúng đã quen với loại địa hình này cũng như phương thức bị cưỡng ép lao động kiếm ăn tương tự nên cũng không quá rệu rã như những anh bạn cao to phía trước.
Một lát sau, ba cái lều vãi thô sơ bắt đầu được khởi công dưới sự chung sức của 6 thanh niên lực lưỡng và một thằng nhóc choai choai.
Trong khi ba chú lừa được thả bổng khỏi gánh nặng có thể thoải mái nằm xuống chợp mặt thì đám ngựa lại bị con ngựa đen dẫn đầu kéo chạy đi mất hút.
Ông lão duy nhất trong đoàn người uống một hớp từ tuối nước trong tay, lặng nhìn vật cưỡi của mình khuất bóng sau khúc quẹo quanh co, một dây thần kinh cảm xúc nào đó bị đụng chạm, chán nãn ca thán:
“Quái tai! Ngựa còn có vương có bầy! Người lại có nước không vua!”
Giọng nói mỏi mệt nhỏ yếu nhưng vẫn đi lọt vào cặp tai thông tuệ gần đó.
Chỉ thấy một cơn gió nhẹ luồn qua chiếc nón rộng vành khẽ vuốt ve những sợi tóc quanh vành tai đang rung động, người thiếu niên quay đầu về sau nhìn ông lão một cá rồi lại quay ra tiếp tục nói chuyện với đám thanh niên.
Một lát sau,
Người thiếu niên an bài công việc cho đám thanh niên xong xuôi, dặn họ nghỉ ngơi cho tốt, lại kiểm tra một lượt cọc đóng và dây buộc lừa, không có vấn đề gì về sau mới đi đến chỗ ông lão, lúc này đã lim dim mắt:
“Học trò xem đến giờ mà tiểu Ô còn chưa về hẵn là nguồn nước có chút xa.
Thầy còn nước không? Lát nữa ta đi một chuyến bổ sung đủ cho mọi người”
Ông lão nhắm mắt thở dài:
“Làm phiền ngươi, Hùng nhi”
Bọn người này chính là Hoàng Hùng và lục quái đang trên đường hộ tống Thái Ung đi Hà Sáo chịu đày.
Lưu Hoành vô cùng nhân từ, tại mấy cái lính áp giải bị lục quái giết chết về sau cũng không có cử theo truy binh, mặc dù mỗi lần đi ngang qua thành trấn, Hoàng Hùng vẫn cảm thấy có ánh mắt theo dõi từ xa, nghi là cái kia ‘ác danh khắp võ lâm’ Huyền Kính Ty.
Nghĩ đến sự kiện kia, Hoàng Hùng vẫn lấy làm kỳ quái, hắn cảm thấy việc đám lính nổi loạn muốn giết Thái Ung không có khả năng là do Lưu Hoành sai xử, bởi nếu vậy thì Huyền Kính Ty đã lộ diện ‘chùi mông’ cho Lưu Hoành rồi.
Tuy vậy, bình thường rất có trí tuệ Thái Ung lại nhận định là Lưu Hoành có vấn đề, thậm chí từ khi Lạc Dương rời khỏi tầm mắt thì Hoàng Hùng cũng cảm nhận được tâm trạng của Thái Ung sa sút hẵn, gần đây mỗi lần thấy Hoàng Ô dẫn bầy ngựa chạy đi tìm nước là lại than dài thở ngắn.
Hoàng Ô là tên con ngựa mà Hoàng Dung tặng cho hắn khi lên 6 tuổi, bắt đầu học kỵ thuật.
Nó thuộc giống Đích Lư song không mang màu trắng thường thấy của giống này mà lại có màu đen tuyền tựa như Ô Truy của Hạng Vũ ngày trước.
Hoàng Hùng yêu quý nó như người trong nhà nên cho nó nhập gia phả miệng luôn, nếu không phải Hoàng Uyển vừa lúc có mặt đánh rớt tên đệm thì đầy đủ phải là Hoàng Văn Ô.
Hoàng Ô ở trong trại ngựa của nhà họ Hoàng không dài, chỉ chừng hơn 1 năm, liền theo Hoàng Hùng đi Lạc Dương, tuy vậy, với bản chất của một con thần mã dũng mãnh và hoang dã, nó đã kịp xưng vương xưng bá, đem lũ ngựa nhà họ Hoàng xếp vào ‘thuộc thần’.
