“Hàn Thính Trúc, người Phụng Thiên, không rõ ngày sinh.”
Cha anh là một con ma men lại nghiện thuốc phiện, thực sự không phải người tốt. Mẹ anh bò từ Quỷ Môn Quan về, vất vả lắm mới sinh ra con trai, ấy thế mà ngay cả cái tên cha cũng không cho anh.
Cuối cùng có một nhà sư đi ngang qua cho anh cái tên “Thính Trúc”.
Nhà sư ấy nói, tiếng khóc của đứa bé này rất vang, mệnh ắt cũng rắn, rất dễ nhuốm máu, nên lấy cái tên có liên quan đến Phật giáo. Trúc, không chỉ có nghĩa liên quan đến nước Thiên Trúc, mà đâu đâu cũng có quan hệ với Phật giáo. Ông ấy còn dặn cha anh, phải nhắc con mình học nhiều Phật pháp.
Quả thực ông ấy đã nói đúng, mệnh Hàn Thính Trúc rất cứng. Nếu như tính cả chuyện mẹ anh bị cha anh đánh chết vào người anh.
Sinh con không thể làm bà ấy chết, bà ấy lại chết trong tay người chồng mình xem là trời.
Tháng 9 năm Dân quốc 20, quân Quan Đông Nhật Bản nổ nát đường sắt phía Nam, mượn cơ hội giá họa, nã pháo oanh tạc doanh trại ở Bắc Đại. Không tới một ngày, Phụng Thiên bị bao vây. Cha của Hàn Thính Trúc cũng chết trong nhà, Hàn Thính Trúc không rõ tung tích.
Suốt quãng đường chạy nạn anh đã nếm trải rất nhiều khổ cực mới đến được Thượng Hải.
Mạo hiểm đi đến Thiên đường.
Khuân vác ở bến tàu, làm tay sai cho người ta, thỉnh thoảng đi giao hàng, việc gì anh cũng từng làm qua. Lại thêm lúc ấy ở Thượng Hải thịnh hành hội đồng hương. Nói là đồng hương nhưng thật ra là tổ chức tranh giành địa bàn, màn đêm buông xuống bến tàu đẫm mùi máu tươi, anh cũng chọn cho mình một thanh đao tốt.
Khi ấy anh dốc hết sức để sinh tồn, chẳng quan tâm đến thiện ác.
Khi ấy đuôi mày Hàn Thính Trúc còn chưa có sẹo.
Năm sau anh gặp ông Hàn. Thực ra cũng là trùng hợp. Có người bảo dòng họ nhà anh có phúc, nói anh may mắn, không hẳn là nói dối. Nhưng nếu được lựa chon Hàn Thính Trúc chỉ hận mình đừng có chút may mắn ấy, nếu có thể sử dụng nó vào chuyện khác, như ở cùng A Âm chẳng hạn thì tốt biết bao.
Ngày đó trời rất âm u, ông Hàn đi xe ngang qua, dẫn một đám người đến xem bến tàu.
Hàn Thính Trúc mặc áo làm từ vải thô, tóc cắt rất ngắn, sờ tới sờ lui toàn là gốc rạ lởm chởm, đâm vào tay rất khó chịu. Anh ngồi trên một cái hòm không biết đựng hàng gì bên trong, tán gẫu với một con ma ốm.
Không quá mấy ngày sau ma ốm bị người ta chém chết, cậu ta chết trên đường đi tìm gái. Lúc ấy nói chuyện với Hàn Thính Trúc, cậu ta bảo chưa từng thấy anh chơi gái. Trong những bang phái hỗn loạn này, mặc kệ có bao nhiêu tiền thì ai nấy đều đi tìm gái có giá cả phù hợp, thậm chí không có tiền cũng phải móc tiền ra để được thoải mái.
Anh lạnh lùng cười cười, dùng vải quấn lên lưỡi đao, đao mài sắc quá cũng bất tiện.
“Tôi không đụng vào phụ nữ. Các anh đụng vào là chuyện của các anh, một ngày nào đó cái gọi là “trên đầu chữ sắc có một cây đao” sẽ được chứng thực.”
Mà trong tay anh chỉ cần một thanh đao này là đủ rồi.
Thế hệ trước của nhà họ Hàn đều hậu quả của nợ gió trăng, thứ không thể cắt đứt là phụ nữ. Thuộc hạ của ông Hàn tiến lên định đánh anh nhưng bị ngăn lại. Thân hình của ông Hàn hơi gầy gò, nói: “Người quản lí khu bến tàu này bị chém chết mấy hôm trước, tôi giao bến tàu này cho cậu quản lý, cậu có dám không?”
Thiếu niên khinh cuồng, không trải qua những năm tháng lắng đọng nên không biết khiêm tốn. Anh nghiêm mặt, “Dám. Tôi quản lý bến tàu, sau này ai cũng đừng hòng vấy máu nơi đây.”
Sau này dần có người gọi anh là Tiểu Hàn gia, bởi vì đậu lên được cành cao là ông Hàn. Có người không phục khiêu khích, anh giết; có người cố ý gây chuyện, anh giết. Năm vừa tiếp nhận bến tàu, anh thực sự đã thấy quá nhiều máu.
“Mỗi khi trời tối người yên giấc, gió ở bến tàu có vị rất mặn, nếu cẩn thận còn có thể ngửi thấy mùi tanh hôi, thực sự rất buồn nôn. Dường như trong tầm mắt của tôi đâu đâu cũng là máu tanh, tôi đã tự hỏi mình, có phải mình muốn trở thành một ác ma khát máu như thế không. Hàn Thính Trúc, mày phải tỉnh táo. Tôi đã tự khuyên bảo mình vô số lần. Nhờ có trời cao thương xót, cho tôi gặp được A Âm. Lúc cô ấy đến là lúc ánh đèn rọi sáng màn đêm, là vị thần cầm dây trói tiên trên trời, vừa nhìn thấy, lòng tôi bỗng cảm thấy bình yên.”
Có lẽ từ lúc Hàn Thính Trúc lớn tiếng thề không đụng vào phụ nữ, là khi đó số mệnh đã định sẵn, cuối cùng anh sẽ chết.
Ráng chiều, phố xá sầm uất dưới ánh hoàng hôn, yên bình đến lạ thường. Đây là lần đầu tiên Hàn Thính Trúc mua thuốc. Trước kia không có tiền, anh hút ké của người khác. Sau khi được ông Hàn cất nhắc, bắt đầu có người đưa thuốc cho anh. Một thoáng tiếp xúc với thuốc lá, anh bỗng nhiên nghĩ, hình như mình chưa bao giờ tự mua thuốc. Anh bảo người dừng lại xem xét, có rất nhiều nhãn hiệu, anh thực sự không biết mua loại nào. Cạnh đó có một người phụ nữ làm đổ giỏ quần áo, anh nghe tiếng nhìn sang, đã hiểu “uống nhầm một ánh mắt cơn say theo cả đời” là thế nào.
Tất cả đều dùng để hình dung phụ nữ, Hàn Thính Trúc cảm nhận được.
Người đi đầu thai, quá khứ bỏ lại phía sau, không thể nói chính đâu mới là người kiếp trước. Nhà Phật giảng giải nhân quả, Hàn Thính Trúc không tin nhân quả. Nhưng vào giây phút này anh bỗng cảm thấy hình như mình từng quen biết người trước mắt, hình như anh chờ đợi mấy kiếp là để gặp cô.
Khói thuốc lượn lờ, người phụ nữ mặc sườn xám kẻ caro bưng chậu quần áo đã được giặt sạch đến gần, đứng trước mặt Hàn Thính Trúc, đưa tay cầm bao thuốc nhét vào tay anh.
Giọng nói rất dịu dàng, là kiểu cố ý dịu dàng, làm anh nhớ đến tiếng ve kêu râm ran mùa hạ ở vùng Đông Bắc, “Trả tiền.”
Anh trả tiền, cô đi.
Mãi đến khi bóng người biến mất, Hàn Thính Trúc cúi đầu, nhìn hộp thuốc lá màu ngà trong tay.
CHIENMEN, Đại Tiền Môn.
Cô không biết, cô chỉ tiện tay cầm một gói thuốc mà anh đã hút đến tận mười năm sau.
“Âm La, dòng họ hiếm gặp. Đường Tam từng đọc sách mấy năm, tôi bảo cậu ta đến nhà in tìm hiểu, quay về cậu ta nhả ra một câu nho nhã, “Sĩ hoạn đương tác chấp kim ngô, thú thê đương thú Âm Lệ Hoa” (Làm quan phải làm Chấp Kim Ngô, cưới vợ phải cưới Âm Lệ Hoa). Tôi hỏi Âm Lệ Hoa là ai, cậu ta nói đó là hoàng hậu của một trong những hoàng đế triều Hán. Khoác cổ Đường Tam, tôi si ngốc nói, mình không muốn làm Vua bởi có quá nhiều phụ nữ.”
“Tôi bắt đầu tìm cô ấy giặt quần áo. Nếu kiếm được nhiều thì tôi đưa cô ấy rất nhiều tiều, cô ấy chưa từng nói, chỉ cười nhận lấy. Kiếm ít thì không tìm cô ấy, đặt đồ vào trong đống quần áo. Đã mấy lần ông Hàn âm thầm tìm tôi nhờ đi giao hàng, dù không biết đó là gì thì tôi cũng làm ngay chẳng chút do dự. Kiếm đủ tiền mua năm thỏi vàng, tôi nắm chặt tay, chặn cô ấy ở trên đường.”
Khi ấy Hàn Thính Trúc rất ngang ngược. Anh tiến lên nắm tay A Âm, hơi ngạc nhiên vì bàn tay lạnh buốt của cô nhưng vẫn nói: “Em sống cùng tôi, tôi không để em phải giặt quần áo nữa.”
Anh không cho cô từ chối, đặt năm thỏi vàng vào chậu đựng quần áo của cô, xung quanh mờ tối, trên mặt đất còn nội tạng cá tỏa ra mùi tanh hôi.
Cô trả lời rất nhanh: “Được.”
Giọng nói quá quyến rũ, anh biết câu nói dịu dàng đầu tiên mà cô nói với anh là giả vờ.
Giữa phố xá sầm uất, cô gái giặt quần áo xinh đẹp đi theo Tiểu Hàn gia, mọi người đều biết. Trong căn nhà tồi tàn ở bến tàu, lần đầu tiên của Hàn Thính Trúc là do cô làm chủ, nữ trên nam dưới.
Chưa ăn thịt heo cũng đã thấy heo chạy. Anh biết, đây không phải lần đầu tiên của cô.
Anh không hỏi.
Chỉ biết là mỗi lần sau đó, gối đầu trên đùi cô, hai người đều trần truồng, cô quyến luyến vuốt ve gương mặt anh, anh hút một điếu Đại Tiền Môn, cảm thấy yên tâm vô cùng.
Vào ban ngày ở bến tàu có kẻ ghen ghét với anh, đứng trước mặt nói làm một con chim non mệt mỏi và thoải mái biết nhường nào, còn định đâm đâm anh, “Tiểu Hàn gia, anh nói thử xem?”
“Không biết.”
Đường Tam nói cho anh biết, sau lưng có người rèm pha, mặc dù A Âm mặc sườn xám sợi tổng hợp không mấy bắt mắt, nhưng ở Thượng Hải, chỉ có tiệm may Tần Ký mới có, giá một cuộn vải đắt đến dọa người. Một cô gái giặt quần áo có thể kiếm được bao nhiêu tiền, bọn họ đồn rằng đó là tiền bẩn.
Anh vỗ vỗ bả vai Đường Tam, quàng cổ cậu ta: “Tam tử, cậu biết trong lòng tôi nghĩ gì không?”
“Nghĩ gì?”
“Tần Ký đúng không, sau này ta sẽ sắm cho cô ấy đầy một tủ quần áo, mỗi mùa đổi một kiểu.”
Người phương Bắc, nhất là người Đông Bắc đều có tính cách ngang tàng, Hàn Thính Trúc cũng vậy. Tia nắng chiều cuối cùng biến mất, toàn bộ đèn pha ở bến tàu sáng lên, anh quên mất hôm đó là ngày mấy tháng mấy, chỉ nhớ rõ trên hoàng lịch viết, thích hợp sát sinh.
Hàn Thính Trúc chấn chỉnh bến tàu, mấy chuyện này phù hợp với tính cách quái gở ngày thường của anh, kẻ nên chết thì chết, kẻ nên tàn phế thì tàn phế. Chỉ có người, vào lúc Hàn Thính Trúc định chém xuống, chỉ vào đám đông hô lên: “Tiểu Hàn gia, người phụ nữ của anh!”
Anh vừa định quay đầu lại thì lưỡi đao lướt đến, khó khăn lắm mới tránh được, đuôi mày xuất hiện vết sẹo.
Đường Tam đưa Hàn Thính Trúc đã băng bó về nhà, thấy anh bảo mình ở lại ăn cơm thì vội nói: “Chị dâu nấu cơm rất khó ăn, anh tha cho em đi.”
Sau này ở bên tàu không còn kẻ lắm mồm nữa, những kẻ dám ăn nói linh tinh đều bị Hàn Thính Trúc giết hết.
“Người khác không biết, tôi chẳng có vấn đề gì hết. Cái gọi là khác nhau một trời một vực đó là A Âm ở cạnh tôi như mây cạnh bùn. Lòng tôi hướng về bầu trời, nhưng dốc hết sức cũng không thể chạm đến. Càng thân mật thì càng rõ, A Âm thường xuyên mất hồn. Ngày thường tôi không nói nhiều, trên giường cũng chỉ thích im lặng, nhưng trong lòng có nghi hoặc lan tràn, tôi rất muốn hỏi: A Âm, thông qua bóng hình anh, em đang nhớ đến ai?”
Cơ thể cô rất lạnh, Hàn Thính Trúc biết, bến tàu gió lớn, căn nhà lụp xụp không đủ ấm, vất vả lắm mới kiếm đủ tiền mua một căn nhà lớn, A Âm lại đi.
Cô giống như chỉ dừng lại trong thế giới của anh vài năm rồi biến mất không thấy tăm hơi, bỏ lại một mình anh, tích lũy muôn vàn nghi hoặc vì thân thế của người con gái ấy.
Chuyện đời dễ thay đổi nhưng lòng không hề biến đổi.
Ngày 20 tháng 11 năm Dân quốc 26, Thượng Hải bị chiếm đóng, ông Hàn lên đường đến Hồng Kông, tất cả công việc và tài sản ở Thượng Hải đều giao lại cho Hàn Thính Trúc, hẹn sau đi đến cảng sẽ liên lạc. Trên tàu ông Hàn bị giết, có người đồn đại chuyện này do Hàn Thính Trúc làm, anh không giải thích, chỉ lặng lẽ đặt bài vị của ông Hàn cạnh tượng Quan Nhị gia thờ phụng ở từ đường, ngày Lễ tết đều thành tâm cúng bái.
Làm người, chỉ cầu không thẹn với lương tâm.
Anh kết giao bạn mới, đều là những người có máu mặt ở Thượng Hải. Nghe hí không cần phải chuồn êm khỏi rạp hát nữa, lúc nào phòng bao ở chính giữa cũng được giữ lại cho anh. Anh không mặc áo lót nữa mà bắt đầu mặc trường bào và áo khoác ngoài, tóc cũng bôi dầu, sau này anh là Hàn tiên sinh chứ không phải là Tiểu Hàn gia cầm dao ở bến tàu.
Năm đầu tiên, A Âm không quay lại.
Năm thứ hai, A Âm vẫn không quay về.
Năm thứ ba, A Âm trở về.
Người ngoài nói cô lẳng lơ, khi trước sống chung với Hàn Thính Trúc ở bến tàu không nhìn thấy tương lai nên bỏ chạy. Bọn họ không biết ông Hàn rất xem trọng anh, lúc đi cũng đã yên tâm giao phó tất cả, chỉ là không may chết giữa đường, thành toàn cho Hàn Thính Trúc. Nhưng cũng phải thừa nhận, anh trấn được Hoằng Xã. Bây giờ anh ở biệt thự, tiền đếm không xuể, đàn bà chỉ cần gọi là đến vung tay là đi thì A Âm tham tiền lại trở về.
Đường Tam vẫn luôn kính trọng người chị này.
Lúc Hàn Thính Trúc không phải Hàn tiên sinh, ở căn nhà lụp xụp kia ngày nào người phụ nữ ấy cũng giặt quần áo nấu cơm cho anh, ngày nghỉ còn thấy chị ấy cầm dao cạo đầu, cạo râu cho anh. Thậm chí Đường Tam còn cho rằng, A Âm bỏ đi là do Hàn Thính Trúc không tốt.
“Tôi nói với Đường Tam tôi không sai, chị dâu cậu cũng không sai. Tôi và cô ấy chỉ gặp nhau không đúng lúc, tôi đến chậm còn cô ấy thì tổn thương quá sâu.”
“Cô ấy rất hợp đứng trong biệt thự, cô ấy cùng tôi trải qua nhiều năm khổ sở như vậy mới là thiệt thòi. Tôi hỏi cô ấy đi đâu, cô ấy bảo Bắc Bình. Tôi lại hỏi, vì sao trở về, cô ấy nói nhớ tôi. Chỉ cần cô ấy quay về, tôi chẳng có gì phải so đo.”
“Trước khi Chi Nam và Hán Thanh rời khỏi Thượng Hải cũng là vừa tròn nửa năm A Âm quay về. Lần đầu tiên tôi cảm ấy mối quan hệ giữa chúng tôi chuyển biến tốt. Khi ấy chúng tôi hiểu nhầm nhiều năm, mỗi một giây tôi đều hối hận.”
“Tôi làm chủ mời mọi người gặp mặt, Chi Nam còn dẫn theo cô bạn gái nhỏ, đến nghe Ngọc Đường Xuân ở nhà hát Hoàng Kim. Hôm đó Thượng Hải có tuyết đầu mùa, về đến nhà, tôi thấy cô ấy chủ động đưa một đầu bếp cho Chi Nam. Kì thực tôi biết rõ, cô ấy thích bạn gái nhỏ của cậu ta, cô ta là người Bắc Bình. Tôi theo cô ấy đến lan can trên lầu, cô ấy khóc nói với tôi: Hàn Thính Trúc, tuyết rơi rồi.”
Khi đó tôi hơi mất khống chế, hẳn là có phần vội vàng, chưa bao giờ tôi vội vàng muốn thân mật với cô ấy như vậy.
Tôi nghĩ: Tuyết rơi, là con tuyết trong sạch nhất nhân gian. Nhưng chân đạp trên mặt đất, mỗi một bước đi đều dính bẩn.
Tôi và A Âm, từ khi nào lại biến thành thế này.
Tháng sau, Hàn Thính Trúc và Lương Cẩn Tranh hẹn hò. Đường Tam báo cho A Âm, A Âm làm ngơ.
Thanh minh, một đám bạn tốt đến câu lạc bộ mới xây ở ngoại ô, A Âm và bạn gái nhỏ của Chi Nam đua ngựa, tư thế hiên ngang, mặt mày phơi phới, chẳng hề có vẻ không vui.
Cuối tháng, vở Túi Khóa Lân được trình diễn ở Thượng Hải, là lần cuối cùng đám bạn tốt gặp nhau ở Thượng Hải.
Rốt cuộc anh và những cậu ấm xuất thân thế gia có sự khác biệt. Anh bò từ trong đống xác chết ở tầng lớp thấp nhất ra, nỗi đau do chiến tranh mang đến khắc sâu vào tận xương tủy, anh có lòng cứu quốc. A Âm đã từng khuyên anh nhưng anh không đi. Giống như lúc trước ông Hàn nhờ cậy anh ở lại Thượng Hải, anh đã đồng ý thì sẽ thực hiện suốt đời.
“Lần thứ hai ăn cơm với Lương Cẩn Tranh, là do cô ta chủ động mời. Đã một lần mà A Âm không để ý, tôi thấy không thú vị nữa nhưng cô ta cầu xin rất thành khẩn, có lẽ về phương diện tình cảm trong lòng tôi vẫn bị một tia tự ti quấy phá, cuối cùng tôi vẫn đi.”
“Quán café Kasalling, sau khi nói không đầu không đuôi với cô ta vài câu, tôi ra khỏi phòng bao đi xuống lầu thì nhìn thấy A Âm và La Dược nắm tay nhau bên ngoài cửa sổ. Tôi nghĩ thầm, A Âm đúng là quá xấu xa.”
“Tôi cố ý ra vẻ ngang ngược với cô ấy là bởi vì mỗi lần tôi vô thức toát ra vẻ dịu dàng, cô ấy nhìn vào mắt tôi như đang nỗ lực tìm kiếm một bóng hình nào đó. Nói thẳng ra là tôi không muốn thế.”
Sau hôm đó, A Âm lấy chuyện về Bắc Bình uy hiếp, Hàn Thính Trúc và Lương Cẩn Tranh cắt đứt liên lạc hoàn toàn. La Dược đưa cho A Âm một con mèo đen, cô mang về nhà, không đặt tên nhưng chăm sóc nó rất chu đáo.
Cuối năm, hai người đăng ký kết hôn, đăng báo tuyên bố tin vui.
“Năm đầu tiên kết hôn trôi qua rất nhanh. A Âm và tôi vẫn bằng mặt không bằng lòng như cũ. Tôi không chạm đến tình cảm chân thành của cô ấy, cô ấy cũng không muốn nói rõ ngọn ngành với tôi. Hai chúng tôi nảy sinh hiểu lầm, tóm lại sẽ có một ngày chúng tôi hối hận.”
“Giống như con mèo không có tên ấy, dáng vẻ của cô ấy như muốn nói mình chỉ là một vị khách qua đường ở Thượng Hải. Đến, đi, quay lại, cuối cùng cũng đi mà thôi. Còn tôi thì đang cố gắng giữ vị khách qua đường này ở lại nhưng múc nước bằng người ngón tay đến cuối cùng cũng chỉ có hai tay trống trơn mà thôi.”
“Tết Nguyên Tiêu tôi tổ chức biểu diễn ở nhà là để dỗ A Âm vui. Lúc tiểu thư nhà họ Tô làm đổ hoa đăng, tôi đã biết lần này xong rồi. Cô ấy không thể thoát khỏi nỗi đau thương ấy, tôi cũng không vào được. Quá nửa năm sau, tôi và A Âm lại hiểu nhầm.”
“Lần đầu tiên A Âm mài mực luyện chữ trong thư phòng của tôi, tôi đã biết. Người đã ngửi quen vị biển và mùi máu tanh rất dị ứng với những văn nhân mẫn cảm. Mở ngăn kéo cách bàn xa nhất có rất nhiều giấy Tuyên, nghiên mực. Một tờ chi chít chữ Quan, một tờ lại chi chít chữ Trừng, tôi không biết nhiều chữ nhưng lại trùng hợp nhận ra hai chữ này. Nối liền rồi đọc, Quan Trừng, là ai?”
“Tính kỹ ra trong cuộc đời này, lần tôi làm A Âm bị tổn thương là lần tận mắt nhìn thấy cô ấy ăn mắt cá, tôi đã vô thức nói ra câu “buồn nôn”, nhưng trong lòng tôi chưa từng căm ghét cô ấy. Quanh người tôi toàn chuyện bẩn thỉu, nếu A Âm làm tôi cũng đón nhận được. Tôi rất nhanh đã tiếp nhận nhưng không ngờ lại làm cô ấy giận khóc lớn. Đây là báo ứng, cô ấy nói “hối hận”, A Âm luôn biết cách khiến tôi đau lòng.”
“Sau khi rời khỏi căn nhà lụp xụp ấy, đã lâu không thấy cô ấy làm mình làm mẩy. Nhớ lại trước kia, điều mà tôi nhớ kỹ nhất, không nằm ngoài bát cháo hoa bung đậu nành, trên mặt cháo có trứng gà. Bát cháo trước tôi nấu cho A Âm nhưng cô ấy không ăn dù chỉ một miếng. Sau này A Âm mềm lòng, lại nấu cho tôi ở nhà lớn, tôi ăn hết sạch, lòng bỗng cảm thấy bình yên. Khi ấy tôi nghĩ, nếu có một ngày nghe được những lời thổ lộ tâm tình của A Âm tôi sẽ nói với cô ấy nên bỏ thêm chút muối, thật sự là nó không có vị gì. Chẳng trách Đường Tam ăn một lần thì không muốn ăn lại nữa.”
“Lòng tôi tôi tự biết, tôi không phải người nặng tình nặng nghĩa. Ngoài mấy người thân thiết thì thậm chí tôi có thể xem là người bạc tình bạc nghĩa. Tô Tiểu Mạn năn nỉ gào thét, Tô Tiểu Mạn chết, tôi cũng không hề dao động. Khi đó mới giật mình nhận ra, hóa ra thế gian có trăm hoa khoe sắc, nhưng có A Âm rồi tôi không có lòng thưởng thức nữa.”
“Lấy được Vĩnh Trừng, thật sự là chuyện không mấy trong sạch, cũng có thể nói đây là chuyện đã nằm trong dự định. Đối với tình cảm, tôi thực sự mâu thuẫn, không có một ngày nhẹ nhõm. Nhưng cả đời tôi chưa từng nhẹ nhõm, nghĩ như thế thì dễ chịu hơn.”
“Sau hôm A Âm khóc, tôi cảm thấy quãng thời gian này trôi qua thoải mái hơn nhiều. Không ngờ đây cũng là quãng thời gian vui vẻ nhất trong đời, còn mùa đông ấy…. lại là mùa đông cuối cùng. Tôi không thể qua được mùa đông này, hoặc có thể nói tôi đi quá nhanh, bỏ lại A Âm, tôi thực sự đáng chết.”
“Em không muốn nghe anh nói yêu em, anh chỉ có thể lén nói lúc em ngủ. Chỉ có một lần ấy. A Âm, anh quá mạnh mẽ, anh không muốn nới nhiều lời ủy mị của phụ nữ nhưng đêm dài ôm em vào lòng, ánh trăng không thể chiếu rọi vào căn phòng đen như mực, anh không thể tìm ra một lý do, vì sao lòng anh lại mềm mại đến thế. Em luôn cho rằng anh có rất nhiều phụ nữ nhưng không phải như vậy. Từ đầu đến cuối trong lòng anh chỉ có em, đáng tiếc là em không nghe thấy.”
“Có rất nhiều chuyện mà A Âm không biết, mèo đen thích quấn lấy tôi, có lẽ là nó cảm thấy tôi là đồng loại của nó, hoặc có lẽ là bởi vì tôi thường xuyên vuốt ve nó. Hóa ra yêu ai yêu cả đường đi là thế này, kiến giải về thành ngữ của tôi toàn liên quan đến A Âm, đúng là rất thú vị.”
“Đúng là tôi rất thích Túi Khóa Lân, không ai có thể chống cự lại câu chuyện đoàn viên, tôi cũng không thể. Mộng Xuân Khuê quá buồn, tôi không muốn nghe những thứ tình cảm sâu đậm đó. Đó cũng chỉ là một ngày đông bình thường, chuyện duy nhất không bình thường là tôi mặc áo trắng, thoạt trông cũng ra dáng thiếu niên, tôi hơi căng thẳng, cũng thuận tiện chắn cho cô ấy một phát súng.”
“A Âm, trong lòng anh có ngàn lời muốn nói nhưng không có cách nói rõ từng chuyện với em. Dùng hết chút sức lực cuối cùng xuống lầu ngồi lên xe với em cũng là mơ tưởng hão huyền. Sau khi ngã xuống đất, tôi rất bình tĩnh, thoải mái chịu chết. Tôi đã từng rất sợ chết, nhưng lúc ấy vì em, tôi không hề sợ hãi.”
Hồi cuối:
Đêm trước khi A Âm rời khỏi Thượng Hải, cô đã ngồi ở thư phòng thức trắng đêm. Nhìn lại mười năm tình cảm với Hàn Thính Trúc, cô không kìm chế được rơi nước mắt, tim đau như bị dao cắt. Nghĩ đến con dao cạo ở ngăn kéo ở dưới cùng, cô lau nước mắt xoay người cầm lấy, lần này cô thấy rất rõ, bên dưới có một bức thư không đề tên người gửi và nhận.
Cô cẩn thận mở ra, trong đó chỉ có một tờ. Đến khi nhìn thấy thấy chữ viết, nước mắt cô tuôn trào. Nét chữ giống hệt nét chữ Khải của cô, chỉ nhìn kỹ mới phát hiện lực bút không đủ, đến biệt thự ba năm, anh ít nhất đã luyện chữ ba năm.
“Gửi vợ của anh: A Âm.
Mười năm qua, anh và em nảy sinh hiểu lầm, rất khó cởi bỏ.
Chẳng biết anh sẽ bỏ mình lúc nào, anh để lại thư này, ngàn lần mong em quý trọng bản thân mình.
Anh đã dốc hết sức tìm người tên Quan Trừng nhưng không có tin tức.
Mong em hãy rời khỏi Thượng Hải tìm kiếm, không cần mệt mỏi vì anh, hãy sống một cuộc đời thoải mái.
Tình cảm mà anh dành cho em quá sâu nặng, trên giấy bút khó mà nói rõ, anh ngừng bút tại đây.
Đừng nhớ.
Thính Trúc viết đầu năm Tân Tị.”
Thơ Đường xếp kín giá sách rơi đầy đất, A Âm ném là sách nhưng thứ cô hận là bản thân mình. Về sau cuộc sống của cô sẽ là “Từ đây không có lòng yêu bóng tối, mặc chàng đứng dưới ánh trăng lầu Tây”, là “Tựa như đêm qua không có sao trời, vì ai nửa đêm đón gió thổi tiêu”.
Bắc Bình, quán cơm Khai Nguyên, Quỷ Sứ và Chướng Nguyệt đi nghe hí về, vừa lên lầu đã ngửi thấy mùi đàn hương quen thuộc. Hai người nhìn nhau, biểu cảm không mấy vui vẻ, mới có một tháng A Âm đã trở về. Trong phòng cô thờ di vật của Trúc Hàn, từng bị Quỷ Sứ châm chọc rằng làm chuyện này quá lâu đâm ra nghiện, nhưng mỗi lần A Âm quay về đều thắp một nén nhang.
Bước qua cửa phòng, không thấy bóng người cũng không thấy bóng quỷ. Phía sau lư hương có thêm một cái hộp thọ, cho thấy đã xảy ra chuyện gì.
“A Âm?”
“A Âm, cô quay về rồi?”
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT