Biên tập: Ginny.

Đúng như Diệp Nham Bách dự tính, ba ngày sau, chuyện Khánh Tông đế lâm trọng bệnh đã không thể giấu, sóng ngầm trong kinh bắt đầu cuồn cuộn nổi lên, chân chính tiến vào cuộc tranh đấu sau mấy mươi năm chờ đợi.

Mấy năm nay thái tử chinh chiến ngoài tái ngoại, rất nhiều người không còn để thái tử vào trong mắt, tuy rằng hoàng hậu vẫn còn đó, nhưng người ca ca duy nhất bên nhà mẹ đẻ không có chí tiến thủ, lăn lộn bao nhiêu năm cũng chỉ leo lên được một chức quan văn nho nhỏ bình thường, căn bản không giúp ích được gì cho việc tranh vị cả.

Trong khi đó căn cơ của Minh vương trong triều ngày càng bén rễ, mười lăm tuổi bắt đầu dự thính triều chính, đến nay tính ra cũng được mười năm, lại thêm cái danh “trưởng tử” trên người, Lục Bộ, Trung Lễ Bộ và Lại Bộ hiện nay đều là người của Minh vương, lần này thánh thượng ngã bệnh, tiếng hô cải lập Minh vương làm thái tử càng ngày càng vang dội.

Cũng may trong triều còn tòa thái sơn Diệp Nham Bách tọa trấn, nếu không, chỉ cần một bản tấu chương của đám người này rơi vào mắt của Khánh Tông đế thôi, phỏng chừng đế vương không phải chết vì bệnh nặng, mà là tức chết.

Lướt qua mớ tấu chương hai ba lần, quả nhiên đều không ngoài chuyện thái tử vị, “Vô công vô đức, chỉ được cái dũng của mãng phu.” Khó mà đảm đương nghiệp nước.

Diệp Nham Bách cười xùy, dù ông không thích Cố Sâm, nhưng cũng không lớn gan tới nỗi nói thái tử “Chỉ được cái dũng của mãng phu” như đám ngu xuẩn này.

Từ ngày triền triều kiến lập, Trung Nguyên vốn phân thành mười nước, ngày sau mười nước gộp lại làm một, chỉ duy vùng hoang mạc tái bắc giáp ranh Bắc Thát như một mẩu dằm cắm ở trong tim, không biết có bao nhiêu tướng lĩnh có lòng muốn bình định bắc phương đã thất bại, không phải do binh lực không đủ, mà bại bởi thời tiết khắc nghiệt của nơi này, lại thêm địa thế như được quỷ thần trấn giữ, đến cả Mạnh lão tướng quân cũng chỉ có thể canh giữ Dung An Thành, ngày ngày nhìn về phương bắc mà sầu lo than thở.

Người cậu Chu Nguy của Minh vương vì sao chiến bại trở về?

Không phải Chu Nguy không đánh lại Thát tử, mà vì gã tự cho là đúng, bị thắng lợi mê muội đầu óc, để cho địch nhân trá bại dụ vào sâu trong hoang mạc, khiến cho năm nghìn tướng sĩ không thể trở về.

Phiến hoang mạc nho nhỏ này ngần ấy năm qua không biết đã chôn vùi tâm huyết và sĩ khí của bao nhiêu nam nhi, dưới lớp đất vàng ấy đã vùi lấp không biết bao nhiêu bộ bạch cốt, suốt sáu trăm năm, có thể chinh phục được nó mà toàn thân trở về chỉ có duy nhất một người.

Mấy năm nay cũng có không ít tráng đinh trở về từ tái bắc, họ kể về Mạnh lão tướng quân dũng mãnh thiện chiến, thán phục Lưu quân sư thần cơ diệu toán, ca ngợi sự tích anh dũng của chư vị tướng quân miền biên ải, lúc kể, miệng lưỡi lưu loát biết bao nhiêu, thao thao bất tuyệt, nhưng khi nhắc đến thái tử điện hạ, trên mặt tức khắc hiện lên thần sắc kính nể và sợ hãi, không một ai dám nhiều lời, trăm miệng mà như một: Có thể đi theo thái tử điện hạ là may mắn nhất đời này.

Một người như vậy, sao có thể là một mãng phu chỉ được cái dũng?

Diệp Nham Bách lật qua lật lại đống tấu chương trên bàn mấy bận, vô tình bắt gặp bản của phủ Quốc Công cũng nằm trong đó. Ông lại lướt qua một lượt, nét mặt trở nên dở khóc dở cười, Thành vương thấy mặt Diệp tướng có vẻ khác thường bèn chấu đầu qua nhìn thử, nhìn xong cũng bật cười: “Năm đó mấy đại công thần theo chân tiên hoàng gầy dựng cơ nghiệp giang sơn chỉ có tước vị của Việt Quốc Công và Trấn Viễn Hầu là được cha truyền con nối, đủ thấy tiên hoàng thưởng thức kính nể hai vị công thần đời trước này đến nhường nào, vậy mà, thật không ngờ, bọn họ đi rồi, để lại hai đứa con trai lại là một người thiên một kẻ địa như vầy đây.”

Diệp Nham Bách buông mắt, cười nói: “Đúng là khác nhau một trời một vực.”

Thật ra nếu so với Việt Quốc Công và Trấn Viễn Hầu, người tiên hoàng ngưỡng mộ nhất là đại tướng quân Mạnh Đình Uy, đáng tiếc, trong tay Mạnh lão tướng nắm mười vạn binh quyền, vì sợ tổn thương tới tình cảm quân thần, tiên hoàng không đoạt hổ phù trong tay Mạnh lão, đổi lại cũng không ban cho ông tước vị cha truyền con nối gì, bằng không cứ đời này truyền lại đời sau, giang sơn Đại Khâu mai này chẳng biết sẽ nằm trong tay ai nữa.

Đến nay Mạnh lão tướng quân cũng đã đi rồi, hổ phù tạm thời nằm trong tay thái tử, trên thực tế không phải đã trở về tay hoàng đế rồi ư? Nếu tân đế nào khác lên ngôi, hổ phù tất nhiên bị cưỡng chế thu hồi, đến lúc đó Cố Sâm không chịu nộp lên thì có khác chi loạn thần tặc tử.

Thành vương nói: “Lục Lẫm còn chưa tới nhi lập chi niên [1] đã an ổn nắm trong tay Đại Lý Tự, đã vậy còn đè Hình Bộ và Kinh Triệu phủ một đầu, đến cả bản vương cũng tự thẹn không thể sánh bằng. Mấy hôm trước Kinh Triệu phủ doãn có đến Hình Bộ tìm bản vương, muốn cùng bản vương chỉnh lại Đại Lý Tự, để cho Lục Lẫm phải mở to hai mắt ra nhìn, kết quả, bị bản vương phái người đuổi chạy.”

 [1] Nhi lập chi niên: Nhắc lại một chút, đây cách biểu đạt tuổi tác theo Luận Ngữ của đức Khổng Tử, nhi lập (而立) hoặc nhi lập chi niên chỉ tuổi 30.

Diệp Nham Bách bật cười: “Vương gia nổi tiếng ghét cay ghét đắng mấy chiêu trò lừa bịp, khổ cho Kinh Triệu phủ doãn, tìm nhầm người rồi.”

Thành vương nói: “Vốn mấy biện án tra án nên dựa vào bản lĩnh và chức trách của mỗi người, bản vương không rõ mấy chuyện này, hoàng huynh khăng khăng bắt bản vương quản Hình Bộ, bản vương đành miễn cưỡng tiếp nhận, Lục Lẫm thích tra án như vậy thì án tử cứ giao cho y là xong, bản vương không công nhận bổng lộc lại càng vui mừng tự tại.”

Nói đến đây, Thành vương cười sang sảng: “So ra, bên phía Việt Quốc Công thua kém quá xa, bản thân tuổi cao sức yếu, mấy chuyện lông gà vỏ tỏi trong nhà không quản được đã đành, còn rùm beng huyên náo để giờ ai ai cũng biết, trưởng tử thì chết chẳng vẻ vang, chính thê xuất thân danh môn kia của lão dám chừng đã bị lão bức đến phát điên, thái hậu cũng vì thế bất mãn với lão, người thông minh nên tự biết bo bo giữ mình, lão lại liều mạng nhảy nhót như vậy, làm như sợ người khác không biết lão là một con chó của Hiền vương không bằng.”

Diệp Nham Bách khép bản tấu chương lại: “Việt Quốc Công quả rất hoang đường, bản tướng tiếc cho tài hoa của Tử Phong.”

Thành vương lại không mấy xem trọng: “Biết đầu thai cũng là một loại bản lĩnh, bản vương và Diệp tướng đây chính là biết chỗ đầu thai, còn Mạc Hoài Hiên không biết cách đầu thai cũng không thể trách kẻ khác được.”

Diệp Nham Bách nhíu mày, ông từ nhỏ đã được dạy rằng học vấn không có giá cả để cân đo đong đếm, ông có thể nhìn ra vị công tử Mạc gia kia bụng đầy tài hoa, cái lão Thành vương này đầu óc thô kệch cấm có sai, ai cao ai thấp giờ kết luận vẫn còn quá sớm, vì vậy chỉ cười cho có lệ.

Thành vương cũng tự biết mình và Diệp Nham Bách không cùng một loại người, tóm lại là chẳng thể nào cùng đàm luận được, chỉ vì hiện tại hoàng huynh đang trong cảnh ngàn cân treo sợ tóc, mấy vị hoàng chất lại bụng dạ khó lường, được mỗi tiểu Ngũ là bớt lo nhất, nhưng để tránh đi nghi ngờ, ông đến cả một câu cũng không dám nói, người có thể để ông phát tiết mấy câu cũng chỉ có lão hồ ly xưa nay không bao giờ hợp tính này thôi.

Hai người chỉnh lý cho xong tấu chương hôm nay, mấy cái liên quan đến ngôi vị thái tử đều trả trở về, chỉ chuyên tâm xử lý những chuyện quan trọng, chỉnh lý thành một chồng rồi cho người đem đến tẩm cung của đế vương.