Hoàng Hùng cũng không kỳ lạ việc này, hắn là thế giới khí vận chi tử, cái câu nói ‘sinh linh của thế giới này đều là người thân của ngươi’ không chỉ là nói xuông, nó thực sự là một cái ẩn tàng phù hộ mà Hoàng Hùng dần khám phá ra theo thời gian.
Càng tiếp xúc nhiều với thiên nhiên muôn loài hắn càng phát hiện ra mình có sự thu hút lạ kỳ đối với chúng, và cũng vô cùng dễ dàng hiểu được ý nghĩ của chúng mặc dù cả hai bên đều không nói ‘ngôn ngữ’ của nhau.
Thái Ung thì khác, ông lão tự kỷ này chỉ đọc qua mô tả về mã vương trong sách vỡ, ngoại trừ những mô tả sơ lược có phần phóng đại quá mức về sức mạnh và bề ngoài ra thì Thái Ung chẵng biết gì về mã vương hay thuật xem ngựa.
Suốt mấy ngày đầu, Thái Ung thậm chí cho rằng Hoàng Ô là con ngựa nhỏ yếu ớt nhất trong đoàn vì người cưỡi nó là một thiếu niên, theo lão thì chở người càng nặng thì càng khỏe, tư duy vô cùng toán học nhưng hoàn toàn bỏ quên vấn đề xã hội và tâm tính sinh vật.
Hoàng Hùng nói không ngoa thì chính là trưởng đoàn đương nhiên cưỡi cũng là ngựa mạnh nhất, Hoàng Ô cũng một mực đi tại phía trước nhất mà không có một con ngựa nào phía sau hó hé hay ganh tỵ.
Chỉ mãi đến sau khi tách khỏi Hoàng Hà, đi vào đường núi hoang vắng thiếu người thì Thái Ung mới biết mình lầm.
Số là buổi tối đầu tiên ngủ nơi hoang dã heo hút, đám lính áp giải liền len lén nhân cơ hội mọi người nghỉ ngơi mà ám sát Thái Ung.
Bọn chúng đâu ngờ là không chỉ Hoàng Hùng một mực đề phòng bọn chúng mà liền đám ngựa nhà họ Hoàng cũng vẫn luôn được Hoàng Ô ‘huấn luyện’ để giữ lấy bản năng hoang dã, cực kỳ cảnh giác.
Chính Hoàng Ô đã dùng một đá lấy đi tính mạng của gã lính đầu tiên, cứu Thái Ung khỏi bị kinh sợ vì bị người hại, chuyển sang kinh sợ vì bị ngựa hù.
Có điều phải đến tận trưa hôm sau thì Thái Ung mới hiểu vì sao trước đây đám lính áp giải mình phải trông chừng ngựa cẩn thận từng ly từng tý còn Hoàng Hùng và lục quái thì một mực chẵng thèm buộc cọc mà cứ thả rông cho chạy nhảy.
Trưa hôm đó, tại rời khỏi nguồn nước sông Hoàng một ngày rưỡi về sau, rốt cục phải nhờ đến Hoàng Ô ra sức, dùng bản năng hoang dã đi tìm ao suối.
Thái Ung đang cảm thán việc hồi sáng đi ngang qua xóm nhỏ, Hoàng Hùng đem mười mấy con ngựa tịch thu tối qua đổi thành ba con lừa là điều sáng suốt vì bất kể là lương hay nước thì ngựa đều dùng nhiều hơn mà sức khiêng lại yếu hơn hẵn lừa.
“Ai! Lúc đó ta còn cảm thấy tiếc đâu! Phải biết ở Lạc Dương, một con ngựa tồi đều có thể đổi 2-3 con lừa”
“Haha! Thầy cũng đọc qua sách của Thương tử Phạm Lãi, sao lại nói như vậy.
Từng nghe muối quý hơn vàng.
Vật phẩm phải theo nhu cầu mà định giá.
Phía trước sơn đạo hiểm trở, chúng ta cũng không phải luyện binh đánh trận, giữ một đống ngựa làm gì?
Học trò lại cảm thấy chúng ta quá lời.
Không nói đến đám ngựa kia chính là của bất nghĩa, chúng ta được đến không tốn một đồng.
Chính là những thôn dân kia được đến ngựa về sau còn phải lặn lội đi vào thành trấn đem bán, không biết giữa đường có hay không gặp cướp, đến thành trấn có hay không bị người lừa gạt ăn chận”
Thái Ung nghe vậy gậ đầu, uống hớp nước, kết quả vừa đưa bọc nước lên tới miệng thì mắt mở to dương tay chỉ về phía trước khiếp sợ nói không nên lời.
