Tôi nhận lấy lá thư Ode đưa cho mình, cẩn thận cất nó vào trong ngực, không hề mở ra. Tôi và Ode tìm những học sinh còn lại, thảo luận với họ cùng đi tường thành mặt phía nam. Lần khảo sát này giáo Ryan chỉ dẫn theo hai trợ thủ: Ode cùng người ghi chép trước đó, còn lại đều là học sinh năm năm. Tôi và làm Ode một mạch chừng mười con chim giấy, phân phát cho những Ma pháp sĩ kia.
Lính đồn trú phần lớn đã dời đến thành nam. Nhìn kích thước của phương trận dưới thành, quân đội bị vây khốn bên ngoài có khoảng ba nghìn người. Tỉ lệ có ma lực trong số chúng có vẻ không nhiều, đều phân bố phòng thủ ở cánh bên, thiểu số đi theo đại bộ đội xung phong. Cứ khoảng mười tên đứng trên một chiếc chiến xa làm bằng gỗ, nửa người trên lộ ở bên ngoài. Những chiếc chiến xa đó hình như được chế tạo thô sơ, nhưng công năng khác biệt, có thể đụng cửa, bám tường, hoặc là làm công sự.
Đoàn trưởng binh đoàn đồn trú ở ngay một bên lầu cổng thành, đang gào thét chỉ huy các binh sĩ tiến hành phòng ngự, hối hả ngược xuôi để đối phó. Sau khi ông ta hay tin giáo sư Ryan qua đời từ chỗ tôi liền lộ vẻ mặt bi thương, phái trợ thủ thay thế mình một lúc.
“Nói thật, trước đây tôi có chút thành kiến với Ma pháp sĩ các cậu,” ông ta nói, “Tôi cho rằng người biết ma pháp đều cảm thấy mạng của binh lính bình thường rẻ mạt—— chẳng ngờ vị thầy giáo đó lại chịu áp trận thay chúng tôi”.
“Tình huống lồng phòng ngự sao rồi?” Tôi hỏi.
Ông ấy ngẩn người: “Lồng phòng ngự nhiều nhất còn có thể chịu được năm lần tiến công của chúng, không tu bổ được, chỉ có đội ngũ đặc biệt mới biết nguyên lý. Chờ đến khi lồng phòng ngự vỡ, quân địch có thể bay tới từ trên không trung ——chỉ cần chúng có thể. Tường thành có thể duy trì lâu hơn”.
“Hội ma pháp vẫn chưa hồi âm?”
“Tới tận giờ vẫn chưa có, không biết đã xảy ra chuyện gì”. Ông ta lau bụi bặm trên mặt, “Cũng đã gửi tin cho thành lân cận, có điều bọn họ không qua đây dễ vậy đâu”.
“Ông có từng nghĩ, nếu ngày mai người của Hội ma pháp vẫn không tới đây không?”
“Tôi cũng không biết phải làm sao bây giờ——dù thế nào cũng sẽ không bỏ thành!”
“Tôi không nói cái này,” tôi lắc đầu nói, “Các ông có nghĩ đến việc chủ động ra trận lần nữa không?”
“Canh giữ trong thành là quyết định sáng suốt, chúng ta phòng thủ mới có thể chống cự đến phút cuối”. Mặt ông ta đỏ lên, “Sau trận chiến hôm qua chúng ta chỉ còn lại chưa đầy nghìn người”.
“Nhưng ông vừa bảo là không có phương án dự bị”
“Tôi nghĩ việc quân cơ không cần một người ngoài nhúng tay”. Ông ta bực bội nói, “Chàng trai trẻ, cậu chỉ cần làm theo sắp xếp của chúng tôi là được rồi”.
“Không, trưởng quan, tôi cũng đâu có nói ông không đủ tận trách”. Tôi ôn hòa nói với ông ta, “Tôi có một đề nghị nho nhỏ——đồng ý hay không tất cả là do ông”.
Tôi nói kế hoạch kia cho ông ta nghe. Lúc đầu ông ta nghi ngờ, sau khi nghe xong thì bàn bạc với tôi vài chi tiết trong kế hoạch. Ông ta giúp tôi truyền đạt cho một người lính, bảo người trong thành thu thập cỏ khô và nhiên liệu dạng lỏng nhiều hết sức có thể.
“Nửa trước kế hoạch không tệ,” ông ta nói, “Phần sau không thiết thực”.
“Đúng là rất khó, nhưng khả thi”. Tôi nói, “Tôi cần những điều dưới đây: vị trí của quan chỉ huy quân địch, một nhóm chiến mã không sợ lửa và tiếng ồn, một nhóm binh sĩ được huấn luyện nghiêm chỉnh, hướng gió tốt. Tôi cho rằng chúng không có nhân vật cấp bậc Đại ma đạo sư, thế nên lúc đầu không cân nhắc điểm này”.
“Quan chỉ huy là cái kẻ mang quân hàm màu vàng, ngực đeo một đống huân chương. Phân công của chúng đúng là không thỏa đáng——tốc độ tiếp thu mệnh lệnh chậm, tôi có thể nhìn ra mỗi lần điều động đều khởi xướng từ chỗ đấy. Chiến mã trong thành chỉ có hai trăm con, nhưng xuất sắc như lính của tôi”. Ông ta nói, “Những thứ này đều là người thật việc thật. Cậu không nghe ra hả nhóc? Trọng điểm của tôi là chỉ cậu”.
“Có vấn đề gì không?”
“Tôi sẽ không để cậu mang lính của tôi đi chịu chết ——năng lực của cậu còn chưa tới mức đó”. Ông ta nhướn lông mày, “Nói trắng ra, cậu còn kém xa Đại ma đạo sư, người trẻ tuổi đi ra từ học viện ạ. Loại Ma pháp sĩ lai lịch này vốn không thích hợp đánh trận, chỉ có thêm phiền! Cậu thấy thi thể khắp nơi có run rẩy toàn thân không? Lúc lưỡi đao của kẻ địch áp sát trước mặt tay chân cậu có như nhũn cả ra không? Cảm giác chém đứt một người sao có thể giống như trên sách viết được. Cậu đã từng giết người chưa?”
Tôi ngó ra sau, Ode đang nói chuyện với những học sinh kia.
“Tôi từng giết rồi”. Tôi nói với binh đoàn trưởng.
Ông ta hơi trợn to hai mắt, ánh mắt suy tính đột nhiên chuyển sang tay tôi.
“Tôi là Ma pháp sĩ, nhưng cũng sử dụng đao, đồng thời chẳng kém hơn bất cứ một ai ở đây. Tôi đã đậu cuộc thi dự bị của Quân tiên phong”. Tôi nói, “Tôi không thể đảm bảo mỗi một người họ đều bình an vô sự——cái tôi cần chính là một nhóm những người không sợ chết. Tôi nắm chắc phần sau của kế hoạch, đối phương truyền lệnh quá chậm, hành động cứng nhắc, nhìn không giống quân chính quy——giống như là lính mới thiếu rèn luyện và phối hợp”.
“Cậu cũng là lính mới”. Ông ta ngừng một chút, nói.
“Tôi sẽ không lùi bước trước bất cứ ai trong số họ”. Tôi nói.
Gương mặt ông ta hiện ra sự đấu tranh trong khoảng thời gian ngắn ngủi, lập tức nói rằng: “Để tôi suy nghĩ thêm đã”.
Tôi nghe câu này của ông ta, biết cái kế hoạch này của mình cách việc hoàn thành cũng không xa.
Vào lúc này Ode đi tới. Tôi hỏi: “Sao rồi?”
“Quyết định rồi,” Ode nói, “Mười hai người cũng có thể hoàn thành một phần của ma pháp trận”.
Binh đoàn trưởng chưa trở lại vị trí cũ chỉ huy, biểu hiện thoạt trông hơi nghi ngờ. Tôi nói với ông ta: “Chúng tôi không phải đội xây dựng ban đầu, trong thời gian ngắn không phân tích được cách tu bổ lồng phòng ngự. Nhưng hiện tại chúng tôi có một món quà cho các ông——vất vả rồi”.
Tôi cùng Ode thảo luận về trận pháp phòng ngự hai đứa từng nghiên cứu năm đó. Bởi vì diện tích lớn quá mức phức tạp, tính thực tiễn kém mà nó tạm thời bị bỏ xó, lại dựa vào một lối suy nghĩ mới “hiệp lực cấu trận” được chúng tôi nhặt lên lần nữa, vào năm năm rốt cuộc phát biểu thành công luận văn liên quan, nhận được chút thừa nhận.
Ode vẽ mô hình pháp trận phòng ngự ngay tại chỗ, có người tìm được cho bọn tôi một bản đồ chi tiết của thành Boehmeria. Tính toán số lượng đồ văn lúc đầu do Ode làm trước, để tôi thử lại phép tính lần hai.
Trận pháp dần dần được chia nhỏ để có thể tạo điều kiện cho mười hai người hợp tác, những học sinh kia ở một bên nhìn chằm chằm không chớp mắt, cuối cùng chỉ còn lại công tác tính toán địa điểm hạ trận. Ode giành giật từng giây tính tọa độ ba chiều, điểm ban đầu của tọa độ đặt ở chỗ chúng tôi đứng, do tôi dựa vào hiểu biết về bản vẽ để đối chiếu địa điểm cụ thể.
“(25, 474, 12)”
“Đến đỉnh gác chuông”
“(-218, 290, 1)”
“Bậc thang…một của phòng triển lãm lịch sử Yizi?”
“(55, 1044, 4)”
“Đỉnh đài phun nước Joel”
“(1020, 244, 0)”
“Cổng chợ Feite”
Thỉnh thoảng tôi có hỏi mấy người sinh sống ở đây nhiều năm, để bảo đảm địa điểm tôi dịch ra không có sai sót. Sau khi một bút cuối cùng hạ xuống, từng mảng từng mảng hình vẽ trận pháp được giao vào tay học sinh phụ trách chúng. Mười hai con chim giấy đập cánh cùng lúc, bay tới mười hai hướng.
Pháp trận phòng ngự được dựng xong trước khi trời tối. Tuy rằng vẫn còn hơi non nớt thiếu sót, không đạt tới hiệu quả như lý tưởng, nhưng đủ để gia cố lồng phòng ngự, cho phép chống đỡ đợt tấn công đến sáng ngày mai. Quân đồn trú thủ thành thắp đèn, nhưng cố tạo ra thanh thế ngoan cố chống địch, thực tế hơn nửa đều nghỉ ngơi lấy sức. Đêm đó chúng tôi chỉ nghênh đón tổng cộng một đợt tiến công, kẻ công thành cũng dần dần lộ vẻ mệt mỏi.
Chúng tôi luân phiên chờ đợi thời khắc kia tới: năm giờ rạng sáng, ánh mặt trời đầu tiên.
Lúc bốn giờ bốn mươi, tôi xuống dưới lầu cổng thành, phía sau tôi là 206 binh lính thần hoàn khí túc (1). Binh đoàn trưởng cũng có mặt, ông ta đang thực hiện bài phát biểu cuối cùng với nhóm binh sĩ này của mình.
“Mỗi người các cậu đều không sợ chết, mỗi người đều là binh sĩ đủ tư cách! Nhưng mà đừng nghĩ là mình đi chịu chết, nắm chặt tư tưởng tất thắng kia của các cậu. Sau lưng chính là quê hương các cậu sinh sống nhiều năm, không tới lượt kẻ khác giày xéo! Và tên nhóc đằng trước kia, cậu ta sẽ không chết trước các cậu…”
“Cậu không lên nói vài câu à?” Ode ở cạnh tôi nói.
“Tớ không quan tâm những việc đó”. Tôi nói, nắm chặt Caron trên tay, “Tớ chỉ phụ trách giết”.
“Có người nói tâm lý trước đại chiến này có thể tiêu cực có thể tích cực”. Ode nói, “Cá nhân tớ kiến nghị là đừng mang theo qua nhiều cảm xúc”.
“Khó lắm,” tôi nói, “Sau sáng ngày hôm ấy. Có điều đầu óc tớ cực kỳ tỉnh táo”.
Cậu ấy thở dài.
“Đáng tiếc chim giấy không có năng lực phòng ngự,” tôi nói, “Nếu không tớ mà lao xuống, bọn chúng chắc chắn sẽ hoảng hốt——giống như Vũ trấn khi ấy”.
“Lúc đó rõ ràng họ vẫn tiếp tục đánh cậu”. Ode phản bác.
“Đúng thế,” tôi nói, “Hy vọng chúng ta có thể giành được chiến thắng như lần đó”.
Bàn tay Ode đặt trên vai tôi, sau đó vỗ mạnh một cái.
“Đi thôi,” cậu ấy nhìn ra xa nói, “Tớ cũng phải trở về cổng lầu đây. Nếu cậu xảy ra sơ suất gì, hãy nhớ là có tớ ở phía sau cậu——tớ sẽ sửa giúp cậu”.
Tôi cảm thấy lời này của cậu ấy cực kỳ quen tai, không khỏi nở nụ cười.
“Cậu nhất định không chờ được đâu”. Tôi đi về phía một hàng kỵ binh ở cửa thành, quay đầu nói với cậu ấy như năm đó, “Tớ sẽ không phạm sai lầm”.
Đoàn người chúng tôi xoay người lên ngựa, im lặng chờ đợi trong bóng tối, những con ngựa thở nhẹ nhàng. Một cuộc bạo loạn xảy ra ngoài thành ngay sau đó: tiếng lửa bốc cháy xì xèo, tiếng người la hét hòa làm một thể với ánh đỏ phản chiếu phía chân trời. Tôi có thể tưởng tượng được điều gì đang diễn ra ——từng bó củi được ném từ tường thành xuống, nhiên liệu trong suốt được giội vào những chiếc chiến xa, mấy chục quả cầu lửa thoát khỏi tay những Ma pháp sĩ trẻ tuổi, chính giữa phương trận công thành đang trải qua một cuộc hỗn loạn trước nay chưa từng có, thiêu đốt thành một nhúm.
Cửa thành phía nam vào giờ phút này đang được kéo lên chầm chậm. Tôi huýt sáo một cái, hai chân kẹp vào bụng ngựa, xông ra ngoài đầu tiên.
Tiếng vó ngựa liên tục vang lên phía sau tôi, trở ngại trên con đường phía trước của chúng tôi đã bị Ma pháp sĩ trên thành lầu phá hủy trong giây lát. Ma pháp sĩ của quân xâm lược cánh sườn vẫn đang vùng vẫy hướng vào trong ánh lửa, nhưng sự công kích của chúng tạm thời không thể nào cản được mũi tiến của chúng tôi. Từng chùm từng chùm sáng trắng đánh vào phía trước tôi, là tín hiệu mà tôi và Ode đã quy định, chỉ dẫn phương hướng của tôi. Nếu như có quân địch may mắn không bị ảnh hưởng bởi ngọn lửa trước đó, vung lưỡi đao chặn trước ngựa của tôi, tôi sẽ dùng Caron của mình chém hai đao cực nhanh.
Binh lính phía sau tôi cũng đang chém giết. Đây là một lần tấn công không cần quá nhiều trù tính chi tiết——tất cả mọi người đều tự bảo vệ mình, cố gắng giết nhiều kẻ địch hơn.
Động tác chém ngang, đâm xuyên này dường như đã trở thành một thói quen. Tôi cưỡi ngựa đón nhận từng sát ý sắc bén, lại quen thuộc phản kích, mang theo nhiệt độ của máu và thù hận, tràn đầy phẫn nộ dữ dội. Có thể trì hoãn bước chân tôi chỉ có ngọn lửa, nhưng cũng không lâu. Tôi há to miệng hít thở ở nơi thế lửa suy yếu. Có kẻ toàn thân là lửa vẫn cứ chán sống nhào tới chỗ tôi, hòng kéo tôi xuống ngựa——Tôi thậm chí không cần hạ đao quá nặng, đã có thể dùng móng ngựa bước qua di thể cháy đen của gã. Phía sau lưng cũng có người tụ tới đánh lén, những chiến hữu tôi chưa từng biết rõ kia san sẻ một phần thay tôi.
Tôi không quay đầu lại, nhưng tôi biết đội hình kỵ binh phía sau mình vẫn còn ở đó. Ngựa của tôi phóng qua chiến xa hỏng hóc, xác chết vô tận, đạp qua dòng máu bị lửa thiêu cạn khô, hí lên một tiếng.
Ánh sáng trắng trên thành lầu đã trở nên thưa thớt, chỉ dẫn lúc liền lúc đứt, nhưng trong tầm mắt của tôi đã xuất hiện tên quan chỉ huy kia. Tôi ghìm dây cương, nắm chặt trường đao, toàn thân gần như sắp rời khỏi lưng ngựa. Những Ma pháp sĩ cứu viện kia chậm chạp chạy tới, có vài tiếng rít gào nhỏ phá không hướng về phía tôi. Tôi bổ nứt hai chùm sáng ma pháp, chùm thứ ba xẹt qua phía sau lưng tôi, vạch ra một miệng máu xiên ngang.
Tôi vẫn đang chạy vọt về phía trước tập kích, càng lúc càng gần quan chỉ huy kia hơn.
Tôi từng nói với những binh lính chưa quen thuộc với ma pháp kia, nếu như gặp phải nơi có Ma pháp sĩ đông đúc, thì tạm tránh mũi nhọn, thay vào đó đối kháng với lính thường, hoặc là nghĩ cách đi vòng, lẳng lẽ tiếp cận Ma pháp sĩ. Thế nên chỗ này hiện giờ đại khái chỉ còn lại mình tôi còn đang tấn công, nhờ họ tiếp ứng. Ngay đó không xa——gương mặt tên quan chỉ huy đã xuất hiện——phòng hộ trên chiến xa của gã đã bị đòn tấn công trên thành phá hủy phần lớn. Gã không khởi động được chiến xa, từ bỏ chạy trốn, hai tay giấu bên dưới, đổ mồ hôi nhìn tôi chằm chằm.
“Nếu gã là một Ma pháp sĩ,” tôi nghĩ, “Mình phải giết gã trước, hoặc là phải né một đòn gã chuẩn bị”.
Nhưng mà cái mưu đồ phản kích đã lâu kia lại sớm hơn tôi tưởng. Tôi chỉ kịp nhảy xuống ngựa nhào về phía gã, ma pháp trong tay gã đã cùng lúc bắn tới ngực tôi. Tôi nhận ra đó là phù văn diễn sinh (2) của “bùa chú xuyên thể”, sẽ tự tìm kiếm trái tim của mục tiêu và làm nổ nó. Tôi quá gần nó, không kịp đọc bất cứ thần chú gì để phá hủy, lùi lại lăn xuống dưới một chiếc chiến xa.
Tôi nằm sấp, ngay lập tức nhận ra hành động này không giải quyết được vấn đề gì——ma pháp đó vẫn cứ đuổi tới, phòng ngự của chiến xa không chống đỡ được bao nhiêu. Cũng có thể né tim, nhưng sẽ bị nổ mà trọng thương. Trên chiến trường này, trọng thương chẳng kém chết là bao.
Tôi chỉ nghe được một tiếng nổ vang giữa không trung, nhưng không chờ được đợt tấn công của nó. Mấy giây đầu tôi còn tưởng đây là mánh khóe của tên quan chỉ huy kia, sau mới nhớ ra khi phù văn này rời tay sẽ không chịu sự khống chế của người khởi xướng nữa, thế là nhảy ra.
Trước mắt tôi chỉ có bóng dáng của những kẻ vây công kia, chùm sáng ma pháp đến từ lầu cổng thành lại xuất hiện lần nữa, bởi vì quá xa nên không thể hiện được tác dụng gì, chỉ ở bên cạnh tôi chăm chỉ không ngừng quấy nhiễu chúng.
Luồng ma pháp kia bị nổ, giờ không thấy nữa.
Tôi vung đao đẩy hai kẻ công kích ra, chém rớt một kẻ cố gắng leo lên ngựa của mình. Con ngựa kia hình như cũng có linh tính, khi tôi sửa sang lông bờm phía sau của nó thì không đá móng trước nữa, mang tôi đuổi theo tên sĩ quan chỉ huy chạy trốn. Tôi chỉ dùng thời gian ngắn đã đuổi kịp gã. Gã xoay gáy về phía tôi, dưới chân vẫn chạy, giống như muốn giơ tay lên, rồi lại không thể đọc được bất kỳ thần chú gì. Tôi dùng một đao gọn gàng chém đầu gã, một tay túm tóc.
Những chiếc huân chương leng keng gã mang theo trên người ụp xuống đất, máu tươi chảy xuống từ phần cắt. Tôi giơ đầu gã lên cao.
“Sĩ quan chỉ huy của các ngươi đã chết!” Tôi ở trên ngựa hô, “Các ngươi cũng muốn giống gã sao?”
Tôi dùng sức ném cái đầu kia vào trong đám người, dẫn đến một trận hỗn loạn. Những kẻ vây công không hẹn mà ngừng động tác, từng tên đều đang xem chừng tôi, không ai nguyện làm kẻ đầu tiên động thủ. Tôi dứt khoát chọn một hướng xông thẳng, đao trong tay một lần nữa vung lên xuống.
Theo ước định, lúc này thủ quân coi giữ còn lại hẳn phải được binh đoàn trưởng dẫn dắt huy động toàn bộ lực lượng, càn quét chiến trường đã rối loạn trật tự này, cuối cùng hội hợp giúp đỡ nhóm xung phong chúng tôi. Tiếng la xuất hiện từ phía thành Boehmeria, tầm mắt tôi dần dần nhìn thấy bóng dáng chiến sĩ của mình chiến đấu. Có lẽ là bởi ban nãy hoàn thành mục tiêu, tôi xung phong liều chết càng không có trình tự. Tôi dựa vào thế xông lên của ngựa để né tránh, cũng bởi vậy mất đi chút linh hoạt, càng thêm nhiều vết thương.
Nhưng trong lòng tôi chỉ có một suy nghĩ: tôi muốn cho chúng cũng nếm thử máu của chính chúng. Chỉ cần vết thương không nguy hiểm đến tính mạng, tôi vẫn có thể chiến đấu tiếp.
Đám lửa dưới tình huống tiêu hao hết nhiên liệu đã tắt hơn nửa, nhưng tôi lại có cảm giác toàn thân đang thiêu đốt. Tôi thật sự nóng lên, nhiệt độ ấy lan ra từ tim tôi, ngay cả mệt mỏi và đau đớn cũng trở nên nhỏ bé không đáng kể. Kẻ địch trước mặt tôi từng tên ngã xuống, sau đó càng lúc càng ít, thậm chí còn chủ động chạy trốn. Chúng dùng ánh mắt sợ hãi như thấy ác quỷ nhìn tôi, giống như đang cầu xin rút chân thoát khỏi địa ngục đẫm máu.
“Địa ngục trong mắt các ngươi,” tôi nghĩ thầm, “Có giống địa ngục ở thành bắc không?”
Lúc tư duy của tôi hơi thoát cương, tôi đúng lúc kìm nó lại. Tôi nhận ra rằng, cảm giác nóng rực kia là điềm báo “khớp” trong người tôi muốn bùng phát——nhưng tôi quyết không thể để nó xảy ra vào lúc này. Ma lực nó phóng thích không phân địch ta, huống chi cho dù tôi có thể may mắn tránh được lần bạo phát thứ ba này, chắc tôi cũng chẳng thể động đậy.
Tôi áp chế những tên địch chạy trốn, cũng cật lực áp chế cái “khớp” trong người mình, lần đầu tiên không thuận theo ý nó. Triều dương màu máu rút đi, những tàn binh quăng vũ khí, phát tín hiệu đầu hàng. Những kỵ binh vốn ở bên cạnh tôi lại trở về một chỗ. Tôi muốn nhìn lên thành, lại liếc thấy bụi mù cuồn cuộn tới từ phía xa. Chuyện kế tiếp cũng mơ mơ hồ hồ: một đội binh mã có vẻ là viện quân đến muộn của chúng tôi. Bọn họ giúp chúng tôi áp giải tù binh, tôi chống đỡ cơ thể trở về thành, sau đó ngã xuống trong ánh mắt sầu lo của Ode.
Tướng lĩnh của đội viện binh kia để râu mép ngắn, giọng sang sảng, cũng đi lên trên thành lầu. Hình như ông ta chia ra trò chuyện gì đó với binh đoàn trưởng và Ode, sau đó đi tới bên cạnh tôi.
“Cậu tên là gì?” Ông ta hỏi.
Tôi vẫn còn chút tỉnh táo, cho rằng Hội ma pháp vẫn mang khúc mắc trong lòng với mình, thế nên tôi không nói ra họ tên trước mặt vị quan lớn này.
“Shaw Carl”. Tôi đáp.
“Tốt lắm,” vị tướng lĩnh đó nói, “Ta còn thiếu một trợ thủ, cậu có đồng ý lấp vào chỗ trống này không?”
“Đồng ý,” tôi nói, “Nhưng tôi không tốt nghiệp học viện quân sự”.
“Thời chiến không có nhiều giáo điều cứng nhắc như vậy,” ông ta nói, “Ta sẽ gửi thư tay cho cậu, cậu có thể nghỉ ngơi tĩnh dưỡng ba ngày trước, sau đó gửi thư tới phía đông thành Erdi——chúng ta đang đi qua đó. Ta là sĩ quan chỉ huy Putte Peterson của Quân đoàn thứ chín Quân tiên phong”.
Lúc tôi mở mắt ra lần nữa thì đã qua giữa trưa. Tôi và Ode qua đêm trên thành lầu, những học sinh khác hình như đã bị đuổi về Hoftas, cái người ghi chép kia đi tìm phân bộ Hội ma pháp trước. Trong thành Boehmeria mặc dù không bị chiến hỏa tập kích, nhưng muốn khôi phục sự phồn vinh trước đây chắc còn phải mất vài ngày nữa. Binh đoàn trưởng cảm ơn chúng tôi, lại tìm cho chúng tôi một quán trọ để nghỉ chân. Tôi nhân cơ hội này thẳng thắn với Ode tất cả những gì mình đã trải qua trong vòng một năm này, bao gồm cả hồn đao, nhà tù Phổ quốc, sự giam lỏng của Hội ma pháp, chỉ tránh nội dung chuỗi mật mã, cũng đề cập với cậu ấy quan hệ của tôi và Carayon đã được xác lập. Trông cậu ấy không có vẻ ngạc nhiên vì việc sau, mà là lo cho tôi vì thân phận của Carayon.
“Cậu đã hạ quyết tâm muốn tòng quân rồi à?” Cậu ấy hỏi tôi.
“Dù ban đầu không phải, thì bây giờ cũng phải”. Tôi nói, “Có điều cái ông Peterson đấy có thấy mặt tớ không?”
“Toàn là máu với bụi,” Ode nói, “Ngay cả màu da cũng không thấy rõ——những học sinh kia ít nhất có hơn một nửa đều biết cậu, nhưng khi đó không có ai kêu tên thật của cậu ra”.
“Vậy thì tốt”. Tôi thở phào nhẹ nhõm, “Chí ít về sau tớ có thể nghĩ cách ngụy trang mặt”.
Theo lời Ode, cậu ấy đã giúp tôi thu dọn ít đồ đạc cuối cùng ở ký túc xá. Turandot vẫn ở Hoftas, cậu ấy cũng không biết tình hình của Coleman, mà Francisco thì đã thôi học về nhà. Tôi nhờ Ode gửi thư cho ông Smith thay mình, chỉ bảo cậu ấy giấu dưới cái tên giả Shaw Carl.
Sau đấy tôi phải đuổi tới thành Erdi, Ode phải về thị trấn Hoftas. Chúng tôi khó được tụ tập ăn một bữa cơm, đi từ đầu con phố vừa mới khai trương tới đầu kia, mới tách ra, ngồi lên hai chiếc xe ngựa.
Thư của sĩ quan và thư của Ryan đều được tôi để sát người ——cái sau không hề bị hư hại lúc tôi ở trên chiến trường. Phong thư trước đó tôi chưa mở, giờ nó vẫn lẳng lặng nằm trên tay tôi.
“Hình như thành Erdi là quê hương giáo sư Ryan từng nhắc tới”. Tôi nhìn bên ngoài cửa xe ngựa nghĩ thầm, “Quân đoàn thứ chín đã hứa chuyển di thể giáo sư Ryan về, cuối cùng thì thầy ấy cũng có thể hồn về cố hương…”
Tôi mở lá thư đó. Lúc lấy lại tinh thần, bức thư kia bất tri bất giác đã nằm trong lòng bàn tay tôi rất lâu.
Tôi nghĩ mình nên đọc nó, đây là chuyện sớm hay muộn, thế là tôi mở nó ra. Như Ode đã nói, nó không dài, tự thuật ôn hòa, cách diễn đạt tuân theo lễ nghĩa. Giọng nói của giáo sư ma pháp ngày xưa như thể nổi lên trên trang giấy, vang bên tai tôi:
“Gửi Vicente:
Đã từng là thầy giáo của em, tôi muốn truyền đạt sự áy náy của mình ở đây: tôi tận mắt thấy em bị nhốt trong nhà tù kia mấy chục ngày, cùng với nhiệm vụ dò xét nội tâm em trong lúc bất đắc dĩ.
Lấy thân phận một thành viên của Hội ma pháp, bản thân tôi không thể có tư tưởng thiên vị. Thế nhưng là một người bình thường biết chân tướng có giới hạn, từ đầu tới cuối tôi luôn tin tưởng em không nghi ngờ, bởi thế cho rằng em phải chịu sự đối xử bất công. Mãi cho nên khoảnh khắc tôi đặt bút hôm nay, tôi vẫn muốn lặp lại lời hứa của mình với em:
Công chính thuộc về em rồi sẽ tới.
Có lẽ tôi không nên nhìn từ trên cao xuống mà đảm bảo như vậy, nhưng tôi cũng không mong thấy hy vọng em gửi gắm vào nó bị dập tắt. Trước đây tôi chỉ là một kẻ bàng quan ôm ấp chờ mong, sau đó mới tỉnh ngộ mình không nên giới hạn trong việc khái quát hóa. May mà tất cả vẫn chưa muộn. Có lẽ việc trái với quy tắc tự nó đã đại biểu cho hành vi sai trái, bất luận đối với một người từng là giáo sư hay là thành viên Hội ma pháp, nhưng tôi không hề hối hận vì bất kỳ những gì mình đã làm.
Tôi đã từng mở một cánh cửa sổ, hy vọng vẫn có thể mở cho em một cánh khác. Đồ của em phải vật quy nguyên chủ, em sẽ đoán được nó đang chờ em ở đâu.
Mong con đường phía trước mãi mãi không có đau thương.
Theodore Ryan
Ngày 5 tháng 1 năm 858
Tái bút: Em có muốn tới bến cảng Acapulous chèo thuyền cùng tôi không?
…”
Tôi bảo phu xe chở thêm một đoạn, đi tới thành phố cảng Erdi. Tôi tìm được ông lão đóng tàu Ryan từng nhắc đến trong căn nhà nhỏ ở bến cảng đó. Tóc ông ấy bạc phơ, song trông tinh thần vẫn khỏe khoắn. Ông hỏi tôi có muốn thuê thuyền không, tôi lắc đầu, nhắc đến Ryan với ông ấy.
“Có ai tên Theodore Ryan từng gửi một thứ ở đây không ạ?” Tôi hỏi.
“A,” người đóng thuyền kia cảm thán một tiếng, “Là cậu thầy giáo đó. Năm ấy tôi tận mắt nhìn cậu ấy lớn lên——đúng, có chuyện như thế. Cậu ấy nói nếu có người tầm tuổi cậu tới hỏi tôi, thì tôi hãy đưa vật kia cho người đó. Cậu chờ tôi một lát”.
Ông ấy tìm kiếm một lúc trong phòng, đưa cho tôi một cái túi vải.
Túi vải chỉ có một nắm, đồ bên trong rất nhẹ. Tôi nhẹ nhàng mở bốn góc của nó ra nhìn, chiếc nhẫn từng bị lấy đi của tôi nằm ở đó. Không biết là được giáo sư Ryan lấy ra khỏi Hội ma pháp như thế nào, cũng không khiến tôi tốn công tìm nữa.
Bên bờ hải cảng thủy triều cuồn cuộn, cuốn qua một cơn gió mặn đắng. Tôi nắm chiếc nhẫn bị mất mà có lại được thoáng nhìn ra phía biển, bất giác nhớ tới câu chuyện phía sau lời nhắc nhở trong thư kia, cùng với đôi mắt lam đậm ảm đạm đi của Ryan. Người đóng thuyền kia dường như chú ý tới dáng vẻ của tôi, hỏi:
“Sao thế chàng trai? Đồ tôi giữ bị làm sao à?”
“Không ạ”. Tôi nói, “Nó rất hoàn hào——chỉ là cháu nhớ tới một câu chuyện mà thôi”.
Tôi kể cho người đóng thuyền nghe, ông ấy lại có vẻ mờ mịt.
Tôi đành phải kể cho ông ấy nghe từ đầu về: người con gái say đắm chàng thủy thủ hoạt bát, tình yêu không thể mở lời của nàng, sự ngóng trông mãi không có kết quả. Tôi kể với ông ấy về tảng đá nàng hóa thành nơi đây, ông nghe xong lại lắc đầu liên tục.
“Đây không phải câu chuyện lưu truyền của thành Erdi ạ?” Tôi nói, “Có người kể cho cháu về nó——”
“Tôi nghĩ chắc cậu nhầm rồi”. Người đóng thuyền kia bảo, “Tôi sống ở đây tám mươi hai năm, chưa từng nghe câu chuyện này bao giờ”.