Thái hậu nhìn chồng tấu chương được đưa đến thì nhíu mày: “Hoàng đế đã bệnh thành như vậy các ngươi còn đem mấy thứ này đến quấy rầy, đi mau đi mau, không đi, ai gia gọi thị vệ đuổi các ngươi đi.”

Sắc mặt Khánh Tông đế lúc này đã rất xấu, yếu ớt lên tiếng: “Mẫu hậu, những tấu chương này ái khanh đã phê chuẩn hết rồi, chỉ đọc lại cho trẫm nghe thôi, đại sự quốc gia, không thể đùa được.”

Viền mắt thái hậu ửng hồng, cầm tay Khánh Tông đế, nói: “Nếu thái tử có ở kinh thì tốt rồi, mấy việc này nào phải để hoàng đế thân mang bệnh còn nhọc lòng xử lý, Sâm nhi thật khiến ai gia thất vọng, lẽ nào thật sự đúng như lời bên ngoài nói, nó bị binh quyền mê hoặc mất rồi, chỉ muốn cầm binh củng cố địa vị thôi sao?”

Thái hậu vừa nói xong, Mục hậu đứng hầu bên cạnh biến sắc, hoàng hậu muốn giải thích thay con mình lại bị Lan quý phi cướp lời: “Thái hậu nương nương, thái tử là công thần của Đại Khâu ta, bách tính bên ngoài kính yêu thái tử còn hơn bệ hạ, nhưng nói sao thì lòng người đều là thịt, bệ hạ đã bệnh thành như vậy, thái tử vẫn nhẫn tâm chưa chịu trở về, có phải là quá máu lạnh vô tình rồi không?”

Sắc mặt thái hậu rất khó coi, quay đầu mắng: “Câm miệng, ai gia và hoàng đế đang nói chuyện, từ khi nào đến phiên một quý phi như ngươi xen mồm?”

Lan quý phi vội vã quỳ xuống thỉnh tội.

Biết là nói ra sẽ bị mắng, nhưng càng biết rõ, mấy câu này nhất định sẽ đi vào lòng thái hậu, với thái hậu mà nói, mấy hoàng tôn ai cũng như ai, con đích thê cũng tốt, thứ xuất cũng được, đều là người nối dòng của hoàng đế con bà, nếu có khác thì chỉ khác người nào hiếu kính thái hậu nhiều hay ít mà thôi.

Thái tử xưa nay phản cốt, hiển nhiên thái hậu không quá thích.

Mục hậu lúc này mới từ tốn lên tiếng: “Mẫu hậu, người nhìn Sâm nhi từ bé đến lớn, nó là loại người gì mẫu hậu hẳn đã nhìn rõ. Thái tử mười hai tuổi đã theo đại quân xuất chinh, thái tử đi là vì lê dân bách tính của Đại Khâu ta, cũng là vì hoàng thượng, sao có thể là người máu lạnh vô tình? Tái bắc bốn bề là đại mạc hoang vu, ngay cả một miếng trà nóng cũng không có, sơ sẩy một chút đã thành da ngựa bọc thây, bản cung ngược lại muốn hỏi Lan quý phi một câu, Tam hoàng tử bằng lòng chịu nỗi khổ cực này chăng?”

Lan quý phi đáp: “Nếu như bệ hạ hạ chỉ, Tam hoàng tử đương nhiên bằng lòng.”

“Nhưng thái tử của bản cung là tự nguyện thỉnh xuất chinh, bởi vì con của bản cung là thái tử của Đại Khâu, vì xã tắc con dân, vì kính trọng phụ hoàng, thái tử mới mạo hiểm tính mạng để phân nỗi ưu này mà chinh chiến sa trường.”

Mục hậu quỳ trước long sàng bái một đại lễ rồi rưng rưng nói: “Mẫu hậu, bệ hạ, thái tử giờ không ở trong kinh, chuyện ở kinh thành trong thời gian ngắn làm sao có thể truyền đến đại mạc hoang vắng ngay được, bệ hạ bệnh nặng thái tử không biết, triều cục biến ảo thái tử cũng không biết, chỉ dốc lòng dốc mạng bảo vệ cương thổ Đại Khâu ta, thái tử làm sao biết được, các huynh đệ của mình ở kinh thành đều muốn thay thế vị trí thái tử của mình!”

Lời này, không chỉ Lan quý phi, cả mẫu phi của Lục hoàng tử và Thất hoàng tử cũng biến sắc, vội vàng quỳ xuống sau lưng hoàng hậu.

Liên phi nói: “Hoàng hậu nương nương lo lắng cho thái tử là chuyện dễ hiểu, nhưng cũng đừng mở miệng nói lời mê, tiểu Thất của thiếp chỉ mới mười ba tuổi, nào đã hiểu được chuyện đời.”

Từ phi cũng nói: “Hoàng hậu nương nương, Lục hoàng tử đối với hoàng hậu nương nương kính yêu có thừa, chưa từng tồn tại chút gì bất kính, dám hỏi Lục hoàng tử đã làm gì chọc nương nương không vui, cớ sao nương nương lại hãm hại Lục hoàng tử trước mặt thái hậu và bệ hạ như vậy?”