Hoàng Hùng quay lại thấy Hoàng Ô dẫn đám ngựa đi xa, biết Thái Ung muốn nói gì liền phì cười.
Thái Ung gấp:
“Ngựa … ngựa … chạy”
Đám người lục quái cũng cười vang nhìn vị này đương thế đại học giả hóa thân lão cà lăm.
Từ hôm đó đến nay đã qua 5 ngày, đoàn người cũng đi qua vài sơn thôn cùng 1 thành trấn nhỏ, song bởi vì Tịnh Châu vốn là đất căn cổi, núi non nhiều, đường đi hiểm trở quanh co nên chuyện thiếu nước xảy ra như cơm bữa, Thái Ung cũng quen với việc Hoàng Ô dẫn bầy ngựa đi tìm nước, ngoại trừ mỗi lần đều thở dài đổi một câu nói ‘minh nâng mã vương ám trách nhân hoàng’ ra thì cũng không có gì đặc biệt.
(P/s: minh nâng mã vương, ám trách nhân hoàng = ngoài sáng thì tâng bốc vua của ngựa, kỳ thật đang chữi xéo vua của người)
Quay trở lại với hiện tại, cách chỗ đám người Hoàng Hùng dựng trại không xa, chỉ chừng vài dặm, có một bãi bụi rậm xen lẫn giữa rừng đá lỗm chổm.
Có một tảng đá hình vòng cung bị đục xuyên ở giữa do phong hóa hay bào mòn thì không biết, bởi Hoàng hà cứ vài chục năm lại đổi dòng một lần, nơi đây có khi đã từng là lòng sông cũng nên.
Đương nhiên là việc đó không phải chuyện chính, chuyện chính là việc phía dưới vòm đá đó đang có một đám người áo vãi thô sơ trùm kín mít, bên cạnh để một đống cung tên gươm giáo.
“Cái thời tiết mắc toi!”
“Khi nào thì bọn chúng mới đến?”
“Sắp rồi. Huyền Kính Ty đến báo, bọn chúng rời đi Bạch Ba trấn đã có hơn một ngày”
“Huyền Kính Ty tin được không?”
“Huyền Kính Ty không tin được nhưng Huyền Kính Ty từ lâu đã không phải chỉ là Huyền Kính Ty”
“Hahaha! Vị kia cũng chỉ như thế”
“Cũng không phải, là vì gia chủ bọn họ bố cục quá lâu, đều đã qua mấy đời người”
“Đợi chức vị ty trưởng vào tay thì hắn cũng không còn ai để dùng”
“Còn đám bất nam bất nữ a?”
“Hứ! Một đám ngu ngốc tham lam mà thôi”
Đám người bặm trợn đang nói oang oang thì một giọng khàn khàn quát nhỏ:
“Câm miệng”
Hắn là kẻ bặm trợn nhất, không chỉ thân cao tráng hơn những kẻ khác mà còn sở hữu một cặp mắt to tròn cộng thêm một vết sẹo dài sần sùi trên má phải nối từ môi tới tai, khiến cho người ta tưởng là quỷ miệng rộng ăn trẻ con trong những câu chuyện ma nơi làng quê hẻo lánh.
Hắn vẫn luôn cẩn thận tự mình đứng gác, vừa mới nhìn thấy một bầy ngựa hoang chạy ngang qua đây, trực giác khiến cho hắn nép vào sau vách đá quát đám người im lặng, hắn cảm thấy con ngựa màu đen đi đầu dường như có nhìn qua hướng này.
Một lát sau:
“Lão đại, có chuyện gì?”
Tên thủ lĩnh chỉ lắc đầu nói: “Các ngươi bớt nói nhảm, nghỉ ngơi cho tốt, sắp phải chiến rồi”
Nói thì bình tĩnh nhưng trong lòng thì bắt đầu lo lắng, bởi gã xuất thân là cướp thảo nguyên, đối với tập tính của ngựa vô cùng hiểu, đám ngựa lúc nãy rõ ràng là đi tìm nguồn nước.
Việc này không giống với kế hoạch ban đầu của bọn chúng, vốn chọn nơi này để thu lưới cũng là trãi qua tính toán kỹ lưỡng, biết xung quanh đây thiếu nước, thiếu cỏ tươi, ngựa mệt không chạy nổi, đám người Hoàng Hùng sẽ thành ba ba trong rọ.
Nhưng mà bây giờ lại có ngựa chạy đi uống nước, con dẫn đầu còn là màu đen, đúng như lời của những gián điệp trong Huyền Kính Ty báo.
Chỉ là hẵn cũng không chắc lắm, Tịnh châu gần thảo nguyên, lại lắm ăn cướp, ngựa hoang cũng không hiếm, đám ngựa lúc nãy cũng không có dây cương trên người.
Đắn đo trong lòng, tên thủ lĩnh vẫn quyết định tuân theo kế hoạch củ, ôm cây đợi thỏ, thay vì chủ động đi tìm nhóm người Hoàng Hùng.
Một là vì bọn hắn đã tập dợt chiến trận vài lần ở nơi này, bây giờ bỏ thì uổng phí hết, không chỉ tăng cao nguy hiểm tính mạng cho đám huynh đệ, còn hạ thấp tỷ lệ bắt giết đối phương.
Hai là vì bọn hắn cũng không biết được đám người Hoàng Hùng đang ở đâu, nếu lỡ đi tìm không thấy bị đám người Hoàng Hùng rời đi thì nhiệm vụ này liền toi, hắn cũng không còn mạng nhìn người nhà.
Ba là vì lấy khỏe phục kích mệt thì dù sao vẫn hơn là lấy mệt tập kích khỏe, cho dù bọn hắn tìm được nhóm Hoàng Hùng, liệu có đảm bảo được toàn công hay không, lỡ như bọn người kia đang nghỉ ngơi bày trận sẵn chờ bọn hắn thì sao, lần trước bị ám sát hụt một lần, hắn tin tưởng đám người kia sẽ vô cùng cảnh giác.
Tên thủ lĩnh tự an ủi trong lòng: “Có lẽ là trùng hợp. Đám ngựa kia từ Kinh Châu đến, trước đó qua tay không biết bao nhiêu thương buôn, sớm đã không còn dã tính của ngựa thảo nguyên, tuyệt đối không thể là những con ngựa lúc nãy. Ngựa màu đen đâu có hiếm”
Cách nơi đám người này chừng mười mấy dặm đường núi về phía đám người Hoàng Hùng, một nhóm người ngựa cũng đang nghỉ chân bàn tán sôi nổi về Thái Ung.
“Haizz! Làm sao đến bây giờ vẫn chưa nhìn thấy mấy người Bá Dương công a?”
Một nam trung niên chừng ngoài ba mươi tuổi lau mô hôi than vãn.
Một ông lão thần hình tráng kiện, râu bạc trán cao, một tay cầm thương một tay cầm bao nước, bước chân hùng dũng đi tới:
“Hồ gia chủ chớ lo, những dấu vết để lại cũng chỉ mới đây thôi, tất nhiên không xa, cứ giữ tốc độ này thì chiều nay sẽ gặp”
Nam trung niên nghe vậy cũng gắng nở một nụ cười có phần gượng ghịu trong nắng gắt bỏng da bỏng mắt:
“Đồng lão anh hùng nói vậy ta cũng an tâm. Chỉ là từ hôm đó đến nay ta một mực cảm thấy bất an. Sợ thẹn với giao phó của Tử Kiền công”
Sau đó hướng về phía những người khác nói lớn:
“Các ngươi nghỉ ngơi cho tốt, chiều nay lại chạy một đoạn liền có thể bắt kịp.
Chỉ cần bảo vệ Bá Dương công an toàn đến Hà Sáo, trở về mỗi người đều có trọng thưởng.
Lời hứa của ta các ngươi nên tin tưởng”
Đám người đều nhao nhao gật đầu đáp lại:
“Gia chủ nói quá lời. Chúng ta nhiều đời đội ơn Hồ thị. Đương nhiên tin tưởng ngài”
Theo như lời kể với lão giang hồ họ Đồng, thì đám người này đến từ một cái gia tộc nhỏ gọi là Hồ gia, vốn được Lư Thực đưa tin gửi gắm bảo vệ Thái Ung, chỉ là ngại vì sợ bị thế gia trung nguyên chỉ trích nên không dám công khai hộ tống Thái Ung, chỉ có thể đợi Thái Ung đi khỏi đường lớn vào đường núi sau mới lần theo.
Trên đường còn phát hiện hiện trường vụ ám sát Thái Ung và mồ đất của bọn lính áp giải, cũng tiện thể mua được đám ngựa mà Hoàng Hùng bán cho sơn dân, song cũng chỉ vì nhất thời ham chút lời nhỏ, tốn thời gian xử lý đám ngựa kia, mà chậm trễ thời gian.
May sao trên đường gặp lão.
Sau khi nói rõ cớ sự, biết bọn họ muốn đi hộ tống Thái Ung tiên sinh, người mà lão cũng rất kính trọng, thế là lão đồng ý theo cùng, đồng thời hỗ trợ truy tìm dấu vết.
Đám người lục quái cũng là cao thủ, nhưng bởi vì sơn đạo gập ghềnh, đường xá khó khăn nên cũng lười xóa dấu vết, chỉ tại lúc nghỉ ngơi mới rãnh rỗi xử lý một chút, cho nên không thể thoát khỏi ánh mắt sắc bén của lão giang hồ dày dặn kinh nghiệm.
Quay lại với đám người Hoàng Hùng, Hoàng Ô không biết từ cái nào hiểm hóc đường mòn dẫn theo bầy ngựa trở về, vừa về đến nơi nó liền tìm đến Hoàng Hùng liếm mặt mở đầu câu chuyện.
Sau một hồi giao lưu, Hoàng Hùng thần sắc ngưng trọng gọi đám người tụ tập lại:
“Có mai phục, hướng Tây Bắc, gần 4 dặm nữa, chỗ đó là miệng cốc, đường hẹp, lại có bãi đá cùng bụi cây thấp.
Một khi chúng ta đi vào chính là ba ba trong rọ”
Thái Ung vã mồ hôi, không biết là do nóng quá hay là do sợ hãi:
“Có thể đi đường vòng sao. Ta thấy tiểu Ô về bằng hướng khác”
Nhìn lục quái có dấu hiệu chuẫn bị mở miệng châm biếm Thái Ung nhát gan, Hoàng Hùng liền nói luôn:
“Có thể là có thể.
Nhưng tất nhiên hiểm trở khó đi, ngựa đi được nhưng ngựa chở người chưa chắc đi được.
Nếu không thì bọn chúng cũng không chặn đường ở phía trước.
Bọn này mai phục ở đó tất nhiên cũng đã điều tra địa hình một lượt.
Càng quan trọng là trên đời này chỉ có ngàn ngày làm tặc chứ nào có ngàn ngày phòng tặc.
Lần này may có tiểu Ô phát hiện bọn hắn nhưng lần sau thì sao?
Cũng không thể để bọn này một mực bám đuôi chúng ta được.
Ban đêm ngủ thế nào yên?”
Thái Ung ngẫm lại cũng gật đầu nói: “Vậy Hùng nhi có cách gì?”
Hoàng Hùng nhìn về phía lão Trần cười, lão Trần cũng cười, năm quái còn lại cũng cười, chỉ có Thái Ung không hiểu ra sao.
Cười một tràng xong, Trần Năm nói:
“Công tử. Bao nhiêu người?”
Hoàng Hùng lắc đầu nói:
“Rất cẩn thận. Tiểu Ô cũng không thấy rõ.
Có điều, theo ta đoán thì sẽ không quá đông.
Tiểu Ô xác định bọn chúng đều nấp sau một vòm đá chừng hai trượng vuông (khoảng hai mươi mét vuông)
Thời tiết nóng nực như vầy, tối đa chen được mười mấy hai mươi người.
Đương nhiên tất cả đều sẽ là cao thủ.
Lần trước chúng ta xử lý đám lính kia cũng có 16 người.
Không có lý gì lần này số lượng không đổi mà chất lượng cũng không đổi”
“Vậy sao! Vẫn là mang theo hai ống tên cho chắc” Trần Năm nghe kỹ Hoàng Hùng nói, gật đầu suy tính.
“Lão Trần, ngươi sợ!”
“Nhất tiễn tam điêu Trần anh hùng đây sao!”
“Hố hố hố!”
“Ngày này tháng đó năm nọ, địch chặn đường nhỏ chờ mai phục”
“Ngày kia tháng kỉa năm kìa, địch đông phải vác hai ông tên”
Hoàng Hùng nhịn không được cắt ngang đám người không sợ thiên hạ loạn này, hắn lo Trần Năm bị khích tướng sinh ra mất khôn, ngông cuồng khinh địch:
“Lão Trần à, mang theo một ống tên là được”
Bọn năm quái còn lại nhìn nét lo lắng của Trần Năm mà cười.
