Dịch: Phi Phi/ Beta: Kei

“Vị này chắc là sư gia của Phùng gia rồi, ngưỡng mộ đã lâu”.

Tùy Ý khẽ gật đầu với lão ta, cười nhẹ: “Ta là người Phùng Đông gia* phái tới giúp đỡ các người. Phùng Đông gia đã dặn dò có một lời phải đích thân nói riêng cho Hoàng Đại đương gia, phiền sư gia tránh đi một lát.

* 东家 Đông gia: chỉ người đứng đầu, ông chủ, chủ nhân.

Phùng gia sư gia nhướng đôi mắt hí, nghe thấy lời này bèn mở trừng mắt thêm một chút, giống như còn chuột bị ném vào một bầy mèo, toàn thân đều bày ra tư thế cảnh giác.

Hoàng Quý Dung đứng bên cạnh nghe thấy câu chuyện rơi xuống đầu mình, sắc mặt càng thêm thận trọng: “Nếu là người Phùng Đông gia phái tới thì thủ ấn đâu?”.

“Đừng nghe hắn nói bậy!”. Phùng gia sư gia không thể không đứng chặn trước người Hoàng Quý Dung: “Đông gia không hề đề cập đến chuyện này trong thư, ngược lại là…”.

“Người này đã có bản lĩnh tìm đến đây thì nhất định đã nắm được tình báo gì đó, rất có khả năng hắn chính là kẻ bắt lão Lý!”.

Đúng lúc này, một trong số những tên lính đang đứng quan sát xung quanh đột nhiên lên tiếng: “Thế tử… Đại đương gia, hắn… hắn là Thế tử phủ Tĩnh Quốc công!”.

Dường như đã bị câu nói này thức tỉnh, đám người lập tức rối loạn mang theo ánh mắt e dè kiêng kị lẫn địch ý phóng về phía thiếu niên, ký ức cũng dần quay lại sau khoảnh khắc kích động:

“Ta nhớ ra rồi, vụ cướp xe ngựa của Lục gia lần trước cũng vì hắn mà hỏng việc”.

“Kẻ này thân thủ tàn nhẫn như ma quỷ, Đại đương gia cẩn thận!”.

“Hắn, hắn cũng từng giao thủ với ta, chưa biết chừng lão Lý thật sự bị hắn bắt đi”.



“Ây da”. Tùy tiểu Thế tử thờ dài trong tiếng nghị luận của đám đông xung quanh, giọng điệu vừa đùa cợt vừa khinh thường: “Quả nhiên không dễ lừa đâu”.

Phùng gia sư gia bình tĩnh lại sau cảm giác kinh hoàng, lập tức có tính toán trước trong lòng: “Quả nhiên có ám chiêu, nhanh, nhanh bắt hắn lại!”.

Đám người xung quanh lập tức nghe theo, mới đầu chúng còn e dè vì cách hình dung “thân thủ tàn nhẫn” kia nên không dám tới quá gần. Chúng ngoặt hai tay thiếu niên ra phía sau, thấy Tùy Ý không hề có ý định chống cự mới nửa tin nửa ngờ trói người lại.

Phùng gia sư gia thấy cục diện đã triệt để nằm trong tầm kiểm soát của mình thì khoan khoái thở hắt ra một hơi. Nếp nhăn trên khóe mắt xô đẩy phảng phất tựa như cúc non bên hàng rào.

Hoàng Quý Dung vẫn còn lo nghĩ, có lẽ là vẫn chưa thể dứt khỏi lời nói lúc mới đến của người đang bị trói kia.

Ông ta lại gần mấy bước, đặt câu hỏi với thiếu niên đang bị trói hai tay bắt chéo sau lưng: “Ngươi chắc chắn biết võ công, vì sao lại không phản kháng?”.

Tùy tiểu Thế tử vờ như cố nhếch khóe môi: “Ta đã nói rồi, ta chỉ đến nói với ngươi mấy câu, không phải đến đánh nhau”.

Lỗ tai của Phùng gia sư gia khẽ động đậy, chen ngang cuộc đối thoại giữa hai người; mặt mày đầy vẻ nghi ngờ khuyên can Hoàng Đại đương gia: “Kẻ này âm hiểm xảo trá, Hoàng huynh tuyệt đối đừng bị hoa ngôn xảo ngữ của hắn mê hoặc, nhanh chóng giam hắn lại đi!”.

“Sư gia vội vàng muốn chặn họng ta như vậy, không phải là…”.

Phùng gia sư gia thấy âm thanh nhẹ bẫng của đối phương truyền đến, cả người không khỏi run lên. Lão ta chậm rãi quay đầu lại, chỉ thấy thiếu niên đang bị trói kia mỉm cười nhìn mình, khóe môi đóng mở hờ hững phun ra ba chữ:

“Chột dạ rồi?”.

… Quả thực kẻ này cứ như yêu ma có thể nhìn thấu lòng người.

Cổ họng của Phùng gia sư gia cứ như bị mắc gì đó, cứng họng phản bác: “Ngươi đừng có ngậm máu phun người, ta có gì phải chột dạ? Nếu ngươi…”.

“Được rồi!”.

Hoàng Quý Dung cau mày, lên tiếng chặt đứt cuộc đối thoại.

Phùng gia sư gia bị chặn họng, cũng không tiếp tục cãi lại. Lão ta hừ lạnh một tiếng, phe phẩy chiếc quạt lông.

Bầu không khí lấy lại yên tĩnh một lần nữa, Hoàng Đại đương gia lại nhìn về Tùy tiểu Thế tử vẫn mang thần thái ung dung như cũ.

Có lẽ trước đây đã trải qua bao nhiêu nếm mật nằm gai, ông ta không còn quanh co rào trước đón sau nữa mà đi thẳng vào trọng điểm: “Hiện giờ lão Lý đang ở đâu?”.

“Rời kinh thành rồi”. Tiểu Thế tử thản nhiên nói: “Nói rõ hơn một chút thì ông ta đã rời phủ Khai Phong rồi”.

Đám người xung quanh chưa từng nghĩ đến kết quả này, tất cả đều rất bất ngờ lẫn sợ hãi, đưa mắt nhìn nhau khó hiểu.

Hoàng Quý Dung cũng giật mình, nhưng chẳng mấy chốc đã bình tĩnh lại: “Vì sao?”.

“Lý huynh là ân nhân của ta”.

Giữa vòng vây quan sát với ánh mắt hiếu kỳ, Tùy tiểu Thế tử nói nhẹ nhàng:

“Ta lâm bệnh nặng khi còn nhỏ, nhà ngoại Lang Gia biết tin bèn sai người đón ta đến chăm sóc. Nào ngờ bọn ta gặp phải sơn tặc trên đường ở Duyễn Châu”.

“Ta và nô bộc trong nhà bị lạc nhau, sau đó bị sơn tặc bắt đến doanh trai, bị nhốt ở đó tròn nửa tháng. Sau này, Lý huynh là người đầu tiên tìm được ta”.

Tùy Ý nói: “Nhưng khi có ta còn quá nhỏ, bị dọa đến mức mất hồn mất vía nên không nhớ ra phải hỏi tên hắn, chỉ nhớ rõ tướng mạo và giọng nói”.

“Mấy ngày trước gặp gỡ các ngươi, ta đã nhận ra hắn. Ta biết Lý huynh tâm địa lương thiện, chắc chắn không thể nào là kẻ đại gian đại ác làm ra chuyện bắt cóc, nhất định phải có uẩn khúc gì trong chuyện này. Có lẽ hắn cũng vì vạn bất đắc dĩ, ta có quyền thế trong tay, nên giúp đỡ hắn để trả ân tình năm xưa”.

“Thế nên ta tìm kiếm khổ sở, cuối cùng mới tìm được hắn ở hàng thịt Lý thị. Bởi vì không xác định được có phải hắn bị người ta ép buộc không nên ta không trực tiếp ra mặt, mà phải người lấy danh nghĩa mua thịt để mời hắn tới”.

“Cũng chính nhờ cuộc gặp này mà ta đã biết nỗi khổ tâm của hắn. Ta hứa cho hắn mảnh ruộng, tiền bạc và một thân phận mới, sau đó tiễn hắn ra khỏi thành, như vậy cũng có thể cứu vớt hắn từ vũng bùn lầy, chỉ có điều…”.

“Trước khi đi, Lý huynh nói rất hổ thẹn với các ngươi”.

“Bạn tốt của ân nhân, lẽ nào ta lại không để ý?”.

“Lý huynh vốn định đích thân đưa ta đến gặp các vị nhưng với thân phận của hắn, ở lại phủ Khai Phong thêm một khắc thì nguy hiểm sẽ ngày càng nhiều; cho nên ta đã để hắn đi trước”.

Nói đến đây, tiểu Thế tử ngẩng đầu nhìn Hoàng Quý Dung:

“Hoàng Đại đương gia, ta biết các ngươi không hại con tin, bây giờ quay đầu vẫn còn kịp. Dựa vào thủ đoạn của ta, vẫn có thể bảo vệ các ngươi; từ sau mai danh ẩn tích giống Lý huynh, có ruộng có đất, làm một bách tính bình thường”.

Gian phòng vô cùng yên tĩnh.

Đây quả thật là một câu chuyện lòng vòng quanh co, nhưng cũng đủ sức lay động lòng người.

Đám người Thiên Đạo Hội đánh cược tính mạng, vứt bỏ lương tri cũng chỉ vì muốn kiếm sống. Bây giờ lại có người nói có thể không may mảy gì mà cho không chúng những thứ đó.

Cho dù là thánh nhân cũng không kháng cự được lời đề nghị hấp dẫn như vậy.

“Các vị, đừng trúng quỷ kế của kẻ gian!”.

Một giọng nói sắc lạnh tức giận phá tan bầu không khí ẩm ướt sau cơn mưa, lọt thẳng vào lỗ tai những người xung quanh.

Hai gò má của Phùng gia sư gia đỏ ửng vì giận dữ. Lão ta phẩy chiếc quạt lông nhằm nối lại tinh thần đã chùng xuống của đám binh sĩ.

Nhưng xung quanh vẫn im lặng, không hề có ai lên tiếng hùa theo lão ta.

Một giọng nói chầm chậm buồn tẻ trong đám người vang lên trong tiểu viện:

“Ta từng nghe được rất nhiều lời đồn về phủ Tĩnh Quốc công trên phố. Nhiều năm trước, sau khi vợ cả của Tĩnh Quốc công qua đời, Thế tử này đúng là đã bệnh nặng một trận. Lúc đó, Vương gia ở Lang Gia còn phái người đến, ép phủ Quốc công phải đưa Thế tử ra”.

Có người tiếp lại: “Ta là người Duyễn Châu, năm đó cũng từng nghe nói Thế tử phủ Tĩnh Quốc công về Lang Gia dưỡng bệnh đột nhiên lại mất tích, còn gây nên một chấn động lớn ở châu phủ lúc bấy giờ”.

Lại có người nhớ lại: “Đại đương gia, lúc ta uống rượu với lão Lý đã từng nghe hắn nói từng hành quân qua Duyễn Châu…”.

“Nhắc mới nhớ, lần trước đối đầu với hắn lúc cướp xe ngựa của Lục phủ, hắn cũng không hạ sát thủ với lão Lý, còn một mực khuyên bọn ta mau rời đi, nếu không sẽ dẫn dụ cấm quân đến”.



Các hán tử Thiên Đạo Hội, ngươi một lời ta một câu, bọn chúng vắt hết trí nhớ còn lại, vô tình lại vun vào lời nói dối của tiểu Thế tử.

Mỗi câu đều là bằng chứng, chưa hề xuất hiện sự mâu thuẫn nào.

Sắc mặt Hoàng Quý Dung càng thêm trầm ngâm do dự, khác hẳn với Phùng gia sư gia đang hoảng loảng thấp thỏm bên cạnh. Ông ta quay sang Tùy tiểu thế tử, híp mắt hỏi: “Trước khi đi, lão Lý có nhờ ngươi chuyển thư tay cho ta không?”.

“Hoàng Đại đương gia cứ đùa”. Tùy Ý cười yếu ớt, nhìn vào cặp mắt của ông ta: “Khi ta giao khế ước ruộng đất cho Lý huynh, hắn một chữ cũng không biết thì sao viết thư được đây?”.

Hoàng Quý Dung nghe vậy, đôi mà hơi giãn ra, chắp tay cười: “Nếu không có thư tay thì làm sao ta có thể hoàn toàn tin tưởng lời của Thế tử đây?”.

“Trên người ta cũng có một tín vật, nhưng phải làm phiền Đại đương gia cởi trói cho ta trước đã”.

Hoàng Quý Dung nhìn chằm chằm Tùy tiểu Thế tử trong bộ dạng thành khẩn. Một lúc sau, ông ta bước đến phía sau hắn; đang muốn cởi trói cho hắn thì lại bị Phùng gia sư gia đè tay lại.

“Hoàng huynh, tuyệt đối không thể! Kẻ này gian trá không thiện, nếu hắn bắt được lão Lý rồi nghiêm hình tra tấn thì cũng không khó hỏi được quá khứ của lão Lý và nơi ở của chúng ta ngoài thành. Hoàng huynh không được dễ tin hắn như vậy!”.

Hoàng Quý Dung lườm sư gia một cái.

“Nghiêm hình tra tấn sợ là không thể kể rõ chi tiết kín kẽ như vậy đâu? Huống chi trùng hợp nhiều như vậy… sư gia không ngại thì cùng ta nhìn vật chứng này xem sao, là thật hay giả sẽ biết ngay thôi”.

Nói xong, ông ta gạt tay sư gia rồi cởi dây trói cho Tùy Ý.

Dây trói thô ráp, tiểu Thế tử được ăn ngon mặc đẹp từ nhỏ dĩ nhiên không thể chịu được dây trói cọ sát vào cơ thể. Mới trói được một lúc mà cổ tay đã hằn lên những vết đỏ nhàn nhạt.

Hắn phủi tay, sau đó lấy một tấm bùa bình an từ trong tay áo, mỉm cười rồi đưa cho Hoàng Quý Dung: “Hình như là nương tử của Lý huynh xin cho hắn. Đại đương gia cảm thấy tín vật này đúng không?”.

Dĩ nhiên là đúng.

Hoàng Quý Dung nhìn lá bùa với ánh mắt phức tạp: “Bùa bình an này là mạng sống của lão Lý, xưa nay chưa từng cho bọn ta đụng vào. Nếu hắn chưa hoàn toàn buông bỏ chuyện xưa thì sẽ không quyết định đưa nó ra đâu”.

Đám ngươi khẽ châu đầu ghé tai vào xem.

Sắc mặt của Phùng gia sư gia tái mét, vẫn quyết liệt phản đối: “Nhưng vật này cũng có thể là bị cướp được…”.

“Nếu ta muốn bắt các ngươi thì cứ đưa thẳng người của Đại Lý Tự đến là được”.

Tiểu Thế tử ngăn chặn những suy đoán không có điểm dừng của lão ta, ngữ điệu thả lỏng một chút: “Trái là sư gia, từ khi thấy ta muốn nói chuyện riêng với Hoàng Đại đương gia thì ngươi luôn muốn nhốt ta lại…”.

“Âm mưu của ngươi là gì?”.

Hoàng Quý Dung khẽ cau mày, hoảng hốt lúc trước Tùy Ý đã từng nói câu tương tự. Nhưng lúc đó thiếu niên nói rất mờ hồ, còn ông ta lại một mực khăng khăng muốn biết lão Lý đang ở đâu nên không hề truy hỏi.

“Lời của Thế tử có ý gì?”.

“Giết…”.

Hai con mắt của Phùng gia sư gia bốc hỏa, ngón tay lão ta run lên bần bật như thể sợi dây nào đó trong đầu đã đứt đoạn. Lão ta quay đầu ra lệnh với đám tay chân:

“Giết hắn!”.

Đám tay chân rút kiếm xông lên.

Hoàng Quý Dung cảm thấy không ổn, lập tức chỉ huy người của Thiên Đạo Hội tiến lên cản đường, còn mình thì dẫn Thế tử Tùy gia lui về sau.

Lý trí của Phùng gia sư gia như bị lửa thiêu rụi: “Hoàng Quý Dung, ngươi muốn làm phản hay sao!”.

“Sư gia nói quá lời, Hoàng mỗ chẳng qua chỉ muốn nghe Thế tử nói hết thôi”.

Hoàng Đại đương gia nói, sau đó nghiêng đầu về thiếu niên đứng sau lưng: “Thế tử, ngươi nói tiếp đi”.

Tùy Ý cười, nói từ tốn: “Đại đương gia, vị sư gia này có từng nói với ông về mục đích Phùng gia tìm các ngươi đi bắt cóc, ám sát không?”.

Hoàng Quý Dung cau mày: “Chính sách mới bất công, Phùng gia muốn trả thù cho hả giận, cũng vì muốn uy hiếp phe mới nên mới tìm bọn ta đến làm việc này”.

“Thế vì sao cuối cùng mới ám sát quan lớn của phe mới? Vì sao lại bắt cóc quý nữ của họ mà không giết?”.

Phùng gia gia sư phẫn nộ đáp: “Tất nhiên là Đông gia nhà ta bận tâm đ*o nghĩa, nếu không phải phe mới mãi không chịu hối cải thì cũng không đến nỗi phải giết gian thần! Còn về những cô nương kia, dù sao họ cũng vô tội, Đông gia nhà ta cũng không muốn tuyệt tình”.

“Ồ? Đạo nghĩa?”. Tiểu Thế tử mỉm cười, hỏi: “Thế sau này có phải sẽ thả mấy cô nương đó về không?”.

Phùng gia sư gia cứng họng: “Cái này…”.

“Tuyệt tình hay không cũng không nằm ở việc các ngươi có giết các cô nương ấy hay không mà nằm ở chỗ nhốt hay không, thả hay không thả. Huống chi, Phùng gia đã hạ quyết tâm giết quan lớn bên phe mới, nữ quyến của họ sống chết ra sao thì có gì quan trọng nào? Vì sao không giết cả đi? Phùng gia nhà ngươi làm việc hơi mâu thuẫn đấy”.

Dứt lời, Tùy Ý nhìn sang Hoàng Quý Dung đang ngẫm nghĩ bên cạnh.

“Đại đương gia, người của Thiên Đạo Hội các ngươi có nghĩ đến chuyện sau đó không?”.

Hoàng Quý Dung ngước mắt nhìn sang, im lặng chăm chú nhìn tiểu Thế tử, nghe hắn nói tiếp:

“Quan bên phe mới đều bị đe dọa, bây giờ trong triều lẫn bách tính đều nghĩ theo chiều hướng phe cũ đứng sau nhúng tay vào, trong đó mũi dùi đều hướng vào Đoàn Tể chấp. Nếu vụ án này kết thúc mà không có chuyện xảy ra thì oán hận với Đoàn Nghiệp càng sâu; vạ miệng một cái là có thể khiến ông ta rớt đài. Nếu các ngươi bị bắt, ngươi nói xem Phùng gia sẽ ăn nói với bên trên thế nào?”.

… Đây là chuyện mà họ chưa bao giờ tính đến.

Người chết thì chết rồi, còn sau đó người mua chuộc bọn chúng ra tay phải ăn nói thế nào với quan phủ, liệu người đó có thương lượng kỹ trước với bọn chúng không… suy nghĩ kỹ lưỡng thế nào.

Tiểu Thế tử kiên nhẫn hỏi tiếp: “Ta lại hỏi ngươi, nếu Đoàn Tể chấp rớt đài thì người được lợi nhiều nhất là ai?”.

Ánh mắt của Hoàng Quý Dung lóe lên: “Quan gia?”.

Tiểu Thế tử cười khẽ.

“Nhìn bề ngoài thì đúng là vậy. Nhưng dù Quan gia có phần nghi kỵ với Đoàn Nghiệp thì cũng không cần phải dùng đến phương pháp tự tổn thương quân mình như vậy?”.

Hoàng Quý Dung nhíu mày không nói.

Tùy Ý thở dài: “Kẻ đứng sau ra tay quả thực đã nghĩ ra một kế hay. Kích động hai phái cũ mới ngờ vực lẫn nhau, tranh đấu nội bộ, dĩ nhiên sẽ bớt tâm tư cho phe thứ ba”.

“Nếu Đoàn Nghiệp sụp đổ, Quan gia sẽ mất đi trọng thần đắc lực. Nếu lúc này thế lực khác ở kinh thành nhân cơ hội mà trở mình tấn công, phần thắng chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều”.

“Hoặc nếu phe cũ thắng phe mới, lật đổ được hoàng quyền, như vậy thì kẻ cầm cờ công thành sẽ phải sửa: ‘Thanh Quân Trắc’ cũng thế, ‘Tru Dị Đảng’ cũng vậy, tóm lại là có thể chiếm chính”.

* Thanh Quân Trắc: thanh trừ quân vương thiên vị, thao túng. Tru Dị Đảng: diệt trừ đảng pháo gây hại cho nước nhà.

“Tính đi tính lại thì người đứng sau thao túng vụ này đều có thể ngư ông đắc lợi”.

“Mà nếu kẻ đứng sau đã nghĩ ra âm mưu này, Hoàng Đại đương gia nghĩ xem, sau khi chuyện thành công rồi, liệu hắn ta có để cho các ngươi sống không?”.

Đám người bị chất vấn im lặng như tờ.

Toàn bộ tiểu viện như được bao bọc trong những sợi tơ kén vô hình, chỉ cần một người nào trong số họ khẽ nhúc nhích ngón tay là có thể châm ngòi ý định giết người.

Sắc mặt của Hoàng Quý Dung đã trở nên âm trầm ngoan độc.

Ông ta vốn cho rằng đây là cuộc mua bán đôi bên tình nguyện, nào ngờ phát hiện đã bị người ta lừa đâm đầu và ngõ cụt. Cho dù là người có lòng dạ bao dung thế nào cũng không thể chịu nổi việc này.

Ông ta nghiến răng, gằn từng chữ nói: “Kẻ đứng sau rốt cuộc là ai?”.

“Dĩ nhiên là…”.

“Giết bọn chúng!”.

Phùng gia sư gia bấu chặt ngón tay, hai mắt đỏ bừng mang theo độc ác lẫn hoảng sợ. Lão ta nghiến răng nghiến lợi ra lệnh cho đám người bắt đầu có tâm trí lung lay trước mặt.

“Giết tất cả người không thuộc Phùng gia cho ta! Không để kẻ nào sống sót!”.

Mệnh lệnh thốt ra, không chỉ những người Thiên Đạo Hội mà ngay cả rất nhiều tay chân của Phùng gia cũng rất sững sờ.

Hoàng Quý Dung hiển nhiên không ngờ lão ta sẽ làm quyết liệt, tuyệt đường sống của mọi người đến mức này; ông ta không nhịn được rống lên: “Ngươi điên rồi phải không?”.

“Ha, tất nhiên là ta điên rồi”. Ánh mắt của Phùng gia sư gia lóe lên tia ngoan độc: “Tất cả người của Phùng gia nghe cho rõ đây, nếu hôm nay để bất kể con cá nào lọt lướt, cả các ngươi và ta đều đừng hòng được gặp lại người thân”.

Đám tay chân hoảng sợ tán loạn: “Sư gia…”.

“Chưa nghe rõ hay sao, chuyện lần này một khi lộ ra ngoài thì Phùng gia, và cả những người có liên quan đến Phùng gia đều phải chết”.

“… Còn không mau lên!”.

“Lên! Nhanh lên!”.

“Giết sạch bọn chúng!”.



Đám tay chân hoảng hốt giương kiếm xông lên liều mạng không hề khác lang thú chút nào. Ngược lại, đám người Thiên Đạo Hội mới đầu còn bất ngờ, chớp mắt nhìn thấy gươm đao máu đổ mới đột nhiên sực tỉnh phải liều mạng, ra sức chém giết với đám người Phùng gia.

Chẳng mấy chốc, tiểu viện nhà nông mới đây còn bình yên nay đã bị đao quang kiếm ánh nuốt trọn. Binh khí va vào nhau phát ra âm thanh vang vọng không ngừng. Không khí ẩm ướt tràn ngập mùi máu tươi nhuộm đỏ khắp sàn.

Trong lúc hỗn loạn, người của Phùng gia vọt tới vị trí cuối cùng.

Hoàng Quý Dung đã sớm rút bội kiếm nghênh địch, còn tiểu Thế tử phủ Tĩnh Quốc công dường như bây giờ mới ý thực được tính nghiêm trọng của sự việc.

Hắn nhanh chóng lách người tránh được một kiếm đang đâm đến, sau đó hắn khom người nhặt vũ khí. Không biết kẻ nào đã đánh rơi một thanh đao khi giao đấu, giương đao đánh trả, kết quả là lấy mạng luôn kẻ vừa xông đến.

Ngay sau đó, hắn lập tức khôi phục dáng vẻ sống chết mặc bay…

Tựa như một bức tượng Bồ Tát phổ độ chúng sinh dưới địa ngục.

Mặc dù quân số hai phe Phùng gia và Thiên Đạo Hội không chênh nhau bao nhiêu nhưng dù sao Thiên Đạo Hội cũng là những kẻ liếm máu trên lưỡi đao mà sống, trải qua biết bao cuộc chém giết đẫm máu, dĩ nhiên sẽ cao tay hơn đám lâu la của mấy nhà quyền quý.

Đợi người cuối cùng của Phùng gia mất mạng, Thiên Đạo Hội vẫn còn sáu người đang thở hổn hển.

Khắp nơi đều nhuốm máu đỏ, chất lỏng tanh nóng và thi thể đổ rạp khắp nơi. Máu tươi không kịp thấm xuống đất mà đọng lại như một dòng suối đỏ lòm.

Thảm cảnh hỗn loạn.

Hoàng Quý Dung cũng bị thương, ngơ ngác nhìn thi thể vương vãi khắp nơi trong tiểu viện, hốc mắt chợt nóng bừng: “Lão Ngũ, Tôn Nhị, Thạch Côn…”.

Ông ta lầm bầm, đột nhiên một tiếng “Phập” ập đến. Ông ta cảm thấy sau lưng truyền đến tiếng xé rách và cảm giác đau đớn kịch liệt.

Đồng tử co lại, Hoàng Quý Dung giật mình kinh ngạc, từ từ cúi đầu xuống; chỉ thấy ngực trái của mình chẳng biết khi nào đã xuất hiện một mũi đao dính đầy máu.

Máu và sức lực toàn thân đều đang bị mài mòn. Ông ta ngã xuống đất, vẫn không cam lòng mà cố sức nhướng mắt lên nhìn lại.

Mất quá nhiều máu khiến ông ta choáng váng, nhưng cũng không ảnh hưởng đến việc ông ta nhận ra hung thủ vừa đâm mình một nhát:

Dáng người cao ráo, cặp mắt hoa đào.

Chính là Thế tử phủ Tĩnh Quốc công, người vẫn luôn miệng nói muốn đưa bọn chúng thoát khỏi bể khổ.

“Đại đương gia!”.

Năm người khác còn sống của Thiên Đạo Hội cũng bị thương nặng nhẹ khác nhau. Khi bọn chúng nhận thức được thảm cảnh vào giờ phút này thì mọi chuyện đã muộn, ai nấy đều khó thể tin được vào mắt mình.

Có người lảo đảo bổ nhào vào Hoàng Đại đương gia đang hấp hối; có người hận đỏ mắt vung đao xông đến kẻ làm ra chuyện này.

Tùy tiểu Thế tử vẫn nhàn nhã như đang dạo bộ, một đao vung xuống kết liễu một người; cuối cùng cũng cắt cổ người đang bổ nhào trên thân thể Hoàng Quý Dung.

Đồng tử của Hoàng Đại đương gia tan rã, cố gắng nghe mới thấy cổ họng ông ta phát ra âm thanh yếu ớt:

“Lão Lý…”.

Yên tĩnh bao phủ, dĩ nhiên Tùy Ý cũng nghe thấy âm thanh đó.

“Khổ cho ngươi lúc này còn nhớ đến hắn ta”. Tùy Ý tiện tay ném thanh đao dính máu sang một bên, từ trên cao nhìn xuống nam nhân gần tắt thở: “Ta cũng không ngại nói sự thật cho ngươi biết, Lý Lương Kiêu sớm đã bị ta giết rồi”.

Hoàng Quý Dung run rẩy kịch liệt rồi phun ra một bụm máu tươi.

Ánh mắt ông ta ai oán hối hận, giờ bản thân ông ta đã là nến treo trước gió, chỉ có thể bất lực phát ra tiếng “Ô ô” nhưng muốn nói gì đó.

Tùy Ý hơi nhíu mày, cười nói: “Ngươi rất hối hận vì đã tin ta phải không?”.

Nam nhân sắp chết bị nhìn ra suy nghĩ, lồng ngực phập phồng hối hả.

“Thế thì ngươi hối hận sai rồi”. Tùy tiểu Thế tử chỉnh lại tay áo, nhìn kẻ trước mặt, dịu dàng nói: “Chuyện Phùng gia có người đứng sau thao túng, ta tuyệt đối không lừa ngươi”.

“Cho nên ngươi tin ta cũng chết, mà không tin ta cũng phải chết. Con đường này, các ngươi vừa lựa chọn đã định là sai rồi”.

Nam nhân yếu ớt giãy giụa trong vũng máu như còn gì muốn nói, nhưng Tùy Ý vừa nói xong đã đứng thẳng người dậy, rời mắt không thèm chú ý đến.

Tránh qua những vết máu bẩn thỉu, hắn cất bước chuẩn bị muốn rời đi nhưng đột nhiên lại dừng chân.

Phía sau vẫn còn ánh mắt của người sống dõi theo hắn.

Đôi mắt hoa đào của hắn thoáng trở nên lạnh lẽo, chậm rãi quay người lại.

Có lẽ người đang nhìn lén không ngờ được thiếu niên trong tiểu viện kia vừa trải qua một trận máu tanh kia mà vẫn còn có tri giác nhạy cảm như vậy. Lỗ rách của giấy dán trên cửa sổ để lộ ra một mắt đen trắng tỏ tường. Khi bị hắn nhìn thấy, con mắt đó lập tức cứng nhắc đờ đẫn.

Một lúc sau, con mắt kia mới chớp chớp, đồng thời lộ ra tia do dự xoắn xuýt. Nhưng cảm giác đó ngay lập tức đã bị hoảng sợ và sự ngưỡng mộ không rõ che giấu.

Đôi mắt đó không tiếp tục nhìn nữa, cuối cùng lại nấp sau cửa sổ.

Thần sắc trên khuôn mặt Tùy Ý thoáng thay đổi, chợt thu tầm mắt lại.

Hắn phẩy ống tay áo, từ tốn bước qua mặt đất loang lổ máu tươi. Bóng dáng hắn dần xa, dưới bóng tà dương sau cơn mưa, rồi chìm trong bóng núi xanh sâu thẳm.



Trận mưa đến nhanh mà đi cũng nhanh.

Bùi Văn Hoán đứng tại gian phòng phía Tây hậu viện của hàng thịt, ông ta nhìn chằm chằm vào những vật dụng bày biện đơn sơ, im lặng suy tư.

Tên lục sự bị sai đi tìm hiểu tin tức vội vã xông vào, thở dài nói: “Thuộc hạ mới hỏi thăm hàng xóm về tình hình của cửa hàng thịt Lý thị”.

“Có phát hiện gì?”.

“Bẩm đại nhân, theo lời của những người hàng xóm thì cửa hàng thịt Lý thị đã khai trương được mấy năm, cũng coi như có danh tiếng lâu năm, nhưng chủ tiệm tính tình quái giở nên xưa nay không qua lại với hàng xóm, cho nên cũng không hiểu rõ lắm”.

“Về chuyện thời gian cửa hàng thịt này đóng cửa, bách tính xung quanh đều nói không rõ lắm. Hôm qua còn có người nhìn thấy đồ tể trong tiệm nhận mấy đơn hàng, nhưng sáng nay vẫn chưa thấy hàng thịt mở lại”.

“Còn nữa, đêm qua đến hôm nay, hàng xóm cũng không nghe thấy động tĩnh gì lớn. Đồ đạc bên trong tiệm rất nhiều, cho dù người trong tiệm muốn dọn đi thì cũng không thể im lặng không tiếng động như vậy được…”.

“Hiện giờ chủ tiệm, tiểu nhị… đều không thấy đâu. Dân chúng đều nói biến mất không còn tăm hơi”.

“Biến mất không còn tăm hơi hả”. Bùi Văn Hoán vuốt cằm lẩm bẩm.

Bỗng nhiên, ông ta như sực nhớ ra chuyện gì đó, ánh mắt ngưng đọng, vội vàng cất bước ra ngoài cửa: “Lĩnh quân vệ*!”.

Lĩnh quân vệ đang xem xét dấu chân bên ngoài phòng phía Đông nghe tiếng gọi bèn chậm rãi tiến đến: “Bùi đại nhân có gì dặn dò?”.

“Tìm mật đạo”. Bùi Văn Hoán lời ít ý nhiều: “Bên trong hàng thịt này nhất định có địa đạo hay kiểu hốc tối gì đó, chắc hẳn người bên trong chạy đi theo lối đó”.

“Vâng!”.

Lĩnh quân vệ ôm quyền lui ra.

Trong tiểu viện, rất nhiều âm thanh gõ vào tường vang lên.

Bùi Văn Hoán đứng dưới mái hiên gian phòng phía Tây, chăm chú nhìn bố cục trong tạp viện.

Căn viện cũng không lớn, phía Tây có một giếng nước, để tránh bụi bẩn rơi vào giếng nên miệng giếng còn dựng một cái lều nhỏ; phía Đông là năm chum đựng nước và mà cái giá gỗ nhỏ để phơi thịt.

Lúc này, thịt khô trên kệ đã bị lấy đi, chỉ còn trơ trọi lại sàng trúc trống không.

Bùi Văn Hoán ghi chép sự việc, trầm giọng hỏi: “Cái giếng gần cửa hàng thịt Lý thị là ở đâu?”.

Tay lục sự ngẫm nghĩ, nói: “Lúc thuộc hạ hỏi thăm hàng xóm từng nhìn thấy ở ngã rẽ con hẻm sau tạp viện này có một cái giếng, nhưng là giếng dùng chung; từ cửa viện đi trên dưới một trăm bước là đến”.

Bùi Văn Hoán cười yếu ớt.

“Đã đào giếng tư rồi còn cần năm vạc chứa nước làm gì; giếng chung kia đã đủ rồi mà sao còn cần đào giếng tư?”.

Gã lục sự chớp mắt đã hiểu được ý tứ trong lời nói của Bùi Văn Hoán, vội vàng khom lưng nói: “Thuộc hạ lập tức gọi cấm quân xuống giếng thăm dò!”.



Bên trong con đường vừa tối vừa hẹp, âm thanh khôi giáp ma sát vào nhau sột soạt.

Bùi Văn Hoán được bảo vệ ở giữa, ngẩng đầu nhìn là có thể thấy ngọn đuốc cháy dẫn đường.

Đi trong địa đạo thâm u này khoảng nửa canh giờ, rốt cuộc cũng đến được điểm cuối.

Bùi Văn Hoán thong thả gạt dây leo quấn cửa hang, sắc trời lúc này đã dần tối. Ánh mặt trời phía Tây chỉ còn leo lắt, chưa đến thời gian một chén trà nữa thì hoàng hôn sẽ bị nuốt chửng hoàn toàn.

Đội binh lính bên ngoài cửa động lục tục đốt đuốc.

Lĩnh quân vệ xem xét địa hình đã trở về: “Bùi đại nhân, xung quanh đều là núi non hoang dã, không hề phát hiện dấu vết có người sống. Ước chừng chỗ này ở ngoài cửa Thiên Ba năm dặm”.

Bùi Văn Hoán ngẫm nghĩ, nói: “Sắc trời đã tối, chúng ta lại không có nhiều người, đừng hành động lỗ mãng”.

“Thế này, ngươi chia người ra năm nhóm, một nhóm ở lại đây; bốn nhóm còn lại chia ra xem xét bốn hướng Đông Tây Nam Bắc. Căn dặn bọn họ không được bỏ qua bất kỳ manh mối nào. Nếu gặp người sống, thôn trang… cũng không được rút dây động rừng, phải về báo cho ta”.

“Vâng”.

Lại chờ thêm một thời gian bằng non nửa chén trà, một tên lĩnh của nhóm cấm quân điều tra hướng Bắc vội vã chạy về.

“Vệ trưởng! Bùi đại nhân!”.

Bùi Văn Hoán nghe thấy, lập tức đứng phắt dậy hỏi han: “Đã xảy ra chuyện gì?”.

“Tìm thấy rồi! Chúng thuộc hạ tìm được con gái của ba vị quan đã bị bắt cóc ở trong rừng, Huyện chúa Ninh Gia cũng ở đó! Bọn họ dìu nhau, hình như ra trốn ra được, phía sau không có người đi theo”.

Dứt lời, tất cả mọi người đều sững sờ kinh ngạc.

Bùi Văn Hoán ổn định tinh thần, đôi mày cau lại, lên tiếng nói: “Đưa ta đi xem sao”.



Ba vị quý nữ vốn dĩ luôn xinh đẹp mỹ miều mà lúc này đây khắp người lại đầy vẻ phong trần mệt mỏi lẫn bẩn thỉu. Dường như ai nấy đều đã trải qua cú sốc rất lớn, cho dù đã bỏ trốn khỏi sào huyệt của những kẻ bắt cóc nhưng các nàng vẫn như thỏ con bị giật mình, kháng cự mọi sự tiếp cận của người lạ.

Người có cảm xúc ổn định trong số đó chính là người bị bắt cóc gần đây nhất – Huyện chúa Ninh Gia.

Cấm quân chẳng còn cách nào khác đối với mấy quý nữ yếu ớt này, họ cũng không thể dùng đến sức mạnh, đứng cách các nàng một đoạn không xa không gần.

