P1 - Chương 4
- Anh còn giữ mấy bức thư của Ngô Đình Thục không?
Câu chuyện bỗng nhiên trầm trầm. Luân tiếp nhận quyết định của Đảng với một thái độ rõ ràng là miễn cưỡng. Các trận đánh sắp tới quanh Cần Thơ hoặc phía bắc lộ Cái Sắn vẫn ám ảnh anh. Từ lúc rời cơ quan mật vụ Nam Bộ, trực tiếp cầm quân ở cấp tiểu đoàn, Luân dự hàng trăm trận đánh, song không phải lúc nào anh cũng thắng. Các đơn vị của Pháp từng cho anh nếm mùi đau khổ, khi ở Vĩnh Trà Bến(1), khi ở Long Châu Hà, khi ở Rạch Giá. Cho nên, Luân đã dành tất cả thời gian học tập nghiên cứu, điều tra các loại thực địa khác nhau, các đối tượng địch khác nhau, quyết tâm trở thành một cán bộ quân sự chuyên nghiệp. Từ 1951, tiểu đoàn 420 – với sự bổ sung chính trị viên Vũ Thượng, một cán bộ xuất thân từ thợ máy hải quân Pháp – đã trưởng thành hẳn. Chiến công của tiểu đoàn trở nên niềm hãnh diện của toàn Phân liên khu. Bên cạnh các tiểu đoàn 307, 308, 311… lẫy lừng, người ta bắt đầu kể thêm 420. Trước Đông Xuân 1953-1954, tiểu đoàn 420 làm nhiệm vụ cơ động trên một địa bàn rộng lớn. Luân được đề bạt trung đoàn phó. Tình hình dường như sửa soạn cho tiểu đoàn tung hoành. Bài hát của nhạc sĩ Quách Vũ có câu “ta thắng như chẻ tre, ta thắng như nước tràn” mấy năm trước bị phê bình là “lạc quan tếu” nay có vẻ không xa sự thật là bao nhiêu. Giữa tình thế “trăm năm có một” như vậy, cấp trên lại bàn với anh cung cách hoạt động lâu dài trong lòng địch!
(1) Tỉnh cũ thời kháng chiến chống Pháp gồm Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre
- Còn giữ… nhưng tôi không mang theo đây. Mang theo làm gì cái thứ…
Luân trả lời anh Tư, giọng vừa buồn vừa bực.
- Ý! – Anh Tư cười đôn hậu – Cái thứ đó quý lắm đa. Anh còn nhớ mỗi thư nói cái gì không?
Luân chỉ nhớ mang máng.
- Anh cứ tiếp tục công việc đang làm. Tất nhiên, anh phải để ít ra là một nửa thì giờ cho công việc sắp tới. Văn phòng chuẩn bị sẵn cho anh khá nhiều tài liệu, gồm báo cáo, báo chí, sách… Sở công an, phòng quân báo Bộ tư lệnh sẽ cung cấp cho anh các mặt tình hình. Điều anh cần giữ kĩ như nguyên tắc là không tiết lộ với bất kì ai nhiệm vụ mới của anh.
Anh Tư dặn dò thêm Luân trước khi Luân vùi đầu vào đống tài liệu trong gian nhà bên cạnh nơi làm việc của anh Tư.
Không rõ ai đó vô tình hay cố ý đặt lên bàn tờ Nhân dân miền Nam số mới nhất. Luân đọc ngấu nghiến bài kí tên Trung Thành mà Luân biết là bút danh của anh Sáu Thọ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Trung ương Cục: “… Quân địch đang bị động, đối phó với ta ở đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ và Trung Lào, chúng phải rút gần hết lực lượng ứng chiến tinh nhuệ ở chiến trường Nam Bộ ra các nơi đó, nên ở chiến trường Nam Bộ quân địch đang hoạt động yếu hơn trước và có rất nhiều sơ hở, tinh thần binh lính ngụy lại càng hoang mang dao động trước những chiến thắng của ta…”
*
Cái cớ mà giám mục địa phận Vĩnh Long Ngô Đình Thục viết bức thư đầu tiên cho Robert Nguyễn Thành Luân khá bình thường. Năm đó, năm 1952, kĩ sư điện René Nguyễn Thành Luân qua đời ở Paris – cả Jean và Robert đều không làm sao dự lễ tiễn đưa cha đến nơi yên nghỉ cuối cùng được. Ngay cái tin ông René Nguyễn Thành Luân mất, hai anh em đều không hay, trước khi Robert nhận được thư của giám mục.

