Ngày hôm sau, mặt trời lên cao ba sào thì Thu Sương mới vào nhà chính.

Bởi nghĩ vì gia chủ có thai nên cần ngủ nhiều hơn, nào ngờ mới vào lại thấy nàng đang ngồi.

Tân Lộ vừa hầu nàng uống thuốc bổ vừa dặn dò: “Gia chủ nhớ sau này đi bộ thì phải đi chậm thôi, đừng để mình mệt quá, chớ động đến bào thai…”

Tê Trì đặt chén thuốc xuống, dùng khăn lau môi, tuy gật đầu nhưng bụng dạ thì thở dài.

Căng thẳng như vậy, nếu để các nàng biết mình đã trải qua nguy hiểm ở thành Cổ Diệp thì khéo chết khiếp mất.

Nay nàng đã cẩn thận lắm rồi, vì an thai nên nếu có thể không ra phủ thì sẽ không đi, có chuyện gì cũng chỉ ở trong phủ giải quyết.

Đang nghĩ đến đây thì thấy Thu Sương đi vào, biết nàng đem chuyện tới, nhân đó chuyển đề tài với Tân Lộ: “Chắc là thương đội đem tin tức tới.”

Thu Sương đáp phải: “Gia chủ thật anh minh, chuyện của thương đội cũng đã được xử lý xong, nhóm người về trước mà thành ra được cứu sau do hộ vệ của gia chủ hộ tống, hàng hóa đã giao xong rồi; nhóm đến sau mới vận chuyển súc vật con, tới khi giao cho Hồ tộc thì người hộ tống ở thành Cổ Diệp mới rời đi.”

“Thật hả?” Tê Trì lấy làm bất ngờ.

Thu Sương cười đáp: “Còn không phải ạ, đợt này kéo dài quá lâu, nghe người của thương đội về nói lúc súc vật đến tay các bộ thì đã chẳng còn là con non nữa rồi, được hiệu buôn trong thành Cổ Diệp hộ tống tới, không biết tốn bao nhiêu ngũ cốc thức ăn gia súc, đau lòng tới chết, nhưng trái lại đã tiết kiệm không ít rơm cỏ cho đất Bắc.”

Nàng ta kể sống động đến nỗi cứ như là tận mắt chứng kiến vậy.

Hồi Tê Trì xuất cảnh, các Hồ tộc đã nhận được súc vật ở khắp nơi trong nước do hiệu buôn hình cá đưa tới, còn các hiệu buôn khác thì cung cấp trễ hơn, nhưng vì Hồ tộc thúc giục nên cuối cùng cũng đã lục tục đưa tới. Chỉ có nhóm ở ngoài biên giới là đến trễ nhất, song lại là nhóm mập mạp khỏe mạnh nhất.

Nghe nói đích thân Bộc Cố Kinh đi nhận, ông ấy rất ngạc nhiên, biết có số súc vật này không dễ thì còn cảm thán về lòng nhân nghĩa của hiệu buôn hình cá, lại cảm thán Đại đô hộ bảo vệ mọi chuyện lớn nhỏ ở đất Bắc, thế là dẫn theo người trong bộ tộc bày tỏ lòng trung thành.

Tê Trì nghe vậy thì tủm tỉm, hồi trước giật dây để tên độc nhãn hộ tống thương đội về đất Bắc thay nàng, không ngờ đối phương lại hết lòng như vậy.

Nàng dĩ nhiên không tin tên độc nhãn đó lại bỗng có lương tâm thương nhân, hạng người vậy nàng gặp nhiều rồi, chỉ biết bo bo giữ mình, bên nào có lợi nghiêng về bên ấy, chẳng qua là sợ oai phong của Phục Đình ngày ấy mà thôi, nói thật thì cũng là sợ binh mã của phủ đô hộ An Bắc.

Có điều chuyện này giải quyết tốt thì nàng cũng vui, bèn dặn: “Đem bàn tính với sổ sách tới đây.”

Thu Sương vội lấy đem đến.

Ngày trước Tê Trì đặc biệt ra lệnh giấu đống sổ sách này không để Phục Đình thấy, về sau bị lộ, trước khi đến thành Cổ Diệp nàng cứ thế bày chình ình giữa phòng.

Lúc đó là vì đã mất đi chỗ dựa, nên muốn để Phục Đình nhìn xem gia sản của mình, nhưng đã rời đi lâu như vậy mà chàng cũng chẳng mở ra một lần.

Đến lúc nàng về mới nghe Tân Lộ nói, trong thời gian nàng đi, Phục Đình không mấy khi về phủ, phần lớn thời gian đều ở trong quân, thảo nào.

Thu Sương đặt sổ sách vào tay nàng rồi lại đưa bút tới.

Tê Trì mở ra, cầm bút viết một con số, rạch mấy đường, thong thả tính nợ.

Hồi đầu đã hứa cho tên độc nhãn thù lao gấp đôi, bây giờ còn thanh toán nhiều hơn một khoản, coi như đền ơn hắn đã chăn nuôi dê bò cho các Hồ tộc một thời gian.

Khép sổ lại, nàng căn dặn: “Bảo Giải Cửu sắp xếp người đến thành Cổ Diệp một chuyến, lập thỏa thuận lợi ích chung với tên độc… với chủ nhân hiệu buôn kia.”

Thu Sương nghiêm túc ghi nhớ, chỉ là không hiểu lắm, bèn hỏi: “Sao gia chủ lại sắp xếp như vậy?”

Theo lý mà nói thành Cổ Diệp ngoài biên giới cũng chỉ là mua bán nhỏ, trải qua chuyện này ắt sẽ không dám ngăn chặn thương đội thêm lần nào nữa, thì việc gì cần phải lập thỏa thuận làm gì?

Tê Trì ngồi trên giường, điều chỉnh tư thế, sau khi biết mình có thai nàng đã không còn ốm nghén nhiều nữa, có điều rất dễ mệt, ngồi lâu thì phải dựa.

“Lập thỏa thuận thì thương đội hai bên đều được đảm bảo, hiệu buôn của chúng ta có thể yên tâm đi ngang qua thành Cổ Diệp, mà hiệu buôn của hắn cũng không cần lo bị chúng ta trả thù, có thể vào đất Bắc buôn bán.”

Nàng gác tay lên đệm mềm, nói tiếp: “Bảo người làm cho chu đáo, trong thỏa thuận cũng có thể cho phép những hiệu buôn khác gia nhập, như vậy thì thứ nhất, những hiệu buôn khác ở đất Bắc sẽ yên tâm ra ngoài buôn bán, hiệu buôn vùng khác cũng sẽ tới đây, như vậy có thể thể thúc đẩy quá trình đất Bắc khôi phục, cũng có nhiều lợi cho hiệu buôn chúng ta, huống hồ ta vẫn nên lập thỏa thuận để bình ổn giá cả, bình ổn thị trường, về sau còn lợi hơn nữa.”

Điều đáng ghét nhất trong việc buôn bán chính là phải cạnh tranh nhau, người Đột Quyết lại còn âm thầm quấy rối, cũng phải đề phòng sau này có chuyện rắc rối xay ra.

Nên đa số thương nhân buôn bán đều dĩ hòa vi quý, không phải vạn bất đắc dĩ thì cớ chi phải trở mặt, dù sao cũng không thu về được khoản kếch xù, thế nên lập thỏa thuận, cùng có lợi với bọn họ chính là cách tốt nhất.

Lần trước một mình đến thành Cổ Diệp thì Tê Trì đã có ý nghĩ này rồi, đáng tiếc vừa nói rõ với tên độc nhãn kia thì đã bị hắn khuyên bỏ đi, sau đó gặp nạn liên tục, nên chuyện này đành giao cho người dưới làm.

Có điều đã trải qua chuyện ấy, dù có là người dưới giải quyết thì ắt hẳn tên độc nhãn cũng sẽ không dám qua loa.

Thu Sương đã hiểu, đây là suy nghĩ lâu dài cho đất Bắc, nếu thực sự có thể thành quy định thì từ nay về sau, chuyện thương nghiệp ở đất Bắc sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nhiều.

Chẳng trách phải ra ngoài biên giới một chuyến như thế, nghĩ đến thôi cũng đã thấy sợ rồi, nhưng vì giúp đất Bắc khôi phục mà gia chủ cũng thật tận tâm.

Chỉ nghĩ trong lòng thế thôi, Thu Sương không dám chậm trễ nửa khắc, mau chóng đem giấy mực tới để Tê Trì viết nội dung thỏa thuận, vì sợ nàng mệt nên đặt đồ lên bàn nhỏ, chuyển tới trước mặt nàng.

Tê Trì đã thảo xong trong đầu, ngồi thẳng lưng cầm lấy bút, hạ bút rất nhanh lại lưu loát, chẳng mấy chốc đã viết kín hai trang giấy.

Đang bận rộn thì thấy một người hầu đi tới.

Tân Lộ bèn đi ra hỏi, sau khi quay về thu tay đứng một bên, không dám quấy rầy Tê Trì.

Khóe mắt Tê Trì lướt qua, không dừng bút mà hỏi: “Chuyện gì?”

Tân Lộ lên tiếng: “Đại đô hộ sai người chuyển lời tới, nói công chuyện vẫn chưa xong, hôm nay gia chủ không cần chờ ngài ấy.” Nói tới đây, nàng ta không kiềm được mỉm cười, “Thứ cho nô tỳ lắm mồm, nay Đại đô hộ đúng là ngày càng thân mật với gia chủ.”

Ngày trước nào có để ý đến những chuyện nhỏ nhặt này, lại nghĩ tới Đại đô hộ đã đặc biệt căn dặn nàng ta phải chăm sóc gia chủ thì càng vui thay người.

Tê Trì dừng lại, con ngươi đảo vòng.

Nàng biết lý do vì sao, bởi tối hôm qua có người hầu đến báo.

Lúc gần đi Phục Đình có nói “đợi ta về”, mà khi ấy nàng lại bị hành động kia của chàng làm mất tập trung nên không để tâm.

Không ngờ khoảng nửa canh giờ sau, chàng còn sai người tới báo, nói có chuyện đang bận nên bảo nàng nghỉ ngơi trước.

Chắc là là lo nàng chờ thật.

Không ngờ hôm nay chàng lại sai người tới báo nữa.

“Đúng là bẻm mép.” Nàng tủm tỉm, có lẽ ngay tới bản thân nàng cũng không phát hiện, không nghĩ xem Phục Đình đang bận gì, do vẫn đang viết thỏa thuận nên không thể phân tâm.

Đợi tới lúc viết xong, Thu Sương hong khô mực, đang định đem đi thì Tê Trì lại hỏi: “Trong hiệu buôn còn có chuyện gì nữa không?”

Nàng xuất cảnh đã lâu, dĩ nhiên sẽ hỏi chuyện.

Thu Sương dừng lại, suy nghĩ rồi đáp: “Kể ra thì đúng là có chuyện ạ, gần đây giá dược liệu ở gần biên giới bỗng tăng vọt, gia chủ lập thỏa thuận này cũng thật đúng lúc.”

Tê Trì nghe vậy thì ngước lên: “Dược liệu tăng giá?”

“Vâng ạ.” Thu Sương đáp: “Gia chủ để Giải Cửu quản lý cửa tiệm ở đất Bắc, hôm qua các tiệm ở châu phủ gần biên giới mới báo với hắn chuyện này, hiện tại hiệu buôn của chúng ta vẫn chưa thổi giá.”

Tê Trì hỏi: “Có biết lý do không?”

Thu Sương nhớ lại: “Nói là do quan phủ thu mua số lượng lớn, mà dược liệu khan hiếm nên lúc bán cho bách tính đã tăng giá. Chính vì nguyên nhân đó nên mới đưa tin đến, muốn hỏi xem có thể lấy ít dược liệu ở các cửa hàng khác tới được không, bởi hàng không có đủ để bán.”

Quan phủ ra mặt thu mua?

Lại còn là ở biên giới.

Tê Trì đã hiểu, nghĩ đến Phục Đình bận tới giờ vẫn chưa về, liệu có liên quan đến chuyện này không?

Hễ có thể khiến chàng bận suốt đêm không về thì ắt không phải là chuyện nhỏ.

***

Trong quan thự phủ Hãn Hải thua phủ Đại đô hộ một bậc, gần như có mặt đầy đủ mọi quan viên ở phủ Hãn Hải.

Người nào người nấy đều mặc quan bào chỉnh tề, cung kính đứng đợi ở đại sảnh, còn Đại đô hộ ở trước mặt vẫn mặc bộ thường phục mới thay lúc chiều qua.

Không hề chợp mắt suốt một đêm, nhưng chẳng thấy ai có vẻ mệt mỏi.

Mà dù có mệt cũng không dám biểu hiện ra, bởi lẽ tình hình trước mắt quá đặc thù.

Đã nhiều năm quan thự không tân trang, phòng khách cũng rất mộc mạc, không bày biện nhiều thứ, một cái bàn rộng chừng hai người đặt ở chính giữa, xung quanh bày ghế ngồi, không có đồ trang trí nào khác.

Ở trên bàn là mấy cuộn tấu trình, từng cuộn từng cuộn được mở ra, chúng được các đại châu phủ ở biên giới đưa đến.

Phục Đình nghiêm mặt, chậm rãi đi lại cạnh bàn, một tay cầm một bản tấu trình, tay còn lại chống hông.

Đây là động tác trong vô thức của chàng, nhưng vì động tác này mà không một ai dám lên tiếng, bởi bọn họ biết bên hông chàng là nơi nào –  đó là nơi thường xuyên đeo đao kiếm.

Ai nấy đều thấy rất rõ, tấu trình biên giới đưa tới đã khiến chàng nổi giận.

Cuối cùng, sau mấy bước đi đi lại lại, chàng dừng chân, khép tấu trình trong tay, hỏi: “Có cái nào vừa được đưa tới nữa không?”

Ở gần cửa nhất là trưởng sử phủ Hãn Hải, chính hắn đêm qua đã tới mời Phục Đình, hắn nhìn ra ngoài cửa, cúi đầu đáp: “Chắc là không ạ.”

“Chắc là?” Phục Đình lạnh giọng.

Mọi người cúi đầu thấp hơn, trưởng sử vội đáp: “Không có ạ.”

Phục Đình nhìn lướt qua tấu trình ở trên bàn, sắc mặt càng thêm lạnh lẽo.

Lúc xuất phủ chàng vẫn còn ung dung, nhưng lúc này khi đối mặt với đống tấu trình đây, con tim chàng treo cao, không cách nào ung dung nổi nã.

Trưởng sử phủ Hãn Hải là chức quan giữ chức cố vấn, lúc này các quan viên khác không dám lên tiếng, hắn chỉ đành xung phong, nhìn sắc mặt của Đại đô hộ rồi nhắm mắt thưa: “Bẩm Đại đô hộ, kể ra thì các châu xử lý khá ổn thỏa, vừa có manh mối đã lập tức phong tỏa tin tức, bảo rằng là quan phủ ra mặt thu mua dược liệu trị bệnh, và cũng đã thực hiện theo như căn dặn của Đại đô hộ trước đó.”

Sắc mặt Phục Đình không thấy khá hơn: “Ta không nói bọn họ xử lý không ổn, chỉ hỏi có phải không chỉ mấy châu này bị bệnh đúng không.”

Trưởng sử ôm quyền, khom người cúi lạy: “Các châu ở biên giới cách nhau không xa, thường xuyên trao đổi tin tức, một châu báo lên, nếu các châu khác cũng biết thì tuyệt đối sẽ không dám giấu diếm, thuộc hạ mạn phép đoán đêm qua đã lần lwojt đưa tới hết rồi.”

Ý là những nơi gặp chuyện cũng chỉ có mấy châu đang nằm trên bàn.

“Nói khơi khơi cũng vô ích,” Tuy giọng Phục Đình rất thấp nhưng cũng cực kỳ bình tĩnh: “Ta muốn tin tức xác thật.”

Trưởng sử lật đật nói phải, các quan viên khác cũng vội phụ họa, sau đó chia nhau phái người đi đốc thúc trinh sát và quan dịch.

Đang bận bù đầu thì ngoài cửa có người chạy vào.

Chính là La Tiểu Nghĩa, nửa đêm nhận được tin chạy tới thì hắn vẫn chưa tỉnh rượu, đai lưng xiên xẹo.

Bây giờ mới hoàn toàn tỉnh táo.

Hắn bước vào cửa, trong tay giữ một con chim bồ câu, vừa chạy vừa tháo ống nhỏ trên chân chim bồ câu ra, lúc đến gần Phục Đình thì cũng đã gỡ ống trúc xuống, đưa tới: “Tam ca, A Thuyền báo tin về.”

Cuối cùng bàn tay chống bên hông cũng buông ra, Phục Đình nhanh chóng cầm lấy.

Cuộn trong ống trúc không phải là giấy như bình thường mà là một mảnh vải, có vẻ là xé từ vạt áo ra, bên trên có chữ màu đỏ sẫm, chắc là dùng máu viết ám hiệu, có thể thấy chuyện này cấp bách đến mức nào.

Tào Ngọc Lâm không kịp tìm giấy bút đã vội thả bồ câu đưa tin.

Phục Đình đọc xong thì sầm mặt, kín đáo đưa mảnh vải cho La Tiểu Nghĩa: “Canh chừng toàn biên giới, báo cáo bất cứ lúc nào!”

Còn chưa nói hết câu đã vội đi ra ngoài.

La Tiểu Nghĩa không đuổi theo kịp, mở mảnh vải ra xem.

Ám hiệu là cách đưa tin do Phục Đình tự nghĩ ra sau khi trị quân, vì đề phòng Đột Quyết, chỉ có các cấp tướng quân trở lên hoặc trinh sát được huấn luyện đặc biệt mới có thể hiểu, và đương nhiên La Tiểu Nghĩa cũng hiểu.

Đọc tin xong, hắn tái mặt, đứng tại chỗ hét to: “Vừa nãy ở bên ngoài ta còn nghe có người nói chỉ có mấy châu đó bị bệnh, là kẻ nào nói? Đến U Lăng ở biên giới cũng gặp chuyện này rồi!”

Tin tức Tào Ngọc Lâm gửi về nói, trên đường tắt bọn họ từng đi qua có găp mấy hộ bị bệnh.

Tin tức của nàng được đưa tới trước đô đốc U Lăng một bước.

Trưởng sử lập tức im miệng không dám nói nhiều, nghĩ đến vừa nãy Đại đô hộ quay đầu đi thẳng mà không nói sẽ tính sổ hắn, nghĩ lại mà thấy sợ.

La Tiểu Nghĩa cũng biết vì sao Phục Đình lại gấp gáp như vậy, đoàn bọn họ mới quay về từ chính đường tắt đó, trên đường cò dẫn theo tẩu tẩu, thậm chí dọc đường có lúc ghé ngang lều của một hai Hồ tộc xin nước cho tẩu tẩu uống giải khát.

Ngộ nhỡ trong số đó có người bị bệnh, mà giờ tẩu tẩu lại đang hoài thai…

Nghĩ đến đây, ngay tới hắn cũng lo sốt vó, nếu không phải Phục Đình lệnh hắn theo dõi tin tức thì sợ là cũng đã đi theo.

Chẳng trách Phục Đình bảo hắn canh chừng toàn biên giới, những người được cứu ra từ thành Cổ Diệp đã sớm mỗi người một ngả, tản vào các châu, đến U Lăng cũng đã rời đi.

Mặc dù lúc bọn họ được đô đốc U Lăng tiễn đi là đi đường chính, nhưng để đề phòng thì vẫn nên chú ý.

May là cửa ải ở đất Bắc xưa này dễ vào khó ra, La Tiểu Nghĩa cũng vì thế mà thả lỏng ít nhiều, nếu không, để những người này tùy ý đi vào Trung Nguyên thì mới là gặp rắc rối.

Hắn chẳng nghĩ được nhiều, mau chóng phái người cưỡi ngựa đến các châu hỏi tin.

***

Trong phủ đô hộ lúc này lại là cảnh êm đềm.

Sau giờ ngọ, đại phu đến bắt mạch cho Tê Trì như thông lệ.

Tê Trì có tiền nên chưa bao giờ để mình chịu thiệt, giờ đã có thai, cần dưỡng gì thì dưỡng cái đó, cần bồi bổ gì thì bồi bổ thêm, chỉ cần không phải là mấy thứ Tân Lộ nói không thì đều được dùng.

Mỗi ngày có đại phu đến bắt mạch thăm khám, những dược liệu bồi bổ sử dụng đều là hàng tốt, thực sự có thể so được với các quý nhân mang long thai trong hoàng cung.

Nàng dựa vào giường, để đại phu bắt mạch.

Mọi thứ vẫn bình thường, đại phu báo lại tình hình xong, đang định cáo lui thì Phục Đình bất thình lình từ ngoài cửa đi vào.

Chàng xuất hiện quá đột ngột, bóng người cao lớn bỗng dưng tới gần, đại phu cầm hòm thuốc đang đứng lên thì giật mình.

Tê Trì cũng ngạc nhiên nhìn sang.

Không phải đã cho người đến báo là hôm nay cũng bận ư, sao bỗng nhiên chàng lại về thế này?

Còn chưa kịp hỏi thì Phục Đình quét mắt nhìn đại phu, nói một câu: “Đi ra.” rồi ngoái đầu đi ra.

Tê Trì càng cảm thấy khó hiểu, nhìn đại phu lật đật đi theo chàng ra ngoài.

Ở ngoài cửa, Phục Đình đi tới dưới hành lang, quay người lại, thấp giọng hỏi: “Ông chắc chắn thân thể phu nhân không sao chứ?”

Đại phu vội thưa: “Đã bẩm báo với Đại đô hộ rồi ạ, phu nhân đúng là không sao.”

Phục Đình đứng thẳng, mím môi mấy lần rồi mới mở miệng: “Lui xuống chờ lệnh, nghe gọi thì lập tức đến.”

Không nói rõ là lệnh gì, chàng lại đi vào phòng.

Đại phu vô cùng ngạc nhiên, không rõ nguyên do, bỗng nghe thấy bên ngoài có người hầu hô to: “Nhanh lên, phụng lệnh Đại đô hộ, đóng kín cửa phủ, tất cả mọi người không được ra ngoài!”



Tê Trì cũng nghe thấy động tĩnh ở bên ngoài, vừa nhìn ra cửa thì trùng hợp Phục Đình quay trở lại.

Thấy chàng nàng vốn còn xấu hổ, khó tránh khỏi nghĩ tới hành động càn rỡ của chàng sau khi say, song lúc này đã bị động tĩnh kia làm cho quên đi.

Nàng chẳng buồn động đậy, làm ổ trên giường, nhìn chàng hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Phục Đình dùng tốc độ nhanh nhất từng có để quay về phủ, thậm chí lồng ngực vẫn còn phập phồng lên xuống – là bởi cả chặng đường quất roi phóng ngựa quá nhanh.

Chàng không trả lời ngay mà khép cửa lại trước, đi tới bên bàn cầm ấm trà lên, dốc nước nguội vào miệng rồi đặt xuống, một tay chống trên bàn, mắt nhìn sang, lúc này mới nói: “Đêm qua nhận được cấp báo, mấy châu ở biên giới có bệnh nhân xuất hiện chứng ‘sốt đuổi hoa’.”

Tê Trì chưa bao giờ nghe về sốt đuổi hoa, nhưng liên hệ với chuyện Thu Sương từng nói, càng nhận định hai chuyện ấy có liên quan với nhau.

“Thế nên quan phủ các châu ở biên giới mới ra sức thu mua dược liệu đúng không?”

Phục Đình càng nhìn xoáy vào nàng: “Nàng biết rồi sao?”

“Thiếp chỉ biết dược liệu ở đó đã tăng giá.” Nàng nói thật.

Chàng mím chặt môi thành một đường thẳng, đúng là tin tức buôn bán quá linh thông, cùng một chuyện, nhưng bọn họ lại biết được do đường tắt khác.

Tê Trì lại hỏi: “Đó là bệnh gì vậy, vì sao lại cần quan phủ ra mặt?”

Dân chúng bình thường bị bệnh dĩ nhiên sẽ tự đi khám, cần quan phủ ra mặt thì chứng tỏ bệnh này không bình thường.

Phục Đình nhìn nàng, năm ngón tay nắm mép bàn càng bấu chặt, đứng thẳng dậy bảo: “Không phải bệnh thông thường, quan phủ phải đề phòng.”

Hèn gì chàng bận tới giờ này.

Tê Trì đã hơi hiểu ra, nhưng cần quan phủ đề phòng tức là bệnh nguy cấp, nàng bèn nhỏ giọng nói: “Xem ra là sẽ lây lan rồi.”

Phục Đình sầm mặt, không nói gì thêm.

Nói đến đây, lại nhớ tới động tĩnh vừa nghe thấy, nàng lại hiểu ra gì đó, chuyện ở biên giới vẫn chưa nhanh tới mức lan vào phủ Hãn Hải như thế, vậy mà bây giờ lại đột nhiên đóng phủ, tức không phải là đề phòng bên ngoài lây vào, mà là đề phòng trong phủ lây ra.

Nàng ngạc nhiên nói: “Không lẽ ngay trên đường chúng ta trở về cũng đã xuất hiện bệnh này?”

Hầu kết Phục Đình di chuyển: “Ừ.”

Tê Trì chớp mắt, sau đó lại thở phào: “Cũng may ngày nào đến khám đại phu cũng nói không sao, không thì thiếp cũng lo là mình bị lây mất.”

Nàng vừa nói vừa cười, cầm trà cụ sao trà.

Thực ra vốn định xem sổ sách, nhưng chàng đang ở ngay trước mặt, nàng cũng ngại không dám xem trước mặt chàng, nên chỉ có thể táy máy mấy việc này.

Phục Đình nhìn nàng, hôm nay nàng mặc váy cao siết ngực, phần hông rộng rãi, váy màu xanh nhạt làm tôn lên gương mặt trong sáng của nàng, đôi mắt cụp xuống, khóe miệng cong cong, tựa như thời tiết trong lành ở ngoài kia.

Chàng nhìn mấy lần, vẫn không lên tiếng tức là đã ngầm thừa nhận.

Thực ra bệnh sốt đuổi hoa không phải nói bùng phát là sẽ bùng ngay, dù có bị nhiễm thì chí ít cũng ủ trong người đến gần nửa tháng.

Trên đường về phủ chàng đã nhẩm tính, ngoại trừ lúc nàng bị bắt vào thành Cổ Diệp rồi lại mạo hiểm tiếp một phen, thì tính từ lúc ở U Lăng đi đường tắt về, đến bây giờ cũng đã xấp xỉ gần nửa tháng.

Có thể không phải hôm nay thì sẽ là ngày mai.

Nên Tào Ngọc Lâm mới gấp gáp đưa tin như thế, thời gian quá trùng hợp, chỉ trong nửa khắc buổi tối thì đều có thể xảy ra biến số.

Những những điều này… Chàng nhìn gương mặt bình yên của nàng, mọi lời tắc ở cổ họng, không nói cho nàng biết.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play