Bùi Văn Hóa đi theo tên lính, mượn ánh sáng của bó đuốc phát ra, ông ta nhanh chóng nhìn thấy tình hình trong rừng cây.

Hai cô nương của Tào gia, Mạnh gia và Huyện chúa Ninh Gia đều ở đó. Y phục và giày của ba người đều nhuốm máu nhưng thân thể đều không có vết thương, cứ như là đã lội qua một đầm máu để đến đây vậy.

Đây không phải là lượng máu của ba nữ tử yếu ớt này có thể gây ra.

… Đám bắt cóc giết người kia cuối cùng đã xảy ra chuyện gì rồi?

Bùi Văn Hoán kiềm chế tâm trạng lúc này, trấn an ba cô nương đó, tiếp theo mới quay sang hỏi thăm nhẹ nhàng vị Huyện chúa Ninh Gia trông có vẻ tương đối bình tĩnh: “Huyện chúa, người và hai vị cô nương kia trốn ra bằng cách nào? Đám bắt cóc kia đâu?”.

Huyện chúa Ninh Gia cẩn thận liếc ông ta một cái: “Chết rồi!”.

“Chết rồi?”.

“Chết hết cả rồi. Không còn một mống”.

Bùi Văn Hoán chưa từng nghĩ mình sẽ nhận được đáp án như vậy. Ông ta cũng không màng an ủi nữa, ngữ khí có vẻ rất gấp gáp: “Bọn chúng chết thế nào?”.

“… Bị một người giết”.



Cho dù đã nghe Huyện chúa Ninh Gia tả qua về thảm cảnh ở tiểu viện trong núi sâu, nhưng khi đích thân đặt chân lên đó thì Bùi Văn Hoán vẫn không khỏi ớn lạnh.

Cảnh tượng trước mắt thật sự là Tu La địa ngục.

Thi thể và mẫu tươi lẫn lộn vào nhau, tanh thối mục nát không thể tưởng tượng được.

Sói hoang ấn nấp ở góc núi nào đó xung quanh tru những tiếng kêu dài thảm thiết. Bùi Văn Hoán chẳng hề nghi ngờ, nếu cấm quân đến chậm một bước thì chỗ này sẽ chỉ còn lại những mảnh xương trắng mà thôi.

… “Không biết hắn nói gì mà những người trong tiểu viện lao vào chém giết lẫn nhau. Mấy người còn sống cuối cùng cũng bị hắn giết”.

Nhớ lại lời của Huyện chúa Ninh Gia, Bùi Văn Hoán hít thở sâu, day ấn đường, sau đó hạ lệnh: “Đưa thi thể về hết đi. Đồ vật trong phòng cũng sắp xếp lại rồi đem cả về thành”.

Cấm quân hành động theo mệnh lệnh.

Màn đêm đen ngòm trên đỉnh đầu, mảnh trăng sáng bị áng mây trôi che khuất một nửa.

Gió đêm nhẹ lay.

Bùi Văn Hoán đứng im tại chỗ, nghĩ lại thái độ của Huyện chúa Ninh Gia lúc ông ta hỏi thân phận của người đã đánh úp sào huyệt của bọn bắt cóc.

… “Việc này, ta chỉ có thể nói với Quan gia”.

Thật sự là một vụ án khiến người khác đau đầu.

Bùi Văn Hoán day ấn đường, bỗng nhiên dùng sức nặng thêm một chút.



Khi Tùy Ý từ địa đạo tối om trở về kinh thành nước Triệu thì bóng đêm đã hoàn toàn bao phủ.

Bởi vì Đại Lý Tự đang tra án nên kinh thành cấm đi lại vào ban đêm trong bảy ngày. Hắn đi vào mật đạo từ một tiểu viện bỏ hoang, phóng tầm mắt ra phía trước chỉ thấy con đường trống vắng hiu quạnh.

Nhà nhà đốt đèn tô điểm cho những con ngõ ngang dọc, gió mát đung đưa chiếc đèn lồng, tiếng gõ mõ của phu canh mơ hồ vang lên trong đêm tối mù mịt.

Men dọc theo con đường để tránh quan binh tuần hành, Tùy Ý đến trước cửa một căn nhà, đã có một người hầu chờ sẵn ở cửa. Tiếng “Két” cửa vang lên đón hắn vào: “Thế tử!”.

Tùy Ý gật đầu với hắn ta, vừa đi vào bên trong vừa cúi đầu nhìn toàn thân đầy bụi bẩn và vết máu của mình, lạnh nhạt nói: “Chuẩn bị nước, ta đi tắm”.

“Ây, tiểu nhân đi sắp xếp!”.

Ống khói trong nhà tỏa ra khói trắng mờ. Bọn người hầu tất bật công việc ngoài hành lang.

Ánh sáng trong gian phòng chính tươi sáng, hơi nước lượn lờ tràn ra sau tấm bình phong vẽ những ngọn núi non trùng điệp. Sau lớp giấy lụa lọt sáng, một bóng dáng mờ ảo tựa như đang vấn tóc.

Ngay sau đó, tiếng nước “Ào ào” truyền đến.

Gã sai vặt Bác Cổ đừng trước cửa phòng khép hờ, một mực cung kính nói với trong phòng: “Thế tử, đến đêm mà ngài chưa về phủ, Công gia biết chuyện đã nổi trận lôi đình, nói đợi ngài về phủ sẽ bắt chịu gia pháp”.

“Mặc ông ấy”. Tiếng nước sau tấm bình phong của tí tách không ngừng, một giọng nói không ấm không lạnh cất lên: “Dù sao thì vị mẫu thân tốt kia của ta sẽ không để ông ấy được như ý nguyện đâu”.

Bác Cổ lên tiếng, do dự một lúc mới nói: “Còn nữa, Thế tử… Giờ Dậu hôm nay, cấm quân trong thành đột nhiên điều một lượng lớn binh mã đến cửa Thiên Ba, đây là…”.

“Ồ, xem ra là chuyện ta làm bị phát hiện rồi”.

Bác Cổ đã chứng thực được suy đoán trong lòng, mặt mày lo sợ: “Thể tử đã thu dọn ổn thỏa chưa? Sẽ không khiến Quan gia tra ra được gì chứ ạ?”.

Sau đó, Bác Cổ lại vội vàng lắc đầu bác bỏ lời của chính mình: “Không đúng, không đúng! Xưa nay Thế tử luôn cẩn trọng tỉ mỉ, chưa bao giờ tính toán bỏ sót điều gì, dĩ nhiên sẽ không để lại dấu vết!”.

Vừa dứt lời, người sau bức bình phong thản nhiên nói: “Cũng chưa chắc”.

Bác Cổ sững sờ kinh ngạc: “… Thế tử!”.

Tiếng cười bên trong lại truyền đến: “Ngươi lo cái gì”.

Bác Cổ nôn nóng hỏi: “Sao không lo được ạ? Thế tử ẩn mình lâu nay, ẩn nhẫn mấy năm nay không thể hủy hoại chốc lát như vậy được!”.

“Làm sao ngươi biết không phải ta cố ý lưu lại dấu vết?”.

Bác Cổ câm nín vì câu nói đó, lúng túng vò đầu bứt tai: “Thật, thật không?”.

“Không phải”.

“… Thế tử!”.

“Thế mới là lạ đó”.

“…”



Bùi Văn Hoán ngồi xe ngựa vào cung. Mượn ánh nến trong xe ngựa, ông ta xem qua mấy chục phong thư đã lục soát được trong tiểu viện ở ngoại ô.

Càng xem, sắc mặt của ông ta càng trầm trọng, đôi mày nhăn lại cứ như có thể vắt ra nước.

Cho đến khi xe ngựa chậm lại, tay sai vặt bên ngoài lên tiếng nhắc nhở thì Bùi Văn Hoán mới ôm chồng thư từ đó đi xuống.

Dưới bầu trời đêm, tường đỏ ngói ngọc, hoàng cung Đại Triệu nguy nga, trang nghiêm dưới ánh trăng càng trở nên huyền bí. Vệ quân mặc kim giáp canh giữ cửa cung ai nấy đều vô cùng lạnh lùng uy nghiêm.

Bùi Văn Hoán trực tiếp chạy từ vùng ngoại ô về đây, chưa kịp thay y phục.

Sau khi đưa vật chứng trong tay cho gã sai vặt bên cạnh, ông ta trút hơi thở phong trần nặng nhọc, đứng tại chỗ chỉnh lại áo mũ. Mọi chuyện xong xuôi, ông ta nhận lại chồng thư từ rồi ung dung bước về phía cổng vòm có hai con cự thú ngậm vàng.



Văn Đức điện.

Những ngọn nến đặt trong tượng thị nữ bằng đồng đã chảy sáp đến mức vun thành một gò nhỏ.

Bùi Văn Hoán cúi đầu, yên lặng đứng giữa đại điện trống trải.

Trong không khí lặng im như tờ, chỉ có âm thanh nhỏ bé phát ra từ ngọn nến đang cháy leo lét và cả tiếng lật giấy truyền đến sau bức rèm châu.

Không biết đã trải qua bao lâu, cuối cùng ông ta cũng nghe thấy một trận cười lớn mỉa mai.

“Hay cho Phùng gia”.

Sau đó là âm thanh giấy lộn vút lên không trung rồi rơi lả tả xuống mặt đất.

Bùi Văn Hoán đã dự đoán được nên cũng không cảm thấy bất ngờ, ông ta khom người nói: “Quan gia bớt giận”.

Tiếng va chạm của rèm châu vang lên, có một bóng người mặc y phục màu đen bước ra phía sau rèm.

Đế vương Đại Triệu chưa đến hai mươi tuổi, ngoại hình rất thanh cao sang quý, đôi mắt phượng hếch lên như chim ương, bờ môi mỏng cười như không cười. Toàn thân tràn ngập khí chất dáng vẻ uy nghiêm, rất dễ dàng khiến người xung quanh cảm thấy lạnh xương sống mà bỏ qua vẻ ngoài tuấn lãng của hắn.

“Bùi khanh vừa mới nói cả viện đều không còn ai sống sót sao?”.

“Đúng vậy, thủ đoạn của người đến trả thù kia nhất định rất lợi hại. Theo lời của Huyện chúa và hai cô nương Tào – Mạnh gia thì sào huyệt của bọn bắt cóc có ba mươi hai người, không hơn không kém, tất cả đều chết trong viện. Căn cứ vào manh mối thu được hiện giờ thì Phùng gia ở Bình Châu chắc chắn không thoát khỏi liên quan trong vụ án bắt cóc giết người lần này ở kinh thành”.

“Không chỉ Phùng gia”.

Bùi Văn Hoán hơi bất ngờ, ngẩng đầu lên: “Quan gia, cớ sao lại nói vậy?”.

Thiếu Đế Đại Triệu cười lạnh nói: “Hướng đi của địa đạo đó, ta cực kỳ rõ… Đây không thể là tình báo mà một thương nhân bình thường có thể lấy được”.

“Ý của Quan gia là…”. Bùi Văn Hoán cẩn thận nói: “Đằng sau Phùng gia còn có người?”.

Thiếu Đế không khẳng định cũng không phủ định: “Tóm lại vụ án này còn rất nhiều điểm đáng ngờ”.

Hắn đưa ra một cuộn giấy trắng: “Ngươi cầm thư tay của ta, phái người đến Bình Châu thông báo cho quan phủ ở đó, bắt tất cả người Phùng gia lại, không được chậm trễ”.

“Thần… tuân lệnh”.

Đợi Bùi Văn Hoàn cầm cuộn thư rời khỏi đại điện, Đế vương trẻ tuổi giơ tay lên miễn cưỡng xoa huyệt thái dương.

Hắn cao giọng gọi: “Thành Đức Hải!”.

Tiếng đáp lại bên ngoài điện vang lên, cửa điện mở ra, thân hình một hoạn quan vội vã đi vào.

“Có lão nô, Quan gia có gì sai bảo?”.

“Ngươi đến chỗ mẫu hậu xem tình hình Ninh Gia thế nào rồi. Nếu thái y đã xem bệnh xong thì tranh thủ thời gian đưa người đến đây”.

“Vâng vâng, lão nô đi ngay”.



Huyện chúa Ninh Gia nắm chặt mảnh áo khoác lụa, theo sau Thành Đức Hải.

Thành công công không mang đèn lồng.

Quan gia ghét tối nên vừa đến đêm là mọi ngõ ngách trong cung đều phải thắp đèn lồng, ngay cả con đường nhỏ ngoài ngự hoa viên cũng không ngoại lệ.

Nhưng cho dù trước mắt sáng tỏ nhưng nàng vẫn cảm thấy toàn thân ớn lạnh như cũ.

Biển máu núi thây ban ngày vẫn còn quanh quẩn trong đầu nàng. Còn cả bóng dáng đứng giữa trận địa đầy máu tươi và xác người đó… hệt như đóa anh túc hoang dại, yêu diễm nhưng có độc.

Trong lúc thất thần, nàng đã đến cửa điện Văn Đức lúc nào không hay.

Thành Đức Hải tiến lên mở cửa, kính cẩn nói: “Quan gia, Huyện chúa đến”.

Bên trong đáp lại một tiếng “Cho vào”.

Ninh Gia biết mình phải giữ vững tinh thần.

Ánh nến trong điện rất sáng sủa, một người đang ngồi giữa thềm ngọc, chính là Hoàng đế tiểu thúc của nàng.

Hoàng đế không ngồi long ỷ mà lại muốn ngồi trên bậc thềm, thật không hợp với phép tắc.

Nhưng Ninh Gia cũng không dám xen vào.

Thật ra nàng ta hơi sợ hãi vị Quan gia hỉ nộ vô thường, hành động vô lường này của Đại Triệu, đành phải giữ vạn phần phép tắc cúi người hành lễ.

“Đứng dậy đi”.

Thiếu Đế Đại Triệu nắn khuỷu tay, nâng cằm, đôi mắt phượng u tối sâu thẳm nhìn về phía nàng.

“Thái y bắt mạch xong rồi? Có gì đáng ngại không?”.

“Tạ ơn Quan gia quan tâm, thái y nói sức khỏe của Ninh Gia không đáng ngại, chỉ hơi hoảng sợ, nghỉ ngơi mấy ngày sẽ khỏi”.

“Vậy thì tốt”.

Hỏi han qua loa xong xuôi, Thiếu Đế cũng không quan tâm nữa mà nhìn thẳng vào đôi mắt thiếu nữ đối diện, gằn từng chữ nói: “Điều ngươi giấu giếm Bùi Văn Hoán về người phục kích sào huyệt của bọn bắt cóc…”.

Rõ ràng hắn đang ngồi nhưng Ninh Gia lại cảm thấy hoảng hốt mình mới là hạt bụi đất rơi khỏi đám mây.

“Quan gia minh giám, Ninh Gia không cố ý ảnh hưởng công vụ!”. Nàng sợ hãi quỳ rệp xuống sàn: “Chỉ là, chỉ là… người kia…”.

“Ta cũng không nói hỏi tội ngươi về chuyện này, ngươi căng thẳng thế làm gì?”.

Thiếu Đế phất tay áo, đứng dậy.

“Trong lúc chờ ngươi, ta cũng cẩn thận suy nghĩ, nếu ngươi không muốn tùy tiện nói ra thân phận của người kia thì đồng nghĩa việc này liên lụy đến rất nhiều người. Nếu đã như vậy, để ta đoán thử xem…”.