Giám mục địa phận gửi thư chia buồn với người con của một tín đồ - và bản thân người con cũng là một tín đồ - không phải là việc gì cần bàn cãi. Hơn nữa, không ai không biết ông René Nguyễn Thành Luân có mối giao hảo cá nhân rất thân mật với người chủ chăn giáo phận – một trong những giám mục người Việt Nam ít ỏi lúc bấy giờ.
Năm Luân vào ban tú tài cũng là năm Ngô Đình Thục được phong giám mục. Ông René đưa con đến chào vị giám mục địa phận – niềm tự hào của người sùng đạo như ông. Và, giám mục đã ban phép cho Luân. Từ đó cho đến khi rời thành phố vào chiến khu, Luân vẫn thường gặp giám mục – nhất là dịp nghỉ hè.
“Cha đau buồn vô hạn khi được tin chẳng lành của người bạn thân, cụ kĩ sư René Nguyễn Thành Luân, vừa từ trần, an táng tại nghĩa trang Père-la-Chaise. Cha đã cầu nguyện cho cụ và mong con cũng cầu nguyện cho người cha thân yêu của mình về nước Chúa…”
Bức thư vắn tắt như vậy thôi.
Bức thư thứ hai, nhiều ý hơn, đến vào tháng 7 năm 1953.
“Cha mừng con được an khang trong Chúa. Cha mong mỏi một ngày gần nhất được gặp con, vừa để thăm lại đứa con của giáo phận ra đi đã tám năm, vừa han hỏi đứa con của người bạn mà cha lúc nào cũng quý mến. Con có thể ột cái hẹn không? Cha đảm bảo tất cả an toàn và cha tin là con không hề có một chút nghi ngờ.”
Liên trung đoàn trưởng 120 – cũng là một tín đồ đạo Thiên Chúa – nói lại với Luân, ông ta cũng nhận một bức thư tương tự, dĩ nhiên hình thức là chuyện nhớ mong… vì Liên trung đoàn trưởng thuộc một gia đình đạo không phải toàn tòng. Thư của giám mục gửi cho con chiên kháng chiến tương ứng với diễn biến ở chiến trường: năm 1953, thực dân Pháp đang hấp hối.
Hai tháng sau, tháng 9 năm 1953, Luân nhận được bức thư thứ ba:
“Cuộc chém giết ngoài ý Chúa đã kéo khá dài. Như các đấng bề trên và Đức Thánh Cha hằng lo lắng, cha đêm ngày cầu mong sao máu ngừng đổ. Con là một chỉ huy, cha mong con đóng góp vào một cuộc bãi binh mà mỗi bên đều giữ được danh dự. Cha nóng lòng được gặp con đặng cha con ta bàn thảo xem con có thể làm được điều gì trong phận sự mà con gánh vác ngoài đời, chu toàn đặng trách nhiệm của một dân Chúa. Ông Savany, con biết danh tiếng của ông, sẵn sàng tạo mọi phương tiện cho con gặp cha.”
Savany là trung tá, phụ trách phòng nhì Pháp ở đồng bằng sông Cửu Long.
Và bức thư mới nhất trước trận tiểu đoàn 420 hạ đồn Biện Tạ.
“Thời cuộc xoay chuyển thiệt là mau lẹ. Theo những gì mà cha nắm được, trong một ngày không xa, ông Ngô Đình Diệm sẽ về nước chấp chính. Cha hi vọng con hiểu rõ tầm quan trọng đặc biệt của sự thay đổi nầy. Là một người tín ngưỡng Chúa, lại theo chủ nghĩa quốc gia, có mối giao thiệp thân tình với gia đình họ Ngô Đình, con cần suy tính thật kĩ và nên dứt khoát trước khi quá muộn. Sắp tới, không phải người Pháp mà là người Mỹ sát cánh với chúng ta. Con nên nhớ, nước Mỹ là nước đã ném bom nguyên tử xuống nước Nhật. Đức hồng y Spellman thường thư từ với cha. Đó là một đấng bề trên hiểu biết và rộng lượng…”
Thư của giám mục gởi cho Luân vào lúc Mỹ gần như gánh trọn toàn bộ ngân sách chiến tranh Đông Dương – ngày 30-7-1953 quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận viện trợ quân sự cho Đông Dương tài khóa 1953-1854 là bốn trăm riệu Mỹ kim; ngày 2-9-1953 Chính phủ Hoa Kỳ lại quyết định bổ sung thêm ba trăm tám mươi lăm triệu đô la nữa. Sự viện trợ dồn dập như thế nhằm yểm trợ cho “kế hoạch Navarre” mà một trong những điều then chốt là “giao cho phía Việt Nam những phần trách nhiệm nặng nề hơn.” Bức thư cũng liên quan tới lời tuyên bố úp mở của Thủ tướng Pháp Laniel ngày 12-11-1953: “Chính phủ Pháp nghĩ rằng vấn đề Đông Dương không nhất thiết phải có giải pháp quân sự. Pháp không đòi hỏi đối phương phải đầu hàng không điều kiện. Pháp mong muốn có cuộc điều đình.”

*
Cuộc hành quân Castor mở màn, với sáu tiểu đoàn Âu Phi nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Đây là một canh bạc Pháp dốc túi, không chỉ để giảm đến mức có thể giảm sự thua thiệt trước các dân tộc Đông Dương mà còn hòng trả giá với chính đồng minh Mỹ.
Một René Coty nào đó, sau mười ba vòng bầu mới được quốc hội Pháp giao ghế Tổng thống. Nó cho thấy sự phân hóa sâu sắc trong giới cầm quyền Pháp vì cái “ung nhọt” chiến tranh Việt Nam.
P1- Chương 5
Giám mục Ngô Đình Thục ngả người trên ghế bành, chăm chú theo dõi thái độ Ngô Đình Nhu.
Ông nhận được thư trả lời của Robert Nguyễn Thành Luân và tức tốc lên Sài Gòn để trao đổi với Nhu.
Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập trước đây có mấy hôm, do sắc lệnh của Quốc trưởng Bảo Đại.
Trận Điện Biên Phủ kết thúc từ đầu tháng năm, dư âm vẫn còn vang động. Lịch sử chinh phục thuộc địa của Pháp – và các đế quốc phương Tây nói chung – chưa bao giờ vấp một thất bại đau đớn và nhục nhã như vậy: mười sáu nghìn binh sĩ, một viên tướng, hàng trăm sĩ quan, với những con số khí tài ngồn ngộn đành đầu hàng giữa một tập đoàn cứ điểm kiên cố vào bậc nhất Động Dương. Tư lệnh tập toàn cứ điểm, Tướng De Castries, đã bất tuân thượng lệnh: Tướng Cogny, cấp trên của De Castries, buộc ông ta tự sát. Thay vì dùng mảnh vải để thắt cổ, ông dùng nó làm cờ trắng.
Bảo Đại chấp nhận phục hồi Diệm, kẻ bị thất sủng hàng chục năm trước, không hề hàm ý là một ân huệ của hoàng gia. Cất chức Diệm trước đây, Bảo Đại tuân theo chỉ thị của Khâm sứ, bây giờ tấn phong Diệm, Bảo Đại thừa hành quyết định của hai ông chủ: Mỹ và Pháp. Bảo Đại còn bận tâm hơn những buổi dạ tiệc ở lâu đài Thorenc và ông sẽ phải trả một cái giá ê chề về quyết định “Giao toàn quyền quân và dân sự cho Ngô Đình Diệm” của ông.
Vấn đề không phải là Bửu Lộc sang gánh cho Ngô Đình Diệm. vấn đề là thế trận của thế giới tự do ở Đông Dương phải bố trí lại và cái đầu quyết định thế trận từ điện Elisee tại Paris chuyển sang White House tại Washington.
Tình hình sẽ ra sao, đó còn trong dự đoán, song cái đã phơi bày là Pháp đang cuốn gói ở Bắc Bộ.

Ngày 25-6-1954, Thủ tướng chỉ định Ngô Đình Diệm xuống sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30-6 bay ra Hà Nội; trước đó một hôm, quân đội Pháp rút bỏ Nam Định và Thái Bình, hai tỉnh chiến lược mà chúng tốn công sức giữ suốt ngần ấy năm đánh nhau.
Ngày 2-7-1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra thông cáo phản đối sự rút lui của Pháp ở các vùng nhiều giáo dân đạo Thiên Chúa.
Kết quả trực tiếp nhất của thông cáo phản đối là ngày hôm sau, Pháp bỏ nốt Phủ Lý và cùng ngày, hai phái đoàn quân sự Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp nhau ở Trung Giã để bàn việc ngừng bắn.
Thế là Ngô Đình Diệm phải cho ra đời ngay một Chính phủ thân Mỹ là chính, song vẫn giữ mùi Pháp trong một bối cảnh hết sức tế nhị.
*
Ngô Đình Nhu đọc đi đọc lại bức thư. Bức thư gọn gàng:
“Kính Đức cha,
Mãi tới hôm nay con mới có thể kính trình đến Đức cha bức thư nhỏ nầy. Suốt mấy năm qua, con phải đi lại luôn, nhiệm vụ một cán bộ chỉ huy quân đội buộc con như vậy. Điều mà con hết sức sung sướng là nhiều tín đồ đạo Thiên Chúa có mặt trong hàng ngũ kháng chiến. Ngay ở đơn vị con, số lượng đó không ít. Hơn nữa, chúng con được chăm sóc phần hồn nhờ các linh mục không rời bỏ con chiên như cha xứ Hồ Thành Biên, cha phó Võ Thành Trinh và nhiều tông đồ khác của Chúa.
Cuộc kháng chiến của toàn dân sắp bước vào bước ngoặt lớn – ngày chiến thắng của nhân dân ta không còn xa nữa, sau võ công Điện Biên Phủ chấn động thế giới. Chính con, khi viết thư nầy trình Đức cha, vừa từ chiến dịch trở về. Đơn vị dưới quyền của con đã giải phóng một loạt làng xã bao quanh Cà Mau. Con nghĩ rằng con sẽ có dịp viếng Đức cha.
Cuối thư, con cầu Chúa ban bình an và minh mẫn cho Đức cha.”
Thư của Robert Nguyễn Thành Luân đề ngày 30-6-1954.
Căn phòng trở nên im lặng, hơi nặng nề. Ngoài tiếng giày nện đều đều của Nhu, không còn một âm thanh nào khác.
Giám mục đặt tay lên bụng, nhìn đứa em với sự chờ đợi. Dẫu sao, Nhu vẫn là người có thẩm quyền hơn hết định giá trị của bức thư và kéo theo, định thái độ của gia đình họ Ngô với viên sĩ quan Việt Minh nầy.
Giám mục viết bức thư đầu tiên cho Luân, cách đây hơn hai năm, là do gợi ý của Nhu. Lúc đó, tin đồn Ngô Đình Diệm về nước lan dai dẳng. Một số người Mỹ đã gặp Nhu. Hồng y Spellman gửi cho giám mục hàng tá thư. Hoàn toàn không phải là vì người chủ chăn ở Nữu Ước muốn có quan hệ đặc biệt với người chủ chăn một giáo phận vô danh ở Việt Nam.
Nhu bàn với giám mục những khả năng lôi kéo người theo đạo Thiên Chúa đang kháng chiến về với Ngô Đình Diệm. Trong bản kê, Jean và Robert Nguyễn Thành Luân nằm trong số những người được chú ý bằng những gạch đỏ đậm nét và trong hai người, Robert được nhiều gạch hơn vì Robert là chỉ huy quân đội và vì chưa ai nói rằng Robert vào Đảng Cộng sản. Robert không phải là chính khách, khác với Jean. Có thể Robert vẫn còn là con chiên – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa trắng.

Nhu nói: Phải sửa soạn ngay từ bây giờ. Chúng ta cần, hết sức cần, người kháng chiến Công giáo. Lực lượng xây dựng từ các phần tử bấy lâu quẩn quanh bình sữa “mẹ bồng con” Mont Blanc sẽ chẳng làm cho chúng ta tự phân biệt với các ông Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm…
Nhưng, Luân không trả lời. Giám mục nóng lòng, viết tiếp… Mãi bây giờ Luân mới trả lời.
- Đức cha có thấy điều gì ẩn phía sau bức thư của Nguyễn Thành Luân không?
Nhu phá bầu không khí nghiêm trang hơn buổi lễ cầu kinh này bằng câu hỏi hơi nặng giọng.
Giám mục vẫn nhịp tay lên chiếc bụng khá to, nhíu mày: Bao giờ cũng vậy, ý kiến của giám mục phụ thuộc vào ý kiến người khác, trước kia ông nể Ngô Đình Khôi, rồi Ngô Đình Diệm, bây giờ ông hết sức coi trọng những suy nghĩ của Ngô Đình Nhu. Và, không riêng gì ông, trong vòng vài năm nay, Ngô Đình Nhu trở thành một “quân sư” đầy uy tín, trong đôi trường hợp, một nhà tiên tri trước mắt Diệm và Luyện.
Thục chờ đợi Nhu, tay nhịp khẩn trương lên bụng, chiếc nhẫn giám mục gần như vạch một vệt vàng.
- Em để ý những chữ: “cuộc kháng chiến toàn dân tộc,” “chiến thắng của nhân dân ta,” “võ công Điện Biên Phủ chấn động thế giới.” Hắn không quên nhắc khéo: hắn là một chỉ huy, đánh tan cả hệ thống phòng thủ Cà Mau. Trên tất cả các thứ khôn ngoan, hắn cho biết hắn vẫn là một tín đồ sùng đạo…
Thấy Thục có vẻ như chưa hiểu ẩn ý của bức thư, Nhu đứng lại:
- Hắn nhấn mạnh để chúng ta nhớ: nếu hắn trở về thành thì không phải với đôi bàn tay trắng.
- Tất nhiên – giám mục nói rụt rè – Ta cần gì những kẻ chỉ có đôi bàn tay trắng.
- Đúng… Ta cần những kẻ mang một cái gì về với ta. Nhưng tốt nhất chỉ nên mang trên cầu vai, thậm chí trên da thịt. Đừng mang trong đầu!
Giám mục ngồi thẳng dậy – ông ta phục xét đoán của em.
- Tuy vậy, để còn xem – Nhu nói chậm rãi – Đức cha viết tiếp cho hắn một thư nữa. Liệu hắn có chịu gặp Đức cha ngay không? Em muốn hắn có mặt ở thành càng sớm càng tốt trước khi các phe liên hệ đạt giải pháp về vấn đề Đông Dương. Đức cha nói cho hắn rõ: Chúng ta cư xử với một người tách ra khỏi phía bên kia khác với một kẻ phục viên…
Giám mục nghĩ rằng người em của ông đúng. Chắc Robert Nguyễn Thành Luân cũng thấy được thực tế nầy. Bởi vậy, ông lập tức gửi cho Luân một bức thư nữa – kèm luôn điểm và ngày giờ đón Luân, qua một cha xứ ở vùng giáp ranh.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play