“Lão Nguyễn thay lão Trần vác hai ống”
Bọn bốn quái còn lại nhìn nét tức giận của Nguyễn Bảy mà cười.
“Những người còn lại bảo vệ thầy ta. Không cho đi xem”
Nhìn bốn tên kia phút chốc ỉu xìu, Thái Ung âu lo nói:
“Chỉ có hai người liền muốn đánh mười mấy, hai mươi.
Kế hoạch bàn xong, Hoàng Hùng liền cưỡi Hoàng Ô, mang theo bọc nước của mọi người đi chỗ nguồn nước, hắn lấy một cái khăn vải trùm lên Hoàng Ô, ngụy trang sơ một chút rồi nghênh ngang cưỡi ngựa lao nhanh qua bãi đá.
Tên đại ca dẫn đầu cũng không ra lệnh tấn công, hắn sợ bứt dây động rừng, nếu Hoàng Hùng không quay lại sợ là bọn người Thái Ung không dám tiến lên.
Nhìn Hoàng Ô hắn cũng yên tâm, đám người Huyền Kính Ty chỉ nói có con ngựa đen dẫn đầu nhưng cũng không miêu tả rõ bề ngoài thế nào.
Tên đại ca dẫn đầu cho rằng con này và con lúc nãy là hai con hoàn toàn khác nhau, hắn không thấy con lúc nãy mang theo bầy quay lại, mà con này lại là từ cửa cốc phóng ra.
Ngựa nuôi cũng không khôn đến mức tự tìm được cái đường mòn kia đi, lại nói dù có tìm được cũng mắc gì phải đi hướng gian khổ như vậy, chẵng lẽ thật thông minh đến mức biết bọn hắn ở đây mai phục? Vậy thì hóa yêu tinh rồi!
Mặc dù Hoàng Hùng chỉ dùng chừng hơn 1 khắc (hơn 15 phút) liền mang nước quay lại nhưng tên đại ca dẫn đầu cũng không thắc mắc gì, thậm chí cảm thấy Hoàng Hùng là con nít ranh chậm chạp.
Mặc dù phía trước nhóm người Hoàng Hùng đi mấy chục dặm không tìm được nguồn nước nhưng kỳ thật chỉ cần qua khỏi cửa cốc nơi bọn hắn trấn giữ liền có liên tiếp hai con suối nhỏ, nếu không thì bọn hắn cũng không có sức mà trấn giữ chỗ này dưới thời tiết nắng nóng như vậy, vừa có thể tiếp tế kịp thời.
Tên đại ca nào ngờ được Hoàng Hùng chỉ dùng 5 phút để đổ đầy nước thôi, thời gian còn lại thì hắn trốn ở một góc khuất quan sát và ghi nhớ toàn bộ địa hình bãi đá và vách núi nơi miệng cốc, Hoàng Ô lại thông minh cũng không thể đem những thứ này nhớ được, cho dù nhớ cũng không thể mô tả rõ ràng cho Hoàng Hùng được.
Trong khi nhóm sát thủ phục kích còn đang nghỉ ngơi xơi nước thì Hoàng Hùng và Trần Năm đang dùng cành cây làm bút, mặt đất làm giấy, vừa miêu tả địa hình, vừa thảo luận phương hướng tấn công.
Hoàng Hùng tựa như một vị nguyên soái, tay vẽ tay chỉ, mô tả rõ ràng, đưa ra gợi ý xác đáng, hỏi vào điểm trọng yếu để cho Trần Năm suy ngẫm cũng để cho mấy người còn lại góp ý.
Sau một hồi Trần Năm lưng đeo cung, mang theo dây thừng chuẫn bị leo núi, Nguyễn Bảy một mặt khó chịu vác theo hai ống tên cùng một bộ dụng cụ leo núi khác theo sau.
Nói là leo núi chứ kỳ thật vách đá dựng đứng cũng chỉ chừng hơn 3 trượng (mười mấy mét), còn lại là đường dốc khó đi thôi, vẫn có một chút mỏm đá và cây để bám vào.