“Người đó có thân phận rất cao”.

“Là người mà ngài không bao giờ ngờ được, đồng thời…”.

“Cả ngươi và ta đều biết hắn”.

Đế vương trẻ tuổi đứng trên thềm ngọc.

… “Đúng hay không đúng?”.

Ninh Gia quỳ trên mặt đất rất lâu, mỗi câu bay đến bên tai thì nỗi sợ trong lòng lại tăng thêm một bậc.

Một lúc sau, nàng mới đáp bằng chất giọng trầm thấp.

“Vâng”.

Đóa hoa anh túc nở rộ trong vũng bùn máu kia lại được bao bọc bởi những lớp cánh hoa trắng trẻo thuần khiết nhất.

“Là Thế tử phủ Tĩnh Quốc công”.

Đại điện lập tức im ắng.

Mãi lâu sau Ninh Gia mới tựa như nghe thấy một tiếng cười. Âm lượng cực nhỏ khiến người khác hoang mang liệu có phải mình đang nghe nhầm.

“Sao ngươi còn quỳ trên mặt đất? Rất dễ chịu hả?”.

Thiếu Đế nói.

Ninh Gia lĩnh ngộ được ý tứ trong lời nói bèn chậm rãi đứng thẳng người dậy.

Ngước mắt nhìn lên, dường như tâm trạng của bậc Đế vương trẻ tuổi trước mắt không tệ lắm, khóe môi còn lộ ra mấy phần ý cười.

“Ta biết rồi, ngươi làm rất tốt”.

Lần đầu tiên Thiếu Đế để lọt một câu khen ngợi.

“Bước ra khỏi cánh cửa này, những việc ngươi thấy hôm nay đều như lúc trước khi ngươi đến, đều chôn tiệt trong lòng đi, hiểu chưa?”.

“Ninh Gia ghi nhớ”.

“Lui xuống đi”.



Hẻm Du Lâm, Lục phủ.

“Cô nương, cô nương, mau dậy đi! Có chuyện vui lớn đây!”.

“Cô nương, đừng ngủ nữa!”.

Một buổi sớm, Lục Nghi Trinh bị Bảo Khấu lớn tiếng đánh thức.

Nàng nửa tỉnh nửa mở, lộ nửa cái đầu ra khỏi ổ chăn, dụi hai khóe mắt rồi ngáp một cái: “Việc gì vui thế? Không thể chờ ta…”.

Tiếng nói của nàng đã bị tin vui của Bảo Khấu chặn đứng.

“Đã tìm được ba quý nữ bị bắt đi rồi! Còn nữa, đám ác tặc đã bị xử lý tại chỗ. Đêm qua, có rất nhiều người nhìn thấy quan binh kéo thi thể ngoài thành trở về, cả một xe luôn!”.

Lục tiểu cô nương vẫn đang trong cơn buồn ngủ mông lung, không tỉnh táo lắm, bỗng nhiên lại bị một tin tức lớn như thế rơi trúng đầu, phút chốc vẫn còn ngây ngốc.

Bảo Khấu vén màn giường cho nàng, nhắc nhở: “Cô nương rửa mặt cho tỉnh táo. Đoàn cô nương và Từ Tam cô nương vừa nghe thấy tin này đã sớm đến phủ rồi, bây giờ đang ngồi ở sảnh trước chờ cô nương đó”.

Nghe vậy, Lục Nghi Trinh đạp chăn rồi xoay người ngồi dậy, cuối cùng mới lộ ra thần sắc tỉnh táo đầu tiên trong ngày hôm nay.

“Dục Nhi tỷ tỷ và Uyển Âm tỷ tỷ đều đến rồi hả?”.



Sảnh chính Lục phủ.

Chưa bước vào cửa mà Lục Nghi Trinh đã nghe thấy tiếng nói chuyện ríu rít trong phòng.

Nàng không khỏi cong mắt lên nhìn, đến gần ngưỡng cửa, nàng có cố ý hắng giọng một tiếng.

Từ Uyển Âm và Đoàn Dục Nhi đang nắm tay nói chuyện phiếm trong phòng chợt chú ý đến động tĩnh, cả hai cùng lúc nhìn về phía nàng.

“Lục muội muội”.

“Lục bảo bối, muội cũng nghe nói rồi hả?”.

Ba tiểu công nương ngồi xung quanh chiếc bàn hàn huyên mấy câu. Chẳng mấy chốc không khí đã nóng bừng lên.

“Đúng giờ Mão hôm nay, Đại Lý Tự dán bố cáo nói hơn ba mươi người của đám bắt cóc giết người đều bị bắt. Mặc dù quan phủ còn tiếp tục điều tra những kinh thành đã dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm rồi!”.

“Thật vậy sao? Quá thần kỳ rồi đấy, nói cho hạn bảy ngày, vừa vặn phá án đúng trong bảy ngày, không hơn không kém”.

“Tóm lại ấy à, trong mắt ta, bây giờ Bùi đại nhân chính là người lợi hại nhất cả kinh thành nước Triệu này!”.

“Dục Nhi muội muội tém lại đi”.

“Uyển Âm tỷ tỷ, tỷ thông cảm cho tỷ ấy đi, nào có chim rừng nào lại thích bị nhốt trong lồng đâu? Dĩ nhiên người mở chiếc lồng cho tỷ ấy chính là đại anh hùng rồi?”.

“Lục bảo bối! Muội dám giễu cợt ta?”.

“Được rồi được rồi, may mà cũng lết qua được thời gian bị cấm cửa, chúng ta có thể cùng đi học rồi, đây cũng là chuyện vui mà”.

“Ừm, nhưng hai cô nương Tào – Mạnh gia và Huyện chúa Ninh Gia thế nào rồi?”.

“Tình hình của Huyện chúa thì ta không biết nhưng hình như Tào cô nương biết được Bá phủ từ hôn thì đêm qua đã lâm bệnh nặng rồi”.

“Không chỉ Tào cô nương mà có lẽ hai người còn lại cũng phải trải qua chút khổ sở… bị bắt đi một thời gian như vậy mà, dù sao cũng ảnh hưởng đến thanh danh cô nương nhà người ta. Ta nghe nói, sớm nay trên phố đã có lời ong tiếng ve không hay lắm rồi”.

“Ây, người đời sao cứ hà khắc đối với nữ tử như thế chứ… Nên bị chửi bới chính là những kẻ bắt bọn họ đi kìa!”.

“Đúng vậy”.



Ở lại Lục phủ ăn trưa rồi hàn huyên thêm một lúc, sau đó Từ Uyên Âm và Đoàn Dục Nhi đều lần lượt ra về.

Lục Nghi Trinh đưa mắt nhìn xưa ngựa dần xa khỏi cửa phủ. Nàng ngây người tại chỗ một lúc, sau đó đỡ tay lên khung cửa, cẩn thận muốn thò chân bước đến con hẻm phía trước.

Bảo Khấu phía sau lập tức lên tiếng:

“Cô nương muốn đi đâu?”.

Nàng từ từ quay người lại: “Bảo Khấu, kinh thành nước Triệu đã bỏ lệnh cấm rồi”.

“Ta biết”. Bảo Khấu nói: “Nhưng cô nương muốn đi đâu bây giờ?”.

… Thật kỳ lạ.

Trước đây nàng rất dễ dàng nói ra lý do, nhưng lúc này lại uốn lưỡi mấy lần mà vẫn không thốt ra được.

Hệt như đang ngậm một viên mật đường nóng hổi.

“Ta, ta đi tìm Ý ca ca!”.

Tiểu cô nương cúi đầu nói ra câu đó rất nhanh, chốc lát đã chẳng thấy bóng dáng làn váy của nàng đâu nữa.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play