Khóe môi hoàng hậu hé ra nụ cười lạnh, không đáp.

Thái hậu nhắm lại hai mắt, vừa định lệnh bọn họ đứng dậy, bỗng nghe Khánh Tông đế lạnh nhạt cất lời: “Hoàng hậu qua đây đỡ trẫm uống thuốc.”

Mục hậu sửng sốt, cứ ngỡ mình nghe lầm, cho tới nay, mỗi khi hoàng hậu và phi tần hậu cung xảy ra tranh chấp, hoàng đế chưa từng hỏi đến nguyên do, chỉ luôn quở trách hoàng hậu trước, những chuyện này hoàng tử và phi tần đều nhìn trong mắt đặt trong tim, càng ngày càng không coi hoàng hậu ra gì.

Khánh Tông đế lại nói: “Lan quý phi, Liên phi, Từ phi không giữ lễ nghĩa, tất cả ra ngoài điện quỳ, trời tối lại đến, bên cạnh trẫm không cần các ngươi hầu hạ.”

Dù không nói rõ nhưng trong lòng mọi người đều ngầm hiểu, hoàng thượng tạm thời không có ý định đổi thái tử vị.

Thái hậu nhíu mày: “Hoàng đế…”

“Mẫu hậu, để Lý Quý tiễn mẫu hậu hồi cung nghỉ ngơi, nếu chẳng may bị trẫm lây bệnh thì đây là chuyện mà phận làm con thật không nên.”

Viền mắt thái hậu đỏ bừng: “Ai gia sống đến từng tuổi này đã sống đủ lâu rồi, năm ấy lẽ ra ta nên theo tiên hoàng cho rồi, không thì nay đâu phải chịu nỗi đau cốt nhục chia lìa như thế này, ai gia kiếp trước đã tạo nghiệt gì, ngày trước thì tiễn trượng phu, nay lại sắp phải đưa tiễn hài nhi của mình nữa sao…”

Thành vương vội khuyên ngăn: “Mẫu hậu đừng khóc, người như vậy không phải càng khiến cho hoàng huynh lo lắng thêm sao?”

Lại khuyên nhủ một hồi thái hậu mới ngừng rơi lệ, dẫn theo cung nhân lần lượt rời đi. Lý Quý theo đỡ thái hậu, khi cách Càn Chính Cung một khoảng đủ xa, thái hậu chợt hỏi: “Lý tổng quản, bệ hạ đã lập di chiếu chưa?”

Lý Quý cung kính đáp: “Hồi thái hậu nương nương, bệ hạ từ lúc bệnh đến giờ vẫn chưa lập di chiếu.”

Thái hậu gật đầu, xua tay: “Trở về hầu hạ hoàng đế đi.”

Đợi khi hoàng đế xuôi tay, ngọc tỷ truyền quốc sẽ tạm do thái hậu nắm giữ, hoàng đế không thể tự tay viết di chiếu, việc này dễ xử lý hơn nhiều.

Mấy ngày kế, Càn Chính Cung lại thay thêm vài nhóm ngự y, ngoài cung khắp nơi dán hoàng bảng chiêu gọi danh y chữa bệnh cho hoàng thượng, chẳng qua sau khi nhìn qua, người nào cũng lắc đầu, viết một câu: Dược thạch vô y. (Ngàn cân dược cũng không cứu được.)

Ngự y dùng Thiên Sơn Tuyết Liên kéo dài thọ mệnh cho hoàng đế, dai dẳng chống đỡ gần một tháng.

Đêm khuya hôm đó, hoàng hậu ngủ gục trên ghế dài đặt cạnh lòng sàn, trong mơ màng, bỗng nhiên cảm giác có người đang vuốt qua gò má của mình, hoàng hậu mở to mắt, thấy Khánh Tông đế không biết từ lúc nào đã đứng cạnh mình, thoạt đầu hoàng hậu kinh hỉ không thôi, nhưng ngay sau đó lại cảm thấy như đất trời sụp đổ.

Hoàng đế không phải khỏi bệnh, mà là hồi quang phản chiếu.

Khánh Tông đế ngồi xuống bên cạnh hoàng hậu, nói: “Trẫm bỗng nhiên cảm thấy thân thể rất thoải mái, muốn xuống giường đi lại một chút.”

Từ khi biết được bệnh tình của hoàng đế, Mục hậu không có lấy một chút đau khổ nào, trong lòng chỉ lo lắng con trai mình có thể thuận lợi kế thừa hoàng vị hay không, nhưng lúc này, hai mắt hoàng hậu lại cay xè, trong ngực dâng lên một loại cảm giác chẳng cách gì tả được.

“Nhã Nhàn, nàng có hận trẫm không?”

Hận ư?

Người nam nhân này cho bà tôn vinh vô thượng, cũng biến bà trở thành nữ nhân đáng buồn nhất thế gian. Hận, đương nhiên rất hận. Mục Thanh Nhã gật đầu một cái thật khẽ.

Khánh Tông đế nhếch môi, chậm rãi nói: “Trẫm biết nàng hận trẫm, cũng như trẫm hận nàng vậy, trẫm biết, cái chết của Uyển Nhan có liên quan đến nàng.”

Mục hậu ngước mắt, trong mắt là thần sắc kinh ngạc, không thể tin được, còn có một loại hốt hoảng sâu tận trong xương.

“Uyển Nhan ngây thơ hồn nhiên, lúc mới vào cung, người nào người đấy đua nhau khó dễ nàng ấy, chỉ có nàng là đặc biệt đối tốt với nàng ấy, nàng ấy lập tức xem nàng như tỷ tỷ ruột của mình. Sức khỏe của Uyển Nhan xưa nay không phải luôn rất tốt sao, sao có thể thai vị không đúng dẫn đến khó sinh được, trẫm hỏi qua ngự y, tình trạng của Uyển Nhan có chút giống với một loại độc, nhưng nếu thật sự uống phải loại độc đó thì không phải chỉ khó sinh thôi, mà chắc chắn một xác hai mạng, cho nên, có người đã xông thuốc lên y phục, mỗi ngày tiếp xúc với Uyển Nhan, mới có thể khiến nàng ấy chết lúc sinh.”

Khánh Tông đế lại nói: “Là một cách làm rất thông minh, dù tra được tới nàng thì cũng không có chứng cứ, trẫm không thể làm gì được nàng, huống chi cung phi khó sinh là chuyện thường xảy ra, ai sẽ nghi ngờ mà tra xét chứ, đến trẫm cũng phải mấy năm sau mới chợt nhớ tới mấy điểm khả nghi. Tiểu Ngũ đáng thương của trẫm cũng vì loại độc đó mà tâm trí không phát dục đầy đủ, phản ứng trì độn hơn người khác, còn xem kẻ thù giết mẹ như mẹ ruột của mình mà tôn kính.”

Sắc mặt Mục hậu không còn chút máu, môi run rẩy, trông qua cực kỳ giống một nữ quỷ.

Khánh Tông đế không quản đến hoàng hậu, nói tiếp: “Trẫm không giết nàng, vì trẫm biết, cái chết với nàng là một loại giải thoát, trẫm để cho nàng ngồi lên vị trí tôn quý nhất, mặt khác lại nâng hết người nữ nhân này tới người nữ nhân khác đạp lên người nàng, nhìn nàng thống khổ, bất lực, trẫm nghĩ, Uyển Nhan chắc hẳn sẽ rất hài lòng, nhưng vừa rồi trẫm lại mơ thấy Uyển Nhan, nàng ấy nói nàng ấy không hài lòng, nàng ấy muốn trẫm tha thứ cho nàng.”

“Năm xưa Uyển Nhan đối đãi với nàng chân thành như vậy, nàng đối với nàng ấy có lẽ cũng có phần nào chân tình đi. Mấy năm nay trẫm thấy nàng lúc đầu thì nhẫn nại chăm sóc tiểu Ngũ, nhưng càng về sau lại càng xa lánh, thậm chí còn có phần e ngại tiểu Ngũ.” Nói đến đây, Khánh Tông đế cười khẽ: “Là bởi vì tiểu Ngũ càng lớn càng giống mẫu phi mình, nàng thấy nó, lương tâm càng bất an.”

Mục hậu cắn răng, bỗng lớn tiếng chất vấn: “Lương tâm thiếp vì sao phải bất an?” Vừa nói, gương mặt cũng trở nên dữ tợn, khi ngước mắt, trong mắt đã chảy xuống hai hàng lệ, khóc không thành tiếng: “Thiếp không hối hận, không bao giờ hối hận!”

“Lục Uyển Nhan, Lục Uyển Nhan, đời này thiếp sống đáng buồn đáng cười như vậy đều vì Lục Uyển Nhan! Thiếp hận Lan Hân, càng hận nàng ta! Lan Hân nhận được ân sủng là do tự bản thân ả tranh giành được, nhưng còn Lục Uyển Nhan thì sao? Nàng ta cái gì cũng không cần làm, bởi vì đã có hoàng thượng chuẩn bị sẵn hết mọi thứ đưa đến trước mặt nàng ta, Lệ phi, rồi Lệ quý phi, sau đó sẽ là Hoàng quý phi, đến cuối cùng, ngay cả hậu vị của thiếp cũng sẽ vị nàng ta cướp mất!”

“Thiếp còn gì để mất nữa đâu, thiếp chỉ muốn bảo vệ Sâm nhi của thiếp mà thôi, hậu cung này làm gì có ai dễ sống, vì sống sót, trên tay kẻ nào mà chẳng dính đầy máu tươi, Lan Hân, Từ An Dung, Vương Khinh Liên, bọn họ có người nào chưa từng giết người? Chuyện xấu mà họ làm còn nhiều hơn cả thiếp! Mà thiếp, cả đời này của thiếp, chỉ hại chết một người, chỉ có một người…”

Mục hậu cúi đầu nhìn tay mình, sau đó giơ lên ôm hai gò má đã ướt lệ, người đó, lại chính là tỷ muội tốt nhất của bà.

Nước mắt theo kẽ tay rơi xuống nền đá cẩm thạch dưới chân, hoàng hậu yếu ớt thì thào: “Thiếp… Ngay từ đầu thiếp không hề muốn hại Uyển Nhan… Thiếp đã ngừng xông thuốc, nhưng đột nhiên có một ngày, Uyển Nhan nói với thiếp rằng, ngài nói với muội ấy, muốn cho Ngũ hoàng tử làm thái tử.”

Khánh Tông đế đáp: “Nhưng Uyển Nhan cự tuyệt.”

“Đúng là cự tuyệt, đó là bởi nàng ta khi ấy còn quá trẻ, còn giữ được thiên tính thiện lương khi chưa nhập hậu cung, qua mấy năm nữa thôi, rồi sẽ có một ngày, nàng ta bắt đầu biết quyến luyến quyền thế, đến lúc đó, thiếp và Sâm nhi phải làm sao đây, từ nhà thiếp đến hậu cung này, kẻ mà thiếp không thể tin nhất chính là nữ nhân.”

Ánh nến trong điện sáng rực, soi tỏ cho đôi phu thê cao quý nhất Đại Khâu triều, bọn họ đang ngồi trên cùng một băng ghế dài, hơn hai mươi năm qua, đây là lần đầu bọn họ cách nhau gần như vậy.

Không biết qua bao lâu, Khánh Tông đế nặng nề lên tiếng: “Chiếu theo chỉ ý ban đầu của trẫm, sau khi trẫm chết, hoàng hậu sẽ tuẫn táng theo trẫm.”

Mục hậu thở ra một hơi khí đục, cười đến ung dung: “Nô tỳ tạ ơn bệ hạ ân điển.”

Khánh Tông đế lại lắc đầu: “Nhưng giờ trẫm đổi ý rồi, thái tử phòng thủ biên quan bảy năm, cứu vớt mấy vạn quân dân trong cảnh nước sôi lửa bỏng, trẫm giữ lại mạng cho mẫu hậu của thái tử, xem như là món quà cuối cùng mà người làm phụ hoàng này tặng cho con mình đi.”

Nói xong chậm chạp bước lại long sàn rồi nằm xuống, hai mắt từ từ nhắm lại.

Mục hậu bất động hồi lâu, tầm mắt vẫn dõi theo nét mặt mang theo ý cười của người nam nhân đó, nhìn lồng ngực phập phồng của ông chầm chậm rồi lại chầm chậm, cho đến khi hoàn toàn ngừng lại, thần sắc cũng dần đờ đẫn.

Năm ấy hỉ kiệu mười dặm hồng trang gả cho người này, người người đều ngưỡng mộ nàng thái tử phi khi xưa ấy. Hoàng hậu đã từng là một cô nương khuê phòng ngây thơ như bao thiếu nữ khác, dưới lớp khăn đỏ cứ mãi vẩn vơ phỏng đoán phu quân của mình tuấn tú đến nhường nào, bà đã từng như vậy đấy, âm thầm chờ mong qua cử án đề mi[2], cùng nhau đầu bạc.

[2] Cử án đề mi: tạm dịch là nâng khay lên ngang mày, ý chỉ vợ chồng luôn yêu thương tôn trọng nhau. Có thể seach đọc thêm chuyện về vợ chồng Lương Hồng, Mạnh Quang để hiểu thêm về xuất xứ câu này.

Hơn hai mươi năm, những thứ ấy chẳng khác gì hoa trong gương trăng trong nước, chỉ để lại nỗi hận trong lòng.

Đầu giờ Sửu, An Hoa Lâu vọng lên tám mươi mốt tiếng chuông, báo tin đế vương băng hà.

Đêm đó, hoàng cung không ai có thể ngủ ngon, Khánh Tông đế băng hà, thái tử đang trên đường hồi kinh, ngôi vị hoàng đế bỏ trống, triều đình đại loạn.

Hiền vương ngay đêm tiến cung chịu tang, nửa đường bị Lục hoàng tử dẫn binh ngăn lại ngoài Thanh Võ Môn, dựa theo quy định trong cung, phàm khi tiến cung không được mang bội đao, Hiền vương không những cưỡi ngựa mang đao, sau lưng còn dẫn theo một đội nhân mã, tư thế đoạt vị không thèm che giấu, song phương vào thế giằng co, không ai nhường ai.

Cùng lúc, Minh vương tập trung toàn bộ văn võ đại thần có quan hệ với mình đến ngoài cổng Kim Loan Điện, chờ đợi thời khắc lâm triều, bức thái hậu lập tân quân.

Hiện tại trữ quân vắng mặt, đương nhiên nên lập trưởng tử, đây là quy định do tiên hoàng để lại, Minh vương không hề lo lắng, cũng chẳng mảy may nóng vội, hiện mấy hoàng tử trong kinh hắn chẳng đặt ai vào mắt, chỉ cảnh giác duy nhất mình Cố Sâm.

Tính thời gian, từ khi tin Khánh Tông đế bệnh nặng truyền ra, muốn tới được tái bắc ít nhất phải qua hơn một tháng, dù gấp rút chạy suốt tám trăm dặm không ăn không ngủ thì lúc này thái tử chỉ đến được thành Trung Châu là cùng, huống chi thái tử còn dẫn theo quân đội, muốn vào thành nào dễ dàng như vậy, đợi thái tử đến được kinh thành thì người hoàng huynh này đã đạp lên ngôi vị hoàng đế xong xuôi cả rồi.

Đến lúc đó Cố Sâm nằm trong cảnh quân vây bốn mặt, lại có thêm hoàng hậu trong tay bọn họ, thái tử lẽ nào có thể vì ngôi vị hoàng đế mà không nhìn tới mẫu thân ruột thịt của mình sao?

Nếu thái tử thật sự có khí khái như vậy, ngôi hoàng đế này hắn sẵn sàng nhường lại chứ ngại ngần gì, hắn ngược lại muốn xem xem Cố Sâm sẽ bị sử sách thóa mạ thành cái dạng gì, hậu thế chế nhạo thành cái dạng gì, trở thành thiên cổ đệ nhất bất hiếu tử.

Nhận được tang tin trong cung, Diệp Nham Bách cũng không ngủ được, thư phòng tướng phủ sáng đèn suốt đêm, đến khi tờ mờ sáng, ông dụi hai mắt, bước ra ngoài, cất giọng gọi: “Diệp Tam, hầu hạ bản tướng tắm rửa thay y phục, chuẩn bị vào triều.”

Diệp Tam dẫn mấy nha hoàn và tiểu tư đến vào hầu hạ tướng gia rửa mặt, xong đâu đấy cho vẫy lui hạ nhân, nhỏ giọng thuật lại tin tức thu được trong cung đêm qua cho Diệp Nham Bách, sau cùng chốt lại một câu: “Chỉ có Thất hoàng tử là chưa có động tĩnh gì.”

Diệp Nham Bách lắc đầu nói: “Thất hoàng tử là người thân thiết với thái hậu nhất.”

Diệp Tam ngẩn người, lại nghe Diệp Nham Bách nói: “Ngươi cứ chờ mà xem, buổi lâm triều hôm nay thái hậu nhất định sẽ mang “di chiếu” tới, tuyên bố Thất hoàng tử đăng cơ.” Ông xoa mi tâm mấy cái, nói tiếp: “Thật sự rất lười phải nghe bọn họ thần thương khẩu chiến, đầu đau không chịu được.”

Ra khỏi thư phòng đã thấy con trai lớn đứng đợi trước cửa, bên ngoài quan phục là lớp tang phục màu trắng, hành lễ với ông: “Phụ thân.”

Diệp Nham Bách vỗ vai con trai lớn, cười nói: “Nghĩ tới chuyện con và ta là đồng liêu, lòng vi phụ an ủi rất nhiều.”

“Lời này của phụ thân có ý gì?”

Diệp Nham Bách nói: “Buổi lâm triều hôm nay khẳng định sẽ không tránh khỏi kiếp nạn phải nghe người ta khẩu chiến, lại nghĩ tới Huy nhi so với phụ thân càng ghét ồn ào ầm ĩ, phụ thân cảm thấy rất khuây khỏa.” Sau đó bật cười rồi dẫn đầu bước lên xe ngựa.

Trong mắt Diệp Trọng Huy xẹt qua ý cười rất nhạt, A Cẩm tối qua làm cho hắn hai miếng bông, hôm nay lâm triều có lẽ có chỗ dùng rồi.

Đêm qua sau khi thấy đế tinh ngã xuống, Diệp Trọng Cẩm cũng không cách nào ngủ được, ôm Đại Miêu ngồi suốt đêm trong phòng, lòng một lúc thì nhấp nhổm bất an, một hồi lại thầm than may mắn, thỉnh thoảng lẩm bẩm gì đó mấy câu, Đại Miêu chẳng muốn nghe thêm nữa, trực tiếp nhảy qua cửa sổ chạy mất.

Diệp Trọng Cẩm trợn mắt nhìn bóng lưng của nó, giận dữ đóng sầm cửa sổ lại, mắng: “Mèo ngốc, đi rồi thì đừng có về nữa.”

Đêm nay Thu Tử trực, nghe thấy động tĩnh vội gõ cửa hỏi y xảy ra chuyện gì, Diệp Trọng Cẩm đáp: “Không có gì không có gì, ngươi cũng ngủ đi.”

Y lề mề bò lên giường, thình lình chạm phải một thân thể cường tráng nóng hổi, Diệp Trọng Cẩm bị dọa nhảy dựng, chưa kịp tri hô gọi người thì miệng đã bị người ta bịt lại, thân thể cũng bị kéo trở lại giường, trời vẫn chưa sáng, trong phòng tối đen, trong bóng tối, y thấy được một đôi mắt thâm trầm lóe lên.

Người nọ kéo y vào trong ngực, hơi thở nóng rực dồn dập, dùng một tay vuốt ve mặt y, vết chai mỏng trên tay chạm qua gò má y, kéo tới chóp mũi, rồi vòng lên trán, da thịt non mềm bị niết phát đau, động tác của người nọ rất nóng vội, giống như muốn xác nhận cái gì, khí tức phả ra như muốn thiêu đốt toàn thân Diệp Trọng Cẩm.

Diệp Trọng Cẩm nghe được nhịp tim mạnh mẽ của người nọ, một nhịp rồi một nhịp nữa, là Cố Sâm, là hắn.

“A Cẩm, A Cẩm, A Cẩm….”

Giọng nói quen thuộc trầm thấp lẫn giữa khí tức xâm lược nồng nặc đã trải qua bão cát đại mạc, trải qua đồng tuyết băng sơn, trải qua vô số chém giết, sát khí khắp người giống như đã hòa thành một bản thể, phát ra từ chính linh hồn người nọ.

Diệp Trọng Cẩm giơ tay muốn chạm vào mặt hắn, lại bị hắn bắt lấy, xem như ngọc bảo trân quý mà đưa lên môi, trân trọng hôn lên tay y, từng ngón từng ngón, ngỡ như bao nhiêu cũng không đủ.

Trên thân người nọ nặng mùi sương sớm, hẳn là chỉ vừa chạy tới kinh thành, gấp rút như vậy, thế mà đến cùng cũng không về kịp.

Y buồn bã nói: “Ngài có biết, bệ hạ ngài ấy…”

Một lúc lâu, y thấy nam nhân cúi đầu cười thành tiếng.

“Ta cho rằng, có thể gặp ông ấy một lần cuối, ta cho rằng, ông ấy đợi ta suốt một năm rồi sẽ không tính toán mà chờ ta thêm một canh giờ nữa, nhưng mà, ông ấy không đợi nữa.”

Trên dời này, bao giờ cũng có rất nhiều tiếc nuối.

Diệp Trọng Cẩm dang tay, chật vật ôm thân thể cao lớn của nam nhân, nói: “Đừng tự trách, ngài đã làm rất tốt rồi, đột phá muôn trùng hiểm trở, âm thầm vào kinh, đổi là là bất kỳ kẻ nào cũng không làm được, chỉ có một mình thái tử ca ca mới có thể làm được ngần ấy chuyện thôi.”

Hai mắt Cố Sâm lóe lên ánh sáng nhu hòa, thình lình ngồi bật dậy, kéo thiếu niên trong lòng mình ra, hắn vẫn chưa nhìn kỹ, A Cẩm của hắn hiện tại có những thay đổi gì.

Nhưng chỉ vừa châm lửa giá nến tràn bàn, Diệp Trọng Cẩm đã chui tọt vào trong chăn, che kín mặt mình, Cố Sâm vội hỏi: “A Cẩm làm sao vậy?”

“Ta… Ta giờ rất khó coi…” Y cảm giác bản thân mình không đẹp bằng đời trước, cảm thấy rất buồn rầu, càng sợ hơn là nhìn thấy biểu tình thất vọng của người nọ.

Cố Sâm ngây người, lát sau bật ra tiếng cười trầm: “Ưa nhìn hay khó coi thì cũng là con dâu cô nuôi từ bé, cô sẽ không chê.”

Vừa nói vừa bước qua ôm cả người và chăn vào lòng, hắn ở biên quan thô lỗ đã quen, bây giờ đối mặt với thiếu niên mười bốn tuổi yêu kiều mềm mại như thế này, trong lòng chỉ muốn chiều chuộng y lên tận trời, sợ chạm vào sẽ làm y bị thương, hắn không dám đụng, rồi lại luyến muốn thân cận thật nhiều, đắn đo mãi chẳng biết nên chạm vào đâu cho tốt, cứ thế đành ôm luôn cả chăn cả người.

“A Cẩm ngoan, chui ra để cô nhìn thử, trời sáng cô còn có việc phải làm.”

Diệp Trọng Cẩm la lên: “Không cho đi, hiện tại toàn thành giới nghiêm, nếu bị Minh vương phát hiện, ngài nhất định sẽ gặp nguy hiểm…”

Cố Sâm thừa dịp y đang nói chuyện đánh mất cảnh giác nhanh chóng xốc chăn bông lên, thiếu niên trốn chui trốn nhủi trong chăn hoàn toàn bại lộ, bốn mắt nhìn nhau.

Dưới ánh nến khi mờ khi tỏ, mái tóc đen dài buông xỏa của thiếu niên rơi xuống nền giường trắng tuyết, đôi mắt hắc bạch phân minh lấp lánh dưới ánh đèn, phiến môi đỏ thẫm bị hàm răng ngọc của chủ nhân cắn nhẹ, đẹp đến độ làm cho cõi lòng người ta rung động mãnh liệt.

Cố Sâm như bị mê hoặc, áp tới hôn lên gò má trắng nõn của y, Diệp Trọng Cẩm đã lâu không thấy gương mặt thành niên của hắn, trong chốc lát như bị chấn kinh mà quên đi hết thảy, ngây ngốc mặc hắn hôn mình.

Cố Sâm ôm thiếu niên xinh đẹp vào lòng, hơi thở rối loạn, mãi lúc lâu sau mới nói một câu: “Ngươi Diệp gia nhà các ngươi, cũng thật là khiêm tốn.”

===========

Hết chương 73.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play