Nhìn hai người đi xa, Thái Ung lại quay mặt nhìn xuống cái bản đồ bày trận trên mặt đất, bây giờ đã nhăng nhít không còn hình dạng ban đầu, tựa như trẻ con chơi nghịch đất cát vậy:
“Cái này có phải quá trò chơi trẻ nít rồi? Quá xem thường địch thủ rồi? 2 đấu 20? Học trò của ta sẽ không phải là Triệu Quát sống lại đi?”
(P/s: Triệu Quát = nhân vật chính trong câu chuyện ‘đàm binh trên giấy’, mặc dù thời Triệu Quát cũng chưa có giấy.
Đàm binh trên giấy = nói thì như rồng leo, làm thì như mèo mửa, hoặc là tại trong doanh trại đem việc đánh nhau nói rõ hay, đến khi đem kế hoạch ra áp dụng thì không thực tế, không làm được)
Nghĩ thế Thái Ung lại nhìn Hoàng Hùng, hắn nhớ được hôm nọ hắn nhìn thấy mấy tên lính bị giết lục quái giết máu me be bét, hắn liền nôn khan một trận lã cả người mà đứa học trò này lại bình tâm như vại.
Hoàng Hùng xưa nay không giết người, không phải hắn có năng lực giết được người mà là hắn mới 8 tuổi lại được nhà họ Hoàng bảo hộ quá chu đáo, hắn cũng không phải kẻ ỷ thế hiếp người, sẽ chỉ chủ động phản kháng thôi.
Nhưng hắn thấy qua người chết, rất nhiều, không giống như những ngày Thái Ung còn trẻ, còn du lịch du học khắp nơi, khi ấy Hán triều dù đã suy vi nhưng đang còn ăn trên di sản của Minh Chương để lại, tựa như cái công tử nhà giàu vừa mới kế thừa gia nghiệp không lâu.
Hiện giờ thì thiên hạ này nghèo, thế đạo này loạn, ôn dịch, đói kém, thiên tai nhân họa quá mức tràn lan, tầng lớp thống trị bao gồm cả hoàng tộc, thế gia thậm chí là nho giáo đều chỉ lo tranh đấu với nhau, không quản dân chúng sống chết, tựa như cái công tử nhà giàu năm nào bây giờ cũng đã bệnh sắp chết rồi, con cháu hắn không được giáo dưỡng tốt, chỉ biết tranh cái gia sản rách nát suy tàn của lão cha kém cỏi, căn bản không biết rằng trong nhà chỉ còn lại cái mái đình mục ruỗng mà thôi.
Hãy nhìn sự kiện Thái Ung vừa rồi, kỳ thực nhân vật chính cũng không phải Thái Ung mà là sự tranh đấu quyền lực, ảnh hưởng của Lưu Hoành và thế gia Trung Nguyên, mà càng đáng buồn thay là những thiên tai đau khổ, những lời than thê lương của hàng trăm ngàn dân chúng chỉ là cái cớ để vạch tội Thái Ung, công kích Lưu Hoành mà thôi.
Chân chính đưa tay cứu vớt dân chúng không phải triều đình, không phải thế gia, thậm chí không phải những nho sinh mở miệng đòi công đạo cho Thái Ung, mà là Thái Bình đạo, là Đại Hiền Lương Sư Trương Giác.
Vậy hỏi làm sao mà Trung Nguyên cùng khổ bình dân không đội lên đầu chiếc khăn vàng, không hô lên câu ‘trời xanh đã chết, trời vàng nổi lên’?
Buồn cười đám người thế gia bên trong thì liên hợp áp chế hoàng đế, thẩm thấu đồng hóa nho giáo, bên ngoài thì hô hào hết sức bảo vệ thuyết ‘thiên mệnh’ hy vọng thiên hạ vừa loạn thì có thể ép họ Lưu ‘thiện nhượng’.
Nào có biết đâu, chân chính ‘thiên mệnh’ là tại lòng người, tại dân tâm vậy, tuy những cái binh dân thấp hèn kia đều không được học hành đến nơi đến chốn, thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ, nhưng một khi có thể để cho họ tin phục mà quy tụ thành một khối đoàn kết, thì đó chính là lực lượng hùng mạnh nhất cho đến khi loài người triệt để diệt vong.
Được lòng dân tất được thiên hạ, ấy mới là ‘thiên mệnh’.
Đáng tiếc, đạo Thái Bình chỉ là phù phiếm, không cương lĩnh, không kế hoạch, thuần túy là vì diệt Hán mà sinh ra, lại không phải chân chính vì người trong thiên hạ, cho nên nó chú định cũng sẽ diệt vong.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT