Kalinger tới sườn núi, đặt mông lên một gờ đá khắc đầy ký hiệu cảnh báo rồi đặt thanh kiếm cong và cây rìu ra trước mặt, anh mở chiếc túi nhung chứa các viên thuốc và cả chiếc lọ thủy tinh đựng máu đưa lên mũi ngửi.
“Ái chà, là máu quạ cơ đấy,” – anh chun mũi, “Thú vị thật, không hổ là nghiên cứu về gọi hồn và dị giới.”
Pháp sư gọi hồn thường dùng máu quạ để làm chất xúc tác khi làm phép dù những kẻ ngoại đạo vẫn hằng tin rằng họ dùng máu người để làm điều đó, thực tế thì tác dụng của máu người rất hạn chế, loại xúc tác mang lại hiệu quả tuyệt vời nhất là máu quạ hay máu cú đêm.
“May là ngài đã chuẩn bị máu chứ không tôi lại phải mò đi bắt lũ thú nhỏ.” – Kalinger vừa nghĩ như vậy vừa chia viên thuốc thành mấy phần, một phần bôi lên thân vũ khí, số khác giữ trong lòng bàn tay trái.
Anh sẽ không tự cắt máu mình, không bao giờ.
Viên thuốc tiếp xúc với máu quạ rồi từ từ tan chảy trên lưỡi kiếm. Khi thanh kiếm cong bị nhuộm đỏ, Kalinger ngửi thấy một mùi hương gì đó rất lạ lùng.
Mùi hương không phổ biến nhưng nó khơi dậy một cảm giác mà anh đã lãng quên từ rất rất lâu… anh thừ ra mấy giây liền trước khi tiếp tục đổ máu lên số bột còn lại trong lòng bàn tay trái và quan sát chúng.
Các viên thuốc tan ra thành bột, hòa lẫn vào trong máu, dòng máu đỏ và đen của quạ nhạt bớt còn màu thuốc trắng thì tối sẫm đi, cuối cùng chúng hòa quyện thành một chất lỏng sền sệt và đục màu hổ phách, trông giống như loại dầu luyn hay được dùng để bảo dưỡng vũ khí.
Chúng tỏa hương thơm nồng nàn hơn khi tiếp xúc với da dẻ và đồng thời cũng chuyển hóa xong trên vũ khí.
Kalinger đứng dậy, anh nhìn chất lỏng trên tay rồi lắc trái lắc phải ngửi không khí xung quanh, giờ thì anh nhớ ra mình biết thành phần trong viên thuốc là gì rồi.
Kalinger càng muốn hít thật sâu thì càng cố thở nhẹ nhất có thể, song cuối cùng anh vẫn không thể cưỡng lại mà hít một hơi đẫy đà, sau cùng anh xoắn xuýt chà hai tay vào nhau và bôi dung dịch còn lại lên quần áo. Những bộ phận lộ ra ngoài như cổ và mặt cũng cần bôi trét chun chút nhưng anh quyết định bỏ qua bởi nếu bôi thứ này lên mặt thì anh không dám chắc mình có thể bình tĩnh chiến đấu.
Hương thơm ấy nồng đến mức nó chiếm cứ khắp không gian bao quanh Kalinger và khiến anh có ảo tưởng rằng mình đang bị gói gọn trong một chiếc túi chất đầy đê mê huyền ảo.
Nếu biết trước máu quạ và thành phần của viên thuốc thì chưa chắc anh đã đồng ý với kế hoạch này… nhưng giờ thì đã muộn và thuốc này cũng thực sự có hiệu quả, chắc chắn nó có thể thu hút số lượng lớn các sinh vật bị nhiễm.
Nghĩ đến thành phần có thể có trong viên thuốc làm Kalinger không thể không xổ toẹt một câu chửi thề. Anh nổi tiếng trong giới thợ săn tiền thưởng là người gần như không bao giờ biết chửi bới tục tĩu, thời đại này thợ săn tiền thưởng thô tục chỉ tổ gây phiền phức, thái độ thân thiện như một hiệp sĩ mới dành được sự tin tưởng nhiều hơn.
Nhưng hôm nay anh thật lòng không chịu được phải bộc phát.
Sau khi thỏa mãn vì xả được cảm xúc, Kalinger lắng tai nghe những tiếng loạt xoạt rí rách trong rừng sâu, những con bệnh ẩn nấp đã đánh hơi thấy mùi hương và rời khỏi nơi ẩn náu.
“Ngài Sương ơi, ngài Sương ơi,” – Kalinger lẩm bẩm với chính mình, cài cây rìu vào hông và ném vỏ của thanh kiếm cong ra bên cạnh, “Chà, cũng không thể đỗ lỗi cho ngài vì cái hương thơm chết tiệt này được. Nếu ngài đưa cho người làng Cây Đen hay thợ săn khác thì chúng sẽ chả ngửi thấy mùi khỉ gì đâu…”
Mấy giây sau đó, bốn phía xung quanh rền rĩ những tiếng gầm gừ như trườn ra từ trong cổ họng, xa hơn nữa là những tiếng hét inh tai điên cuồng.
“Nhờ hương thơm này… Sương à, không cần ngài tiết lộ thì tôi cũng thừa biết ngài là gì rồi.”
Khi Kalinger đang tự làu bàu với mình thì một đôi mắt đỏ như máu chớp lên trong khu rừng tăm tối.
Kalinger mạnh mẽ vung thanh kiếm cong vẽ ra một vòng cung bạc, cùng lúc đó, hơn chục con quái vật cả to lẫn nhỏ nhảy bổ ra từ các bụi cây, chúng gào thét và lao thẳng về phía anh.
*
Lũ chim chóc choàng tỉnh giấc bay loạn xạ, cây cối rung lắc dù trời lặng gió, và âm thanh thuộc về lũ dã thú hay quái vật thì loáng thoáng lúc gần khi xa…
Người dân làng Cây Đen đứng bên bờ ruộng nhấp nhổm trông về khu rừng, họ cảm thấy có chuyện khủng khiếp nào đó đang diễn ra.
Tầng một của Quán trọ Hoan Ca trong làng đang tập trung mười mấy người, nhiều người khác thì tụ tập bên ngoài sân thành từng nhóm nhỏ ba đến năm người thì thầm rỉ tai nhau bàn bạc, số ít khác thì chau mặt chau mày đi đi lại lại.
Ngồi bên trong nhà là những người đức cao trọng vọng của ngôi làng, như ông trưởng làng cao tuổi, bà Marlow – góa phụ của quan trị an, thi nhân lang thang thường trú, bà chủ quán, mấy người trung niên và những bô lão cùng tuổi với trưởng làng.
Một phụ nữ mập với nước da ngăm ngăm nói, “Tinh linh bảo vệ chúng ta bao năm qua đã chết, chuyện gì đã xảy ra trên ngọn núi, ác ma muốn làm gì… Chẳng lẽ chúng ta cứ ngồi đây chờ đợi mà không làm gì cả ư?”
Một ông già trên xe lăn nói, “Có gì đó rất bất thường nên chúng ta chớ manh động. Ví dụ trước đây tinh linh rất hiền hòa vì sao đột nhiên lại gắt gỏng ấy?”
Người đàn ông đầu trọc làu bàu, “Ôi dào, có tuổi rồi thay tính đổi nết hết ấy mà, cứ trông mẹ tôi đấy, lúc trẻ thì gì cũng tốt, chả đánh chả mắng tôi bao giờ, có tuổi rồi chả cãi tay đôi với tôi suốt ngày.”
“Đó là tinh linh, không phải mẹ nhà anh!” – bà chủ quán nói, “Tôi thì cho rằng tinh linh không đổi tính, ngài vẫn tốt với chúng ta. Mọi người đọc thư rồi thì phải hiểu vì sao ngài ấy gắt gỏng chứ, là vì lo chúng ta bị thương hoặc bị ác ma giết hại phải không nào? Nếu cứ lên núi bất chấp cảnh báo có khác nào chúng ta phụ lòng tốt của tinh linh đâu, mọi người thấy đúng không?”
Thi nhân thường trú cầm cây đàn Luýt rồi gảy tưng một nhịp, “Mẹ cháu đúng đấy, nhưng cháu vẫn phải bổ sung một số ý kiến.”
“Nói chuyện, đừng có đánh đàn.”
“Vầng,” – thi nhân đặt cây đàn xuống, “Tính tình của tinh linh không thay đổi, ngài vẫn luôn tốt với chúng ta, cái này thì ai cũng biết rồi nhé. Nhưng vấn đề là ngài tinh linh mới chết không phải là ngài tinh linh sống trong rừng mấy trăm năm trước.”
Mọi người châu đầu bàn bạc một lúc rồi nhìn thi nhân, rõ ràng những người khác cũng đã có suy đoán như vậy.
Thi nhân phân tích tiếp, “Tất cả chúng ta đều đã đọc bức thư, không chỉ ngữ điệu khác biệt mà nét chữ cũng thay đổi, một số người nói rằng tinh linh bị ác ma chiếm giữ còn số khác thì cho rằng tinh linh đã già, thật lòng thì cháu thấy đâu có rắc rối vậy nhỉ? Chuyện này đơn giản lắm, rõ ràng đã có nhiều hơn một tinh linh sống trong rừng. Dân làng ta hằng tin rằng tinh linh là thần linh, nhưng thực tế không phải vậy, tinh linh là một chủng tộc sinh sống tập trung ở khu rừng phía tây nam và đảo Yol, rất hiếm khi họ phiêu bạt bên ngoài, họ cũng cần ăn cần ngủ cần sống như chúng ta. Tinh linh cũng sẽ chết, mọi người có nhìn thấy bàn tay của tinh linh khi thợ săn Kalinger ẵm ngài ấy ra chứ? Cháu thì thấy rồi. Tay ngài ấy chỉ đẹp hơn chúng ta thôi, còn lại thì chả khác gì cả, thậm chí trên ngón tay cũng có vết chai do cầm bút nữa.”
Bà chủ quán vỗ lên đầu gối con trai và bối rối hỏi, “Con muốn nói chuyện gì vậy?”
Thi nhân đáp, “Ý con đây không phải vị tinh linh trước đây chết, mà là một tinh linh khác chết! Đã có hai tinh linh chết trong khu rừng rồi! Một là vị tinh linh ngày xưa, vì sao ngài ấy đột nhiên bặt âm vô tín? Mọi người cho là gì nào? Vì ngài ấy già rồi, sau khi chết ác ma mới bắt đầu trỗi dậy, lúc này tinh linh hay gắt gỏng mới bắt đầu liên lạc với chúng ta, vị tinh linh này cũng chỉ muốn tốt cho chúng ta thôi, nhưng cớ sao ngài ấy lại cáu kỉnh như vậy? Rõ là vì trưởng bối hay bạn của ngài ấy đã chết và đối đầu với ác ma cũng mệt mỏi kiệt quệ lắm chứ nên làm sao còn có thể lịch thiệp với chúng ta được nữa, mọi thấy hiểu chứ?”
“Có lý đấy…” – ông già ngồi xe lăn vuốt chòm râu bạc phơ, “Để đối phó với ác ma trong khu rừng mà hai tinh linh đã chết, không những thế một số người trong làng cũng đã hy sinh.”
Nghe thấy vậy, bà Marlow lau nước mắt ngẩng đầu, “Chồng tôi đã nói với chúng tôi trong lúc ốm nặng rằng khi ông ấy gặp tinh linh thì trông ngài ấy đã rất xanh xao rồi, nhưng ông ấy vẫn thật lòng biết ơn vì tinh linh đã dùng pháp thuật cứu họ, nếu không số người hy sinh đâu chỉ có thế.”
Thi nhân thường trú nói, “Nhưng giờ tinh linh này cũng chết rồi, đến lượt thợ săn tiền thưởng vào khu rừng. Chúng ta có thể làm gì? Chỉ biết chờ đợi thợ săn cũng chết và tìm một thợ săn khác thôi sao?”
Ai đó trong số đông thì thào thành tiếng, “Lãnh chúa sẽ có cách…”
“Nếu ác ma tiếp tục giết người, lúc đó lãnh chúa sẽ tìm cách, nhưng đó là chuyện của sau này. Vấn đề bây giờ là chúng ta có thể làm gì? Mọi người nhìn cửa hàng này đi, Quán trọ Hoan ca này, trước đây nó thế nào và giờ thì ra sao? Chú này -” – thi nhân nhìn ông chú trọc đầu, “Con gái chú là dược sĩ, còn con trai thì được một học viện nổi danh nào đó mời về nhập học để trở thành một nhà nghiên cứu ma thuật. Khi còn nhỏ, hai đứa rất thích đọc những cuốn sách về dược liệu và sinh vật ở đây, đa phần số sách ấy là sách cổ hàng trăm tuổi được tinh linh gửi đến. Mấy năm nữa, khi con chú trở thành pháp sư vĩ đại, chú có gọi nó trở về làng này để nó lên núi bảo vệ chúng ta như tinh linh đã làm chứ?”
Mọi người đều câm lặng, một số lắc đầu và thở dài chậm chạp, số khác thì thì thầm với nhau.
Người phụ nữ có làn da ngăm nói, “Tôi biết không thể ngồi không, nhưng tự ý lên núi cũng không được. Tinh linh kia nói đúng, chúng ta không phải dân chuyên, cứ đâm đầu chết vô ích thì thật vô nghĩa.”
“Cháu cũng nghĩ vậy,” – thi nhân đứng dậy, “Thế nên chỉ có đội canh gác và thanh niên trong làng đi thôi, chúng ta không vượt qua khu vực cảnh báo, nếu bắt gặp quái vật xuống núi thì ngăn cản chúng, nếu thợ săn tiền thưởng cần sự giúp đỡ, chúng ta sẽ lên giúp thay vì để anh ấy chạy về làng.”
Mọi người thảo luận một lúc trước khi công nhận rằng đó là biện pháp hợp lý. Già làng nhìn thi nhân và vời anh đến gần, thi nhân ngồi xổm trước mặt ông, ông vỗ lên vai anh, ở tuổi này ông đã khó mà nói sõi nhưng người trong làng đều hiểu ông muốn nhắn nhủ điều gì.
Vì vậy, mười mấy người ra khỏi Quán trọ Hoan Ca, tập hợp thành viên của đội canh gác và triệu tập những người trẻ tuổi tự nguyện lên núi.
Có những người dù không giỏi chiến đấu cũng tham gia, như cô gái trong câu chuyện bỏ trốn cùng người yêu rồi bị xỉu trong rừng, cô cưỡi chú ngựa nhỏ với ý định chạy vào thành gặp người anh trai làm vệ binh để kêu gọi thêm nhiều sự trợ giúp.
Thi nhân thường trú cũng tham gia đội ngũ lên núi, thay vì đàn Luýt thì anh mang con dao găm để tự vệ, nhưng vì là thi nhân nên không mang nhạc cụ làm anh ta bứt rứt khó chịu lắm, thế nên anh bèn giắt theo một ống sáo.
Sau khi nhóm người xuất phát, thi nhân vừa đi vừa lặng lẽ nghĩ:
Bóng đen tối tăm đang lan rộng, bao trùm và đe dọa cuộc sống hòa bình hàng trăm năm qua, những con người sống trong sự bảo vệ quyết tâm không…Không gì nữa nhỉ… anh muốn viết ý
“Không sợ hãi, họ đứng lên nhưng cố gắng không bôi thêm rắc rối” sao cho thật mượt mà và chau chuốt chút đỉnh, nhưng khó chọn từ quá, và bản anh hùng ca này phải ca ngợi cả những hy sinh của tinh linh và chàng thợ săn tiền thưởng đẹp trai nữa, khó viết thật đấy.
Càng nghĩ về nó, cảm xúc trong chàng thi nhân càng trào dâng mãnh liệt, trái tim chàng như có gì đó bành trướng và tràn trề, chỉ không biết đó là đam mê sáng tác hay là lòng quả cảm quyết chiến.
***
Mặc dù Sương để cổng mở nhưng Kalinger không quay về nghỉ ngơi giữa chừng.
Không việc gì phải nghỉ cả, lãng phí thời gian, và anh cũng chẳng cần.
Cánh rừng vốn có rất nhiều golem bốn chân, chúng có trách nhiệm tuần tra hàng ngày và phân phát thuốc trấn an. Những sinh vật bị nhiễm trong khu rừng được ăn viên thuốc của Sương định kỳ, sau khi ăn chúng sẽ no nê và yên phận trong một thời gian.
Nhưng giờ thì lũ golem đã biến mất bởi Sương nói rằng cậu phải cắt đứt kết nối phép thuật với chúng để tập trung làm phép. Còn lũ bị nhiễm thì cần dùng
“bữa”, chúng ngửi thấy mùi món ăn mới, thơm phức và quyến rũ hơn khi trộn với máu quạ… làm chúng muốn điên lên, dụ dỗ chúng lũ lượt kéo nhau ra khỏi tổ.
Tiên Hiệp HayCơ thể Kalinger cũng dính đầy thuốc bột hòa với máu, giờ thì anh và vũ khí của anh chẳng khác nào món ăn mới lạ hấp dẫn thu hút toàn bộ lũ quái vật trong khu rừng.
Khi mà hết con này đến con khác tranh nhau xông vào hòng cắn xé nuốt chửng Kalinger thì anh cũng quan sát chúng, một số còn đang trong quá trình chuyển hóa, một số khác đã biến thành sinh vật Vực sâu hoàn chỉnh. Những con biến hóa dở dang luôn dễ dụ hơn vì chúng hoàn toàn điên cuồng chỉ biết xông vào cắn xé mà không biết bỏ chạy dù bị đâm trúng.
Khi thanh kiếm cong của Kalinger đâm thủng cổ họng của một con quái vật cỡ lớn, nó vẫn vùng vẫy lao dọc theo lưỡi kiếm chỉ để được cắn một miếng mà chẳng màng gì đến sống chết. Kalinger xoáy kiếm và vung tay thật mạnh, đầu con quái vật bay vèo vào bụi cây rồi ngủ yên hẳn.
Với Kalinger thì loại chuyển hóa hoàn chỉnh khó đối phó hơn, chúng không quá điên cuồng và vì biết sợ nên chúng sẽ bỏ chạy.
Lúc đầu chúng bị hấp dẫn bởi mùi thơm ngọt ngào, nhưng khi đến gần Kalinger thì chúng không tấn công mà quay đầu trốn chạy. Vì một sinh vật chuyển hóa hoàn toàn đã là một sinh vật Vực sâu mà theo như cách gọi của con người thì là ác ma bậc thấp. Chúng có tư duy và hành vi mới, khi chúng phát hiện kẻ địch quá khủng khiếp trên cơ chúng thì sức hấp dẫn của
“món ăn” chả là gì cả.
Trốn chạy rõ là rắc rối hơn tấn công gấp bội. Kalinger vừa phải đối phó với lũ quái vật không lý trí vừa phải truy đuổi lũ ác ma bỏ chạy. Sau thời gian dài giằng co, khu rừng im ắng hơn và lũ quái vật cũng ít xuất hiện hơn.
Kalinger tiếp tục tuần tra và tạo ra những tiếng xột xoạt có chủ ý, mỗi nơi anh đặt chân qua đều có vết máu của quái vật để lại.
Anh ngửa đầu nhìn lên, cây cối rậm rạp đến nỗi anh không thể trông thấy bầu trời, càng không thể thấy chân trời xa bị cánh rừng bao phủ.
Sương nói rằng sẽ đóng cổng tháp khi mặt trời lặn, Kalinger không tài nào trông thấy bầu trời và anh tự hỏi còn bao nhiêu thời gian cho đến khi mặt trời lặn.
Kalinger đã có ý định bỏ quách lại rồi trở về… những con còn lẩn trốn bây giờ đã không còn nguy hiểm, chỉ còn vài con ác ma cấp thấp nhát gan, nhỏ thó và ưa ẩn nấp, thậm chí chúng không nguy hiểm bằng những con lai căng cỡ lớn. Ngay cả khi chúng chạy xuống chân núi thì một binh lính được đào tạo bài bản hoàn toàn có thể đối phó được, miễn là đủ người, đủ bình tĩnh và nghiêm túc thì một chọi một không thành vấn đề.
Nhưng Kalinger vẫn quyết định không bỏ về, anh phải dọn sạch khu rừng.
Không phải vì anh lo lắng cho sự an toàn của người dân làng Cây Đen. Anh chắc chắn sẽ bảo vệ hết sức có thể nhưng anh tự cho rằng đó là ý thức trách nhiệm của một thợ săn tiền thưởng mà không phải vì lòng tốt. Nếu vẫn xuất hiện thêm người chết ở làng Cây Đen khi anh đảm nhiệm nhiệm vụ ở đây thì điều đó chắc chắn sẽ hủy hoại danh tiếng của anh.
Một nguyên nhân khác nữa là vì tinh linh, cậu ta đã dặn dò rất kỹ nên nếu anh không dọn sạch lũ nhiễm bệnh trên núi thì chỉ sợ sau này khó mà còn được nghe ngài Sương khả kính mắng nhiếc nữa.
Cả người anh nhơm nhớp máu đen, bộ đồ đen anh mặc không nổi bật được màu máu nhưng chiếc áo choàng thì rõ ràng đã ngày một nặng trĩu.
Kalinger cởi chiếc áo choàng và ném nó đi để dụ dỗ những con quái vật ở xa có thể đánh hơi và mò đến. Dù sao chiếc áo cũng dính mùi thuốc thơm lừng và vì không có mặt anh nên những con đã chạy trốn sẽ khó lòng cưỡng lại, chúng sẽ đến nếm thử.
Chiếc áo được liệng vào một bụi rậm phía xa nào đó gây nên một tiếng hét rú vang trời, âm thanh rất rõ ràng và anh biết đó là tiếng của con người.
Kalinger bèn vạch lá, nhảy qua bụi rậm và rảo chân chạy đến. Anh thấy chiếc áo rơi vào khu vực mốc cảnh báo nơi cắm đầy bia đá và cây cối, một bầy sinh vật lắm chân kích cỡ khác nhau đang bò nhung nhúc quanh đó bị mấy người trong trang phục dân binh đâm bằng kiếm và giáo ngắn, một số khác thì trèo lên các trạc cây lớn và ném đá vào chúng.
Kalinger nhảy tới và xử lý nốt mấy con còn lại bằng vài nhát dẫm. Đám trai làng ngơ ngác nhìn anh trong khi anh cũng ngạc nhiên nhìn họ. Kalinger không ngờ họ dám lên núi và còn giết được mấy con quái vật nhiễm bệnh hẳn hoi.
Trước khi một chàng trai trẻ trong số họ định vỗ tay hoan hô thì Kalinger đã kịp thời cản cậu ta lại, “Không có thời giờ để chuyện trò đâu. Nghe này, vì mọi người đã đến thì hãy giúp tôi việc này.”
Nghe thợ săn tiền thưởng nhờ vả kết hợp với cảm giác thành tựu khi vừa thành công giết được bầy quái vật con làm những chàng trai phấn khích vô cùng.
Kalinger nhặt chiếc áo choàng mà anh vừa ném đi rồi dùng dao găm xẻ chúng thành nhiều miếng nhỏ. Kế đó anh chọn mấy dân binh nhanh chân chạy đi phân phát những mẩu áo có thể dụ lũ quái vật và yêu cầu họ ném nó vào các vị trí trên vành đai cảnh giới, sau đó hãy đi tìm và báo tin cho tất cả các đội ngũ đang lên núi.
Theo bố trí của Kalinger, những đội ngũ lên núi chỉ cần mai phục ở gần chỗ những mẩu áo, lũ quái vật nhỏ sẽ bị mùi thuốc dụ dỗ và ưu tiên mẩu áo hơn là những người sống. Một khi thấy chúng tụ tập thì mọi người chỉ cần bao vây và tiêu diệt chúng.
Kalinger còn cẩn thận căn dặn thêm rằng một khi xử lý xong thì rút lui ngay và ẩn nấp chờ đợi mục tiêu tiếp theo xuất hiện. Chỉ hoạt động trong phạm vi trong và ngoài vùng cảnh báo, tuyệt đối không được dấn sâu vào trong rừng.
Bằng cách này, họ vừa có thể xử lý lũ quái vật con còn lại giúp anh vừa không bị lây nhiễm khi ở gần tháp Trụy Nguyệt.
Kalinger cố ý nhấn mạnh rằng đây là lời trăng trối của tinh linh nên mong họ hãy tuân thủ, còn anh sẽ tiếp tục thực hiện ý muốn của tinh linh là quét sạch lũ ác ma.
Những người dân làng trang nghiêm thề trước Vinh quang của tổ tiên rằng nhất định họ sẽ tuân theo chỉ dẫn của tinh linh.
Bố trí xong mọi thứ cũng tiêu tốn rất nhiều thời giờ.
Kalinger nhìn lên bầu trời qua các tán cây khổng lồ, màu xanh trong vỗn có đã trở nên thẫm dần, có lẽ màu đỏ vàng cũng sắp trườn lên chân trời ở đàng tây.
Tháp Trụy Nguyệt sắp đóng cửa. Anh phải quay trở lại trước lúc đó.
Sương yêu cầu anh rời đi ngay khi xong việc và anh đã đồng ý. Nhưng từ lúc nhận ra hương thơm của viên thuốc thì anh biết chắc rằng: Nếu anh không trở về, Sương sẽ không bao giờ có thể ra khỏi tháp Trụy Nguyệt.