Một trận náo loạn ở đầu thuyền, tiếng sấm lớn nhưng hạt mưa nhỏ.
Kiếm tu đã thi triển phi kiếm bản mệnh, hơn nữa còn là hai thanh khác thường, nhưng cuối cùng lại không thấy máu, khiến cho đám người xem cảm thấy không thỏa mãn lắm.
Thuyền chở khoảng hai trăm người, nhất thời trên thuyền nghị luận sôi nổi.
Đối với người nước Thanh Loan, dù là tiên sư gia phả xuống núi du lịch, tu sĩ sông núi bôn ba vì lợi, hay là quan to quyền quý dẫn theo gia quyến mở rộng tầm mắt, việc ngồi thuyền tiên gia cũng không hiếm lạ. Cảnh đẹp như tranh, biển mây cuồn cuộn hay tiên hạc bay lượn gì đó, xem nhiều rồi cũng chán, còn không bằng chính mắt nhìn thấy xung đột khiến người ta phấn chấn như vậy, cũng có thể nhân cơ hội đưa ra ý kiến của mình.
So với hai bên đương sự, một bên hờ hững còn một bên giấu đầu lòi đuôi, những người khác lại bàn tán rất hăng say, quan điểm khác nhau. Đến cuối cùng đại khái đạt thành nhất trí, đều cảm thấy tên kiếm tu trẻ tuổi kia hành sự quá bá đạo, một chút chuyện nhỏ như vậy, nào đến mức phải ra tay tổn thương người. Chỉ cần công khai thân phận kiếm tu là có thể giải quyết, lại muốn đá cho gã đàn ông kia ngã xuống, không phải ỷ thế hiếp người thì là gì?
Chỉ có một tiểu cô nương được cha mẹ dẫn theo du lịch núi sông, hồn nhiên nói một câu: “Không phải cái gã bị đánh kia sai trước sao?”
Đám người lớn gần đó xem náo nhiệt bàn luận sôi nổi, kể cả cha mẹ của cô vốn rất môn đăng hộ đối trong thế tộc nước Thanh Loan, đều xem như không nghe thấy lời nói ngây thơ của đứa bé này.
Bọn họ tiếp tục suy đoán lai lịch của kiếm tu trẻ tuổi kia, là đến từ vườn Phong Lôi của Lý Đoàn Cảnh, hay là núi Chính Dương kiếm khí ngút trời? Nếu không thì cũng chế giễu, nói rằng kiếm tu trong truyền thuyết này thật tài giỏi, tuổi còn trẻ tính khí lại không nhỏ, không chừng một ngày nào đó đụng phải địa tiên càng không nói lý, nhất định sẽ chịu đau khổ.
Tiểu cô nương lại rụt rè nói:
- Nếu đại ca ca đeo kiếm mặc áo bào trắng kia không có bản lĩnh, chẳng phải đã bị đám người kia khi dễ rồi sao?
Đám người lớn vẫn không quan tâm đến lời nói ngây thơ của cô bé, một đứa trẻ nhỏ như vậy thì biết cái gì.
Thấy không ai để ý tới mình, tiểu cô nương hơi tức giận, chạy đến một nơi lan can đầu thuyền ít người, nhón chân nhìn ra xa. Những đám mây kia giống như kẹo bông lớn nhất trên đời, khiến cô nhìn mà thèm thuồng. Cô đưa tay ra giả vờ chụp lấy, sau đó nhét vào miệng, vỗ vỗ bụng, cảm thấy hài lòng, không còn khó chịu với những người lớn kia nữa.
Thực ra cô rất muốn tìm người bạn cùng lứa hình dáng như cục than đen kia chơi đùa, chỉ là lúc ấy cô hơi ngại ngùng. Hơn nữa cha mẹ đã dặn dò cô, lên chiếc thuyền này rồi không thể tùy tiện giống như ở nhà mình. Sau đó xảy ra chuyện lớn như vậy, cô càng không dám đến gần.
Tiểu cô nương đột nhiên phát hiện, cách đó không xa có một người hình dáng rất đẹp, rất phù hợp với hình tượng tuấn tú tiêu sái mà trong sách nói, còn hơn cả đại ca ca lúc trước bảo vệ nha đầu đen nhẻm.
Người nọ khoảng ba mươi tuổi, chỉ là cả người gây cho người ta một ấn tượng mơ hồ, trẻ trung và phấn chấn.
Hắn quay đầu đưa mắt nhìn cô. Tiểu cô nương vội vàng quay đi, giả vờ ngắm cảnh.
Người nọ mỉm cười, học theo tiểu cô nương, đưa tay về phía một đám mây trắng hình dáng như đỉnh núi trôi nổi gần thuyền. Sau đó đỉnh núi trắng như tuyết kia khẽ lay động, có một đường sáng trắng lấp lánh dưới ánh mặt trời chiếu rọi, bay tới trong tay người nọ, bị hắn dùng hai tay nhào nặn thành một quả bóng. Hắn cười cười đưa về phía tiểu cô nương, giống như đang hỏi có muốn nếm thử hay không. Tiểu cô nương lắc đầu, người nọ liền ném quả bóng vào trong miệng mình.
Tiểu cô nương há hốc mồm, bội phục không thôi.
Là một thần tiên dáng dấp rất đẹp.
Người nọ nằm trên lan can, không có việc gì làm.
Lần này hắn xin nghỉ phép đi ra ngoài, vừa để giải sầu, vừa muốn ở gần quan sát người trẻ tuổi rất có thể là đồng môn Pháp gia kia.
Hắn chính là đại đô đốc Vi Lượng của nước Thanh Loan, là tu sĩ địa tiên lúc trước đã sắp đặt vây bắt trâu vàng, dụ đám tu sĩ hoang dã ra để giết, cũng là người canh cổng ở kinh thành trong Phật Đạo tranh luận lần này.
Phật Đạo tranh luận còn chưa chính thức hạ màn. Đại đô đốc Vi Lượng vốn là phụ tá đắc lực của hoàng đế khai quốc, mưu sĩ số một năm xưa, tuổi tác còn lớn hơn ngai vàng của nước Thanh Loan, lần này lại xin hoàng đế bệ hạ đương nhiệm cho nghỉ phép. Trong lòng Đường Lê vốn không đồng ý. Hôm nay tình hình nước Thanh Loan rất phức tạp, không có Vi Lượng trấn giữ kinh thành, bên giường đều là hổ sói. Nhưng vị hoàng đế họ Đường này vẫn phải miễn cưỡng đáp ứng.
Sau khi thái tổ hoàng đế nước Thanh Loan lập nước, đã xây dựng lầu các và treo tranh của hai mươi bốn vị công thần khai quốc. Thực ra xếp hạng của Vi Tiềm không cao, nhưng cháu trai của cháu trai hai mươi ba vị văn thần võ tướng còn lại đã chết rồi, Vi Tiềm thì chỉ đổi tên thành Vi Lượng mà thôi.
Chiếc thuyền tiên gia này tên là Thanh Y, hình dáng giống như những chiến thuyền trên hồ lớn sông lớn của vương triều thế tục, tốc độ không nhanh, còn đi đường vòng. Mục đích là để nửa số hành khách trên thuyền đi tới những danh sơn tiên gia tìm thú vui.
Ngồi trên một đài câu cá cao hơn biển mây, dùng cần câu làm bằng gỗ hiếm tiểu luyện, câu chim chóc và cá bay giá trị ngàn vàng. Hay là đi lên đỉnh một ngọn núi cao nhà trọ san sát, ngắm cảnh tượng tráng lệ mặt trời mọc và lặn. Hoặc là đi tới một môn phái tiên gia, dùng số tiền lớn mua hạt giống, sau đó giao cho tu sĩ Nông gia gây trồng ra những chậu hoa thơm cỏ lạ, cuối cùng lấy về đặt ở nhà mình nhìn ngắm, hay là đút lót cho quan trường đều được.
Còn có một số ngọn núi, cố ý chăn nuôi tiên cầm mãnh thú núi sông. Sẽ có người giàu thích chuyện săn bắn, trèo đèo lội suối, “mạo hiểm” bắt được bọn chúng. Đương nhiên toàn bộ hành trình đều sẽ có tu sĩ đi theo trông chừng.
Trong những năm tháng rực rỡ gấm hoa ở nước Thanh Loan, Vi Lượng thực ra vẫn luôn một thân một mình. Phủ đại đô đốc mỗi lần cưới hỏi đàng hoàng, đều chỉ là mượn danh nghĩa, cho nên hắn cũng không có con nối dõi.
Đã ngơ ngẩn nhiều năm như vậy rồi.
Vi Lượng ngồi xuống, cười hỏi:
- Tiểu cô nương, ngươi tên gì?
Tiểu cô nương do dự một thoáng:
- Tôi tên là Nguyên Ngôn Tự.
Vi Lượng gật đầu nói:
- Lời nói cần có nội dung và thứ tự, như vậy xem ra, trong nhà ngươi có trưởng bối là người tôn sùng “nghĩa pháp thuyết” của phái Đồng Thành năm xưa. Nhánh học vấn này đã yên lặng rất nhiều năm rồi, như vậy ta đoán chắc không phải là tên do cha ngươi đặt, chắc là ông nội ngươi đặt đúng không?
Nguyên Ngôn Tự mở to mắt, càng bái phục người này, như vậy cũng đoán được sao?
Vi Lượng cười hỏi:
- Chúng ta trò chuyện một chút nhé?
Nguyên Ngôn Tự chạy chầm chậm mấy bước, ngồi xuống bên cạnh đối phương:
- Tiên sinh ngài cứ nói, tôi sẽ lắng nghe.
Ở phía xa, mẫu thân của Nguyên Ngôn Tự vẻ mặt lo lắng, muốn đi đưa con gái của mình về bên cạnh. Phu quân của bà là một văn sĩ trung niên nho nhã, cũng dự định như vậy. Trên thuyền tiên gia không có ai là người đơn giản.
Có điều lão khách khanh gia tộc đi theo bên cạnh bọn họ lại lắc đầu với nho sĩ trung niên, nhẹ giọng nói:
- Không chừng là một cơ duyên tiên gia, chúng ta tốt nhất cứ bình tĩnh theo dõi biến hóa.
Lúc này hai vợ chồng mới yên tâm hơn một chút, đồng thời cũng có phần mong đợi.
Vi Lượng dứt khoát ngồi xếp bằng, hai tay chống lên đầu gối. Chiếc thuyền tiên gia này đã chạy vào phía trên một biển mây, ngoài lan can giống như một con sông dài trắng như tuyết, đã trở thành một chiếc thuyền đúng như ý nghĩa.
Trước tiên Vi Lượng hỏi tiểu cô nương Nguyên Ngôn Tự cách nhìn về trận sóng gió lúc trước, tiểu cô nương liền nói ra suy nghĩ của mình.
Thấy vị thần tiên này gật đầu, Nguyên Ngôn Tự liền vui vẻ, cuối cùng đã có người đồng ý với quan điểm của mình rồi.
Vi Lượng chậm rãi nói:
- Những đứa trẻ vào đời không sâu như các ngươi, đều là... nói thế nào nhỉ, giống như một món đồ sứ xinh đẹp nhưng mong manh. Tương lai được đặt vào nơi thanh nhã, hay là biến thành bình vỡ bên cạnh lò, phải xem dạy có tốt hay không. Dạy tốt rồi, biểu hiện sẽ đoan chính; dạy không tốt, lớn lên sẽ không đứng đắn.
- Ngôn truyền thân giáo (dạy người thế nào, mình làm như vậy), cái sau còn quan trọng hơn. Ngôn truyền là hư, thân giáo là thực, bởi vì trẻ con chưa chắc đã nghe hiểu được đạo lý của người lớn, nhưng lại rất tò mò với thế giới. Muốn đứa trẻ nghe vào trong tai, chứa được đạo lý rất khó.
- Trong mắt đứa trẻ, nhìn thấy càng nhiều thì càng dễ nhớ được hình dáng đại khái của thế đạo này. Tương đối dễ hiểu, đen trắng rõ ràng, non nớt lại càng đáng quý. Cứ thay đổi một cách âm thầm như vậy, chính mình cũng hoàn toàn không phát giác, từng li từng tí, năm năm tháng tháng, thế giới trong suy nghĩ sẽ định hình, lại khó sửa đổi.
- Cho nên rất nhiều người sau khi lớn lên trưởng thành, có một số hành động kỳ lạ trái với ấn tượng của người khác, thực ra đã có thể nhìn được từ sớm. Tại thời khắc mấu chốt để mài giũa con người, lời nói và việc làm của cha mẹ rất quan trọng. Khi con mình làm sai, khiển trách nhưng không mắng đúng điểm mấu chốt, hoặc là cảm thấy con cái nhà mình tuổi tác quá nhỏ, quyết định xem như không thấy, cuối cùng chẳng phải là hại người hại mình, hại cả con cái sao.
- Cho nên phải thưởng phạt phân minh, cha mẹ phải học cách lập quy củ cho con cái. Nhân nghĩa là cội nguồn của lý, hình phạt là cuối cùng của lý.
Vi Lượng nói một cách ổn định, không nhanh không chậm.
Nguyên Ngôn Tự nghe rất nghiêm túc, thỉnh thoảng chớp chớp mắt.
Vi Lượng tiếp tục nói:
- Cho nên lúc còn nhỏ, cha mẹ dùng hành động bản thân dạy con cái nhân nghĩa. Lớn lên một chút, thầy giáo ở trường dạy học trò nhân nghĩa trong sách. Hai bên bổ trợ cho nhau, người trước dạy thực tế còn người sau dạy nâng cao, thiếu một thứ cũng không được, càng không thể cản trở lẫn nhau.
Nguyên Ngôn Tự vẫn luôn im lặng không nói gì, cũng không rõ có hiểu hay không. Nhưng cô vẫn biết lúc người khác nói chuyện, mình nên dựng tai lắng nghe, không nói chen vào.
Vi Lượng quay đầu cười hỏi:
- Có biết loại người nào chịu nghe người khác nói đạo lý không?
Nguyên Ngôn Tự lắc đầu.
Vi Lượng liền tự hỏi tự đáp:
- Lúc đầu là trẻ con nghe cha mẹ, sau đó là học trò nghe thầy giáo, sau khi lớn lên là kẻ yếu nghe kẻ mạnh, người nghèo nghe người giàu, thần tử nghe quân vương, còn có dưới núi nghe trên núi, trên núi nghe đỉnh núi. Như vậy lại có vấn đề, nếu kẻ mạnh nói không đúng, kẻ yếu lại khăng khăng xem tất cả lời nói đạo lý của kẻ mạnh là chuẩn mực, phải làm sao đây?
- Đạo đức nhân nghĩa đã rất khó hiệu quả, vậy thì phải có pháp luật. Trên đời phải có một thứ, khiến người ta càng kính sợ hơn tất cả pháp thuật tiên gia trên núi, khiến kẻ mạnh cũng phải bó tay bó chân, khiến những người này giống như đứa trẻ phạm sai lầm, sợ cha mẹ khiển trách. Giống như chổi lông gà và thước của thầy giáo dạy học, một khi phạm sai lầm sẽ bị đánh vào tay.
Hắn tươi cười rạng rỡ:
- Nghe không hiểu lắm, đúng không?
Nguyên Ngôn Tự đương nhiên nghe không hiểu, trong đầu rối tung:
- Ừm.
Vi Lượng cười ha hả nói:
- Thực ra ngươi đã nghe vào, chỉ là tạm thời không hiểu mà thôi, đều chứa ở trong lòng ngươi. Như vậy đã lợi hại hơn rất nhiều người lớn rồi, bọn họ thường là sau khi chịu thiệt, mới học được một chút khôn vặt đối nhân xử thế. Tiểu cô nương, mặc dù tư chất tu hành của ngươi bình thường, nhưng hôm nay gia cảnh tốt, không lo cơm áo, không có nhiều chuyện khiến cho tâm tính biến đổi. Về sau gả cho một người đàn ông tốt, đời này xem như không tệ rồi.
Nguyên Ngôn Tự hơi ngượng ngùng.
Loại chuyện lấy chồng này, cô đã từng chơi đùa với đám bạn cùng lứa, chỉ là trẻ con bắt chước sinh hoạt người lớn mà thôi. Mỗi lần đều sẽ tìm một tấm vải gấm đỏ, đội lên đầu “tân nương”. Nếu “phu quân” là con mọt sách của Lưu phủ kế bên, cô sẽ cười nhiều một chút, còn nếu là tên mập mạp của Mã phủ, cô sẽ không muốn cười nữa.
Vi Lượng vươn một ngón tay ra:
- Thấy ngươi thông minh lại hiểu chuyện như vậy, nói với ngươi một việc. Chờ sau khi ngươi lớn lên, nếu gặp phải cửa ải khó khăn mà ngươi cảm thấy gia tộc không thể ứng phó, nhớ đến phủ đại đô đốc ở phía nam kinh thành, tìm một người tên là Vi Lượng. Ừm, nếu như sự tình khẩn cấp, gởi một bức thư cũng được.
Nguyên Ngôn Tự rụt rè nói:
- Tiên sinh, đó là chuyện rất nhiều năm sau, hay là bỏ đi?
Vi Lượng lắc đầu cười nói:
- Không thể cho rằng như vậy. Thời gian như nước chảy rào rào, chỉ trong chớp mắt ngươi đã lớn rồi, lại chớp mắt một cái...
“Có thể đã chết già rồi”, chỉ là Vi Lượng cũng không nói ra những lời không phù hợp này.
Vi Lượng mỉm cười nói:
- Người thiện bị người khác ức hiếp, vậy không làm người tốt nữa sao? Kẻ ác tự có kẻ ác hơn trừng trị, vậy nên đi làm kẻ xấu sao? Quân tử có thể bị lừa gạt bằng cách hợp tình lý, vậy cảm thấy khi dễ quân tử là đúng sao? Như vậy không đúng.
- Có điều thiện ác của con người quá phức tạp, cho dù đã nhận định đúng sai thị phi, xử trí thế nào vẫn là phiền phức rất lớn. Giống như sóng gió trên thuyền hôm nay, người trẻ tuổi đeo kiếm kia nếu kiên nhẫn nói đạo lý với đối phương, người ta sẽ nghe sao? Ngoài miệng nói nghe, trong lòng sẽ đồng ý sao? Như vậy nói hay không nói có ý nghĩa gì?
- Bởi vì thứ mà đám người kia chịu nghe, không phải là những đạo lý chân chính, mà là tình thế trước mắt. Sau khi hai bên mỗi người một ngả, giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, tất cả sẽ lại như cũ. Không chừng ngồi xuống nói đạo lý, ngược lại sẽ khiến cả người tanh tưởi... Bỏ đi, không nói những chuyện này nữa, chúng ta vẫn nên ngắm nhìn biển mây, như vậy thoải mái hơn.
Những lời này thực ra phần nhiều là Vi Lượng tự nói với mình, càng không hi vọng tiểu cô nương nghe hiểu.
Trên thực tế nếu đổi thành cha mẹ của Nguyên Ngôn Tự tới nghe cũng vô dụng. Không phải nghe không hiểu, mà là cảm thấy thế đạo như vậy, nói những chuyện này, còn không thiết thực bằng những chuyện viễn vông cách mặt đất vạn dặm.
Hơn hai trăm năm trước Vi Lượng đã là một vị địa tiên, nhưng vì muốn thúc đẩy học vấn bản thân, muốn dùng chuyển biến của phong thổ một nước, làm thời cơ chứng đạo và xem đạo của mình. Thế là hắn đã dùng tên giả “Vi Tiềm”, đi tới đông nam bộ Bảo Bình châu, giúp thái tổ họ Đường nước Thanh Loan dựng nước. Sau đó phụ tá hoàng đế họ Đường đời này qua đời khác, định ra pháp luật.
Trước Phật Đạo tranh luận lần này, Vi Lượng chưa bao giờ dùng thân phận tu sĩ địa tiên đối phó với quan viên triều đình và người tu hành. Lao tâm lao lực như vậy, nhưng tiến triển vẫn rất chậm chạp, thậm chí trong hai đời hoàng đế còn đi theo đường cũ một đoạn lớn. Chuyện này khiến Vi Lượng rất thất vọng.
Cuối cùng Vi Lượng mỉm cười rời đi, chỉ nhắc nhở Nguyên Ngôn Tự phải giữ bí mật về chuyện thư từ và phủ đô đốc.
Sau khi Vi Lượng biến mất, cha mẹ của Nguyên Ngôn Tự và khách khanh gia tộc mới đi tới bên cạnh cô, bắt đầu hỏi thăm chi tiết cuộc trò chuyện.
Nguyên Ngôn Tự không dám che giấu, lúc đầu cũng muốn nghe theo vị tiên sinh kia, giữ bí mật về chuyện phủ đô đốc và thư từ. Chỉ là không cẩn thận lỡ miệng, bị vị lão tiên sinh khách khanh gia tộc kia nắm được đầu mối, nét mặt hiền từ lại ẩn giấu huyền cơ vặn hỏi một phen. Nguyên Ngôn Tự đắn đo rất lâu, không lay chuyển được cha mẹ truy hỏi bức thiết, đành phải nói thẳng ra.
Lão khách khanh rất vui mừng, thì thầm với nho sĩ trung niên, nói rằng người nọ nhất định là tu sĩ cung phụng của đại đô đốc kia, không chừng còn là tâm phúc bên cạnh Vi đại đô đốc. Nguyên gia thật có phúc.
Lão khách khanh Nguyên gia lại dặn dò vị nho sĩ kia, những thần tiên trên núi này tính tình khó lường, không thể suy đoán theo lẽ thường. Cho nên không thể vẽ rắn thêm chân, tuyệt đối không được đến nhà thăm viếng cảm ơn gì đó, Nguyên gia cứ xem như không biết gì là được.
Hai vợ chồng rất kích động.
Chỉ có Nguyên Ngôn Tự tràn đầy áy náy với vị thần tiên kia, ngồi xuống bên cạnh lan can, cảm thấy hơi mất mát.
Vi Lượng đã đi xa thở dài một tiếng. Loại chuyện nhỏ này không đáng nói là khiến hắn thất vọng, càng sẽ không vì vậy mà nuốt lời, chỉ là không kinh ngạc vui mừng mà thôi. Sau này ở kinh thành nước Thanh Loan, Nguyên gia vốn chỉ xem như thế gia hạng hai, một khi gặp phải phiền phức, cho dù không thể gởi thư đến phủ đô đốc, Vi Lượng hắn vẫn sẽ ra tay trợ giúp một lần.
Có điều tiểu cô nương tên là Nguyên Ngôn Tự kia, đã mất đi một cơ duyên tiên gia có thể đạp lên đường tu hành. Chỉ là Vi Lượng cũng biết, đối với Nguyên Ngôn Tự thì đây chưa chắc đã là chuyện xấu.
Có thể được an ổn trên thế gian đã không dễ. Lên núi tu đạo, trở thành luyện khí sĩ rồi, một khi bắt đầu đọ sức với ông trời, không nói đến thiện ác của nhân tính, chỉ cần là người tâm chí không kiên định thì thường khó chết già.
- --------
Trần Bình An dắt tay Bùi Tiền trở về phòng mình trên thuyền.
Bùi Tiền lần đầu tiên nói hôm nay phải chép thêm năm trăm chữ.
Trần Bình An không ngăn cản, chỉ là nhắc nhở hôm nay chép nhiều, không thể xem như của ngày mai.
Bùi Tiền ưỡn ngực nói:
- Đương nhiên là vậy.
Lúc chép sách, hồ lô nhỏ màu vàng được Bùi Tiền đặt ở bên tay.
Trần Bình An ngồi đối diện bàn, tiếp tục lật xem một quyển thư tịch Pháp gia, hắn đã mua sau khi Thôi Đông Sơn nhắc nhở. Không phải là bản duy nhất hay bản tốt nhất gì, nhưng thuộc về một trong số “chính kinh” cơ sở chống đỡ tam giáo các nhà.
Về chuyện đọc sách, Trần Bình An vẫn nhớ kỹ những đề nghị của Lục Đài. Chẳng hạn như phương pháp đọc sách “trích xuất tinh hoa”, “tìm hiểu cội nguồn tìm thân thích”, cùng với bí quyết chọn sách.
Đừng thấy các trường phái tư tưởng học vấn hỗn tạp, đống sách như núi, biển sách vô bờ. Thực ra cho dù là học vấn tam giáo Nho Phật Đạo, thư tịch lưu truyền rộng rãi nhất, thật sự xứng với bốn chữ “đọc sách có ích” cũng không vượt quá năm mươi quyển. Trên thế gian tất cả người thường sống tới bảy mươi tuổi đều có thể đọc được kỹ càng tỉ mỉ, đọc tới đọc lui. Cho nên Trần Bình An lựa chọn ba quyển điển tịch Pháp gia, cũng chỉ bảo đảm bản in không sai sót mà thôi.
Trong chuyện hôm nay, điểm mà Bùi Tiền khiến Trần Bình An vui vẻ yên tâm nhất, đó là “xuất phát từ bản tâm” lúc trước hắn đã nói với cô bé. Làm sai chuyện, trước tiên phải thành tâm xin lỗi người khác. So với lần đầu gặp ở đất lành Ngẫu Hoa, Bùi Tiền hôm nay đã có thay đổi long trời lở đất. Chẳng hạn như từ khi sóng gió nổi đến khi sóng gió lặng, suy nghĩ duy nhất của Bùi Tiền là chép sách, chứ không phải mắng đám người kia chết không yên lành gì đó.
Trần Bình An hỏi:
- Bùi Tiền, bị tên kia nắm đầu, thiếu chút nữa đã ném ngươi đi, ngươi không tức giận sao?
- Giận chứ. Trên đường tới đây trong bụng con đã mắng chết bọn hắn rồi, tám tên bại hoại, mỗi tên chết theo một kiểu. Chẳng hạn như cái gã bị sư phụ giáo huấn, ra cửa không cẩn thận sẩy chân rơi xuống thuyền, té đến nát bét. Còn có cô ả đáng ghét kia, dựa theo thuyết pháp tướng mạo mà lão đầu bếp tặng cho con, gọi là người có mí mắt dưới dày và lồi. Cô ta đột nhiên cãi nhau với người khác, sau đó bị người ta một chưởng bên trái, một tát bên phải, cuối cùng bị đánh cho rụng răng không tìm được, ha ha... Còn có cái tên mỏ nhọn hàm khỉ kia, ăn hư cả bụng, trên thuyền lại không có lang trung cứu chữa, lăn lộn dưới đất gào khóc...
Bùi Tiền đang tập trung chép sách, không cẩn thận nói ra lời thật lòng. Cô bỗng nhiên giật mình, vẻ mặt đau khổ nói:
- Sư phụ, gõ đầu hay nhéo tai, cứ xem mà làm.
Trần Bình An cũng không tức giận, cười hỏi:
- Vậy nếu như...
Bùi Tiền giống như biết Trần Bình An muốn hỏi gì, thẳng lưng nói:
- Sư phụ ngài yên tâm, con chỉ suy nghĩ một chút để mình vui vẻ thoải mái mà thôi. Cho dù một ngày nào đó con luyện thành kiếm thuật tuyệt thế và quyền pháp vô địch, đụng phải những người này, cũng sẽ không thật sự làm gì bọn hắn. Nhiều nhất là giống như sư phụ, đá bọn hắn một cái.
Trần Bình An tò mò hỏi:
- Tại sao?
Bùi Tiền nói như chuyện hiển nhiên:
- Con là đồ đệ của sư phụ ngài, còn là đại đệ tử khai sơn. Con chấp nhặt với bọn hắn, chẳng phải là khiến sư phụ mất mặt sao? Hơn nữa chuyện có bao lớn chứ, lúc còn nhỏ con từng bị người ta đánh đập rất nhiều lần. Hôm nay đã là người có tiền, còn là nửa người giang hồ, độ lượng cũng lớn rồi.
- Công phu nịnh bợ của Bùi nữ hiệp càng thành thục rồi.
Bùi Tiền tiếp tục vùi đầu chép sách, hôm nay tâm tình của cô rất tốt, không chấp nhặt với lão đầu bếp này.
Trần Bình An nói với Chu Liễm:
- Lát nữa đám người kia nhất định sẽ đến phòng xin lỗi, ngươi giúp ta cản lại, bảo bọn hắn cút đi.
Bùi Tiền đột nhiên hỏi:
- Sư phụ, vì sao không gặp, phải nói đạo lý với bọn hắn chứ.
Chu Liễm cười nói:
- Ngươi biết cái rắm.
Bùi Tiền lần đầu tiên không tranh luận, chỉ nhếch miệng cười trộm.
Lần trước trên đường nhỏ rời khỏi vườn Sư Tử, cô đã bắt lấy cái rắm, đưa cho Chu Liễm và Thạch Nhu đoán, cho nên lão đầu bếp ngươi mới thật sự là biết cái rắm.
Chu Liễm đứng bên cạnh Bùi Tiền, nhìn cô bé chép sách, cách thức viết chữ chắc là học theo Trần Bình An, hôm nay miễn cưỡng xem như ngay ngắn rồi.
Chu Liễm nhìn cô bé cẩn thận viết chữ, nói:
- Nếu thiếu gia nói chuyện đàng hoàng với loại người này, bọn hắn ở trước mặt nhất định sẽ tỏ ra khâm phục, ngoài miệng nói mấy câu như sau này sẽ không tái phạm nữa. Nhưng khi xoay người rời đi sẽ ngước mặt lên trời, không chừng còn xem như kiêu ngạo, gặp người khác sẽ nói rằng không đánh nhau thì không quen biết với thiếu gia. Xuống thuyền rồi, bọn hắn sẽ tiếp tục xông pha giang hồ, lại có người trên thuyền chứng minh bọn hắn là bằng hữu của kiếm tu, làm sao không khiến người khác kiêng dè. Ngươi cho rằng là chuyện nhỏ sao?
Bùi Tiền ngẩng đầu lên, nghi hoặc nói:
- Sao lại là bằng hữu rồi, không phải chúng ta và bọn hắn là kẻ thù sao?
Chu Liễm ngồi một bên, hờ hững nói:
- Chúng ta biết, nhưng giang hồ không biết.
Bùi Tiền dừng bút, giận đến vỗ bàn một cái:
- Giang hồ sao lại ngây thơ như vậy!
Trần Bình An cười nói:
- Chép sách cho tốt, tranh thủ chép một mạch cho xong, tốt nhất đừng nên dây dưa.
Bùi Tiền à một tiếng, tiếp tục chép sách.
Quả nhiên trong hành lang ngoài cửa vang lên tiếng bước chân, phần nhiều là võ phu thuần túy cảnh giới thứ ba thứ tư, chỉ có một cảnh giới thứ năm.
Bọn hắn bắt đầu gõ cửa. Chu Liễm mở cửa, sau đó đá người văng ra ngoài:
- Bớt tới đây quấy rầy thiếu gia nhà ta, nếu còn tới làm chướng mắt, ta thấy tên nào thì đánh chết tên đấy.
Đám người kia nơm nớp lo sợ, cúi đầu khom lưng, như ong vỡ tổ cáo lỗi rời đi.
Những căn phòng trong hành lang gần đó có phân nửa mở cửa ra, đều tò mò tiếp theo sẽ là một lời không hợp máu bắn ba thước, hay là câu chuyện giang hồ được mọi người ca tụng giống như trong sách. Kết quả lại là cảnh tượng như vậy, khiến bọn họ cảm thấy không thú vị.
Có điều mấy tu sĩ sông núi trong lòng lại dễ chịu hơn một chút. Nếu đám người lỗ mãng kia thật sự nhân họa được phúc, dựa thế một kiếm tu trẻ tuổi sâu không thấy đáy như vậy, bọn họ còn không ghen tị đến chết sao.
Thấy Trần Bình An yên lặng nhìn Bùi Tiền chép sách, kiểm tra xem mỗi nét có sơ suất hay không, Thạch Nhu đột nhiên có một loại cảm giác, mình làm quỷ vật mấy trăm năm dường như vô ích rồi.
Chẳng phải hắn còn chưa đến hai mươi tuổi sao? Đối với lòng người nhỏ bé, không nên nhìn thấu triệt như vậy mới đúng.
Trần Bình An đột nhiên quay đầu cười hỏi:
- Ngươi nhìn ta rất lâu rồi, có chuyện gì vậy?
Thạch Nhu hơi ngượng ngùng, chỉ lắc đầu.
Thấy Trần Bình An tỏ ra khó hiểu, Thạch Nhu lại sợ hắn nghĩ sai, cho rằng mình có mơ tưởng hão huyền gì đó, càng không được tự nhiên. Cô đột nhiên đứng dậy, xoay người rời đi.
Trần Bình An không hiểu chuyện gì. Hắn chỉ cảm thấy bị một “Đỗ Mậu” nhìn chằm chằm như vậy, khiến hắn nổi da gà.
Chu Liễm giống như cười trên nỗi đau của người khác:
- Thiếu gia đúng là rồng phượng trong loài người, nữ nhân trên thế gian gặp phải nhân vật như thiếu gia, chẳng phải là làm lỡ chung thân sao?
Trần Bình An thở dài:
- Chu Liễm, có đôi khi lời nịnh hót của ngươi thật sự không lọt tai như Bùi Tiền.
Chu Liễm cười ha hả nói:
- Dù sao chuyện nịnh hót này, Bùi Tiền có thiên phú phi phàm, lão nô chỉ là sau này mới cố gắng mà thôi.
Bùi Tiền tiếp tục chép sách, cũng không ngẩng đầu lên, vẻ mặt căm phẫn nói:
- Lão đầu bếp, ngươi đợi đấy. Chờ ta chép sách xong, còn thiếu một trăm hai mươi lăm chữ nữa thôi, đến lúc đó ngươi sẽ rất thảm.
Chu Liễm cười nói:
- Thế nào, là so tài ăn phân với ta, hay là so tài mắng người?
Trần Bình An cảm thấy nghe không nổi nữa, bèn lấy ra lá bùa chân thân thần linh dạo chơi ngày đêm giá trị liên thành kia, cùng với miếng ngọc bội có khắc chữ Long Cung.
Bởi vì đã được Lý Bảo Châm “mở cửa”, Trần Bình An lại không biết phương pháp đóng cửa, cho nên linh khí trên hai món đồ vẫn đang trôi mất. Có điều so với linh khí dồi dào của bùa chú và ngọc bội, linh khí mất đi gần như không đáng kể. Giống như hồ lau sậy bên ngoài vườn Sư Tử, có người dùng cái cuốc đào ra một mương nước nhỏ mà thôi.
Chỉ là như vậy càng chứng minh thiếu sót chí mạng của võ phu thuần túy vẽ bùa. Một bên là lửa cháy bừng bừng, giống như bốn mùa luân chuyển, quá hạn không chờ. Một bên là nước nhỏ chảy dài, giống như động phủ tiên gia, bốn mùa xanh tươi.
Chu Liễm tấm tắc lấy làm kỳ lạ, nói:
- Ngọc bội không nhìn ra điểm đặc biệt, nhưng lá bùa quý giá này của nhị công tử Lý gia, hẳn là... pháp bảo trong pháp bảo tiên gia?
Trần Bình An gật đầu nói:
- Bùa chú là một nhánh lớn của Đạo gia, thiên biến vạn hóa đều có thiên cơ. Sau khi vận dụng thuần thục, đủ cho tu sĩ hoành hành bốn phương. Ngay cả khi chiến đấu với kiếm tu ăn tiền nhiều nhất, sát lực lớn nhất, vẫn có bùa giếng nước hay bùa khóa kiếm để đối phó. So với những luyện khí sĩ khác sợ kiếm tu như sợ cọp, như vậy đã xem như rất tốt rồi. Huống hồ còn có thể dùng để trừ khử quỷ thần hoặc sai khiến nó, cho nên tu sĩ bình thường đều sẽ mang theo mấy lá bùa bên người, chuẩn bị khi cần đến. Còn như số lượng nhiều ít, cấp bậc cao thấp, đương nhiên phải xem túi tiền của từng người.
Trong trận chiến ở Vườn Sư Tử, Trần Bình An ngoại trừ dùng sơn vàng vẽ bùa, còn lấy ra một xấp bùa chú thượng phẩm quý hiếm.
Phát hiện Chu Liễm đang nhìn mình, Trần Bình An cười nói:
- Cố sự trong này, chờ đến núi Lạc Phách quận Long Tuyền, sẽ nói cho ngươi và Bùi Tiền nghe. Tóm lại đây cũng là nguyên nhân mà ta không giết Lý Bảo Châm.
Chu Liễm không hỏi thêm nữa, xoa tay nói:
- Thiếu gia, bây giờ có thể luyện quyền không?
Trần Bình An gật đầu, đứng lên:
- Lần này ngươi hãy ra tay nặng một chút, không cần lo lắng ta có chịu được hay không. Chu Liễm ngươi không biết năm xưa ta luyện quyền với người khác thế nào đâu. Nhìn thấy rồi sẽ hiểu, lúc trước ở tiệm thuốc thành Lão Long, Trịnh Đại Phong luyện quyền với các ngươi chỉ như... ừm, dựa theo cách nói của ngươi, chỉ như đàn ông vẽ lông mày cho cô gái, động tác ôn nhu.
Chu Liễm cười nói:
- Như vậy thì tốt. Lúc ấy lão nô đã cảm thấy không đủ sảng khoái, chỉ là có Tùy Hữu Biên ở đó, lão nô cũng ngại nói thêm.
Bùi Tiền đã chép sách xong.
Trần Bình An nói:
- Trở về phòng mình, nếu không lát nữa ngươi nhất định sẽ hô to gọi nhỏ.
Bùi Tiền cao giọng đảm bảo:
- Sẽ không đâu!
Trần Bình An trước tiên lấy ra một lá bùa gột bẩn, dán vào trong phòng.
Kết quả sau một nén nhang, Bùi Tiền chỉ quan sát hai người so tài, đầu đã đổ mồ hôi, kinh hồn bạt vía. Sau đó cô dứt khoát chạy tới góc tường, lật hòm trúc của Trần Bình An, lấy hộp đựng bảo vật của mình ra.
Nếu bắt cô phải luyện quyền tập võ như vậy, mới có thể trở thành tuyệt thế cao thủ trong suy nghĩ, cô nhất định sẽ giả vờ như giang hồ không tồn tại, trên đời không có thứ gọi là giang hồ, lật xem cố sự trong sách là được rồi.
Trần Bình An mặc pháp bào Kim Lễ, nhờ vậy bớt đi rất nhiều phiền phức. Sau khi hai người ngồi xuống bên cạnh bàn, Trần Bình An lấy ra một bình rượu hạt sương mua ở kinh thành nước Thanh Loan, rót cho Chu Liễm một ly.
Chu Liễm sảng khoái uống cạn một hơi, không cần Trần Bình An rót rượu, liền cầm lấy bình rượu rót đầy cho mình.
Bùi Tiền nhắc nhở:
- Lão đầu bếp ngươi uống ít một chút, uống rượu nhiều tổn thương thân thể. Hơn nữa một bình rượu hạt sương giá ba lượng bạc đấy.
Chu Liễm bắt đầu rót chậm uống chậm, nhỏ giọng hỏi:
- Công tử định khi nào phá vỡ giới hạn, bước vào cảnh giới thứ sáu?
Trong lòng Trần Bình An đã sớm có quyết định, nói:
- Chờ thêm một thời gian đi, còn một phần cơ duyên có thể tranh giành được.
Trần Bình An không nói kỹ cơ duyên là gì, dù sao hai chữ “mạnh nhất” còn hư ảo hơn võ vận một nước có thể hiển hóa thành cảnh sắc. Hắn cười nói:
- Nếu muốn ta đến những bí cảnh sau khi động tiên đất lành tan vỡ để thử vận may, giành cơ duyên, đoạt pháp bảo, ước ao tìm được các loại truyền thừa và di vật tiên nhân, ta không dám lắm.
Nhưng dựa vào từng quyền tích góp ra cơ sở võ đạo, Trần Bình An cảm thấy thử xem cũng không sao. Có điều hắn cũng biết, chỉ cần Tào Từ vẫn còn ở cảnh giới thứ năm, đừng nói là Trần Bình An hắn, bất cứ ai cũng không có hi vọng.
Lão đại kiếm tiên từng chính miệng nói, võ học tu dưỡng của Tào Từ cách biệt quá xa với võ phu cùng thế hệ, mỗi cảnh giới đều sẽ là mạnh nhất thế gian.
Khi đó Ninh Diêu còn không phục lắm, nói rằng cho dù sư phụ của Tào Từ là người đứng đầu võ đạo của bốn thế giới, võ vận cũng có thể hiển hóa cụ thể, nhưng trời lớn đất lớn, mỗi ngày đều có gió mây bất ngờ, Tào Từ làm sao nhất định mọi cảnh giới đều mạnh nhất? Chẳng lẽ tổ tiên các đời của Tào Từ đều mở cửa tiệm, một nhà độc chiếm lũng đoạn võ vận thiên hạ?
Khi đó Trần Thanh Đô đã nói một câu khiến Trần Bình An ghi nhớ sâu sắc: “Tào Từ người ta vốn mạnh như thế, từ tố chất và thiên phú, cho đến tính tình và võ vận đều như vậy, không có đạo lý gì để nói.”
Lúc ấy Trần Bình An vừa liên tục thua Tào Từ ba trận, bản thân hắn không cảm thấy gì, nhưng Ninh Diêu lại rất tức giận. Nhìn Ninh Diêu như vậy, Trần Bình An lại rất vui vẻ, kết quả càng khiến Ninh Diêu tức giận hơn.
Vào lúc này Chu Liễm bất giác buột miệng nói ra:
- Thiếu gia là nhân vật hồng phúc ngang trời, há có thể vào núi báu mà tay không trở về. Hôm nay lão nô đã là cảnh giới Viễn Du, cũng hiểu biết một chút về bí cảnh tiên phủ sau khi động tiên đất lành tan vỡ. Tu sĩ năm cảnh giới cao không vào được, vừa vào thì bí cảnh sẽ bất ổn, dễ dàng sụp đổ, bị những dòng thời gian vô trật tự kia cuốn theo, hao mòn đạo hạnh nghiêm trọng.
- Không có tu sĩ năm cảnh giới cao âm thầm dòm ngó, lại có lão nô giúp đỡ một tay, thiếu gia có thể đi thử vận may. Lần sau nếu gặp phải chỗ như vậy, thiếu gia cứ dẫn theo lão nô, dù sao võ phu thuần túy chúng ta cũng không chịu sự ràng buộc này.
Trần Bình An suy nghĩ một lúc, gật đầu nói:
- Có lý. Ta đã quen tránh những nơi này, bây giờ xem ra phải thay đổi tư tưởng trước đây một chút.
Bùi Tiền vừa nghe được câu “hồng phúc ngang trời”, lập tức dựng mày trừng mắt, đến khi nghe được những lời sau đó của Chu Liễm, chân mày của cô mới giãn ra.
Chu Liễm như có suy nghĩ.
Sau đó thời gian trên chiếc thuyền tiên gia này thong thả trôi đi.
Rất nhiều nơi địa thế thuận lợi treo biển hiệu động phủ tiên gia trên núi, nhưng lại không xây dựng được một bến thuyền tiên gia cần liên tục tiêu hao tiền thần tiên, cho nên chiếc thuyền này không thể “cập bến”. Có điều đã sớm chuẩn bị một số thuyền nhỏ có thể ngự gió trên không, đưa khách trên thuyền đến những bến thuyền nhỏ của các ngọn núi kia.
Khi đến đài câu cá nổi tiếng nằm ở biên cảnh phía bắc nước Thanh Loan, người xuống thuyền rất nhiều. Trần Bình An, Bùi Tiền và Chu Liễm đi tới đầu thuyền, nhìn thấy giữa hai ngọn núi lớn nguy nga, có biển mây to lớn chảy qua như khe suối. Hai đài câu cá lớn nằm hai bên đối diện nhau, xây dựng bên bờ biển mây trên đỉnh núi lớn. Thỉnh thoảng có thể nhìn thấy chim chóc nhiều màu sắc rung cánh phá vỡ biển mây, vẽ một vòng cung sau đó lại rơi vào biển mây.
Bùi Tiền nhìn đến mê mẩn, chỉ hận mình không thể ngự gió đi lại. Nếu không vù một cái chạy qua, tay cầm gậy leo núi đập vào đám chim chóc cá bay kia, bắt lấy rồi chạy về thuyền, chắc có thể bán được không ít tiền. Không chừng chạy thêm mấy chuyến, cô sẽ có thể mua một hộp đựng bảo vật, thậm chí là giá để bảo vật rồi.
Chu Liễm là võ phu cảnh giới thứ tám, nhưng trên đường theo Trần Bình An vẫn luôn đi bộ, chưa từng ngự gió đi xa.
Trần Bình An tò mò hỏi:
- Chu Liễm, ngươi không suy nghĩ một chút sao? Không cảm thấy bạc đãi cảnh giới của mình à?
Chu Liễm lắc đầu cười nói:
- Thiếu gia, lão nô ở quê nhà đã sớm chán ngấy ánh mắt kinh ngạc của người khác rồi, thật sự không có hứng thú với chuyện này.
Thạch Nhu ở một bên im lặng ngắm cảnh. Đối với những suy nghĩ khác thường của Chu Liễm, cô đã không cảm thấy ngạc nhiên, nhìn mãi thành quen rồi.
- --------
Lúc nhóm người Trần Bình An ngắm cảnh, Vi Lượng đang ngồi bên cạnh bàn đọc sách trong một gian phòng, viết chút gì đó. Bên tay đặt một hộp gỗ tử đàn cổ xưa, trong đó chứa đầy dao rọc giấy “quân tử võ bị”.
Hắn lấy một con dao khắc bằng trúc bên trong ra, dùng làm đồ chặn giấy tạm thời.
Mặc dù Vi Lượng dùng lý do du sơn ngoạn thủy cho khuây khỏa để rời khỏi kinh thành, nhưng thực ra trên đoạn đường này vẫn đang làm một việc. Chuyện này quan hệ với nước Thanh Loan nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ.
Hắn đang giúp một người biên soạn xếp hạng của tiên sư gia phả Bảo Bình châu, cần lập một phần danh sách nêu rõ nội dung cốt lõi.
Vi Lượng đã soạn ra một bản phác thảo gồm chín thứ hạng.
Hạng một, chỉ có cảnh giới Tiên Nhân trong năm cảnh giới cao ở Bảo Bình châu, mới có thể bước vào hàng ngũ này.
Hạng hai, cảnh giới Ngọc Phác trong năm cảnh giới cao. Hoặc là lập nên công lao diệt quốc, giúp kỵ binh họ Tống Đại Ly xuôi nam.
Hạng ba, cảnh giới Nguyên Anh. Hoặc là công lao tương đương với mở rộng lãnh thổ một châu.
Hạng tư, cảnh giới Kim Đan.
Dần dần hạ xuống, cho đến hạng chín cuối cùng.
Phân chia cụ thể khá phức tạp, không liên quan tuyệt đối đến cảnh giới của luyện khí sĩ. Phải tham khảo triều đình Đại Ly, nhất là quân đội lần này xuôi nam, ghi chép công lao lớn nhỏ.
Trong đó Nguyễn Cung của Long Tuyền kiếm tông là người đứng đầu hạng hai, còn là người tạm thời đứng ở vị trí thứ nhất trong sổ tiên nhân, tương lai sẽ được họ Tống Đại Ly dùng làm sổ công lao.
Ngoài ra còn có hai tổ đình Binh gia là núi Chân Vũ và miếu Phong Tuyết, cùng với đại phái kiếm tu là vườn Phong Lôi và núi Chính Dương.
Phía dưới nữa là những thế lực như cung Trường Xuân Đại Ly, núi Vân Hà, họ Hứa thành Thanh Phong.
Tất cả đều cần có một hai danh ngạch, nhất định phải được ghi vào sổ sách vinh quang này, hơn nữa xếp hạng chắc chắn không thấp.
Còn như tu sĩ sở hữu lệnh bài thái bình vô sự do Hình bộ Đại Ly ban phát, tất nhiên cùng nằm trong hàng ngũ.
Sau này các lộ tiên sư dẫn đầu quy phục Đại Ly, bất kể xuất thân là tiên sư gia phả hay tu sĩ sông núi, đều có thể bước vào trong đó.
Gần đây Vi Lượng vẫn đang hoàn thiện chi tiết, chuyện này cần người kia cung cấp cho hắn rất nhiều tình báo, thậm chí là nội tình liên quan đến vận mệnh của một nước, sống chết của đế vương.
Vi Lượng đặt bút lông trong tay vào giá bút, sau đó đứng lên, chậm rãi đi dạo trong phòng.
Sở dĩ hắn chịu làm chuyện này, cũng không phải vì đại thế ép buộc, phải nương nhờ con hổ thêu kia. Trên thực tế với tính tình của Vi Lượng, nếu Thôi Sàm không thể thuyết phục hắn, hắn có thể từ bỏ công sức hơn hai trăm năm ở nước Thanh Loan, đi châu khác làm lại. Chẳng hạn như Bắc Câu Lô Châu càng coi trời bằng vung, hay như Đồng Diệp châu thế cuộc khá vững chắc. Đã có nền tảng của nước Thanh Loan, chẳng qua là vất vả thêm một hai trăm năm mà thôi.
Nhưng lần này Thôi Sàm tự mình tới nước Thanh Loan, người đầu tiên mà lão tìm đến chính là Vi Lượng hắn. Thôi Sàm và hắn đã trò chuyện thẳng thắn với nhau một phen, sau khi biết được phương hướng quốc sách của vị quốc sư Đại Ly này và vương triều Đại Ly, Vi Lượng đã quyết định hợp tác.
Hợp tác chứ không phải quy phục. Vi Lượng không nhân nhượng vì lợi ích, không cò kè bớt một thêm hai, Thôi Sàm cũng không chất vấn chuyện này.
Không thể phủ nhận, thứ mà Thôi Sàm theo đuổi còn sâu xa hơn Vi Lượng. Cho nên Vi Lượng rất mong chờ một ngày nào đó, cảnh tượng mà Thôi Sàm nói sẽ xuất hiện trước mắt mình.
“Khắc quốc pháp Đại Ly lên bia văn, lập bia trên đỉnh dãy núi Bảo Bình châu!”
Vi Lượng đi tới cửa sổ, ánh mắt nóng bỏng, trong lòng có hào khí sôi sục, còn hơn cả biển mây cuồn cuộn dưới chân chỉ chảy qua giữa hai ngọn núi lớn.
Đại trượng phu làm như vậy, mới có thể không uổng đời này, không phụ học vấn bản thân.
- --------
Trần Bình An đã từng ngồi ba chiếc thuyền vượt châu, biết chiếc thuyền tên là Thanh Y này vốn chạy chậm, không ngờ lại đi khá nhiều đường vòng. Thuyền cố ý đi dọc theo đông bắc và vùng biên giới phía bắc nước Thanh Loan, thả vài nhóm khách xuống, sau đó mới rời khỏi lãnh thổ nước Thanh Loan.
Vốn tưởng rằng có thể đi nhanh hơn một chút, nhưng thuyền lại dừng ở lãnh thổ một nước chư hầu phía bắc nước Vân Tiêu. Cuối cùng một ngày vào giữa trưa, thuyền dứt khoát lơ lửng giữa trời, dừng lại ở khu vực Trung Nhạc của nước nhỏ này. Bọn họ nói là hoàng hôn ngày mai mới lên đường, hành khách có thể đến ngọn Trung Nhạc kia ngắm cảnh. Nhất là vừa dịp gặp được đánh cược đá một năm bốn lần, có cơ hội thì nên cược nhỏ cho vui, biết đâu gặp được may mắn thì càng là chuyện tốt.
Ngọn Trung Nhạc này của nước Thừa Thiên có đá đăng hỏa, được khen là “núi Vân Hà nhỏ”. Một khi đặt cược đúng, dùng mấy đồng tiền hoa tuyết là có thể mở ra tủy đá đăng hỏa thượng đẳng, chỉ cần lớn chừng nắm tay thì cũng có thể phất lên chỉ trong một đêm.
Mười năm trước có một tu sĩ sông núi, đã dùng hai mươi sáu đồng tiền hoa tuyết còn lại trên người, mua một khối đá đăng hỏa không ai coi trọng, lớn như cái đôn. Kết quả mở ra tủy đá đăng hỏa đỏ như ngọn lửa, giá trị ba mươi đồng tiền tiểu thử.
Đương nhiên nếu khách không muốn xuống thuyền, cũng có thể ở lại trên thuyền nghỉ ngơi.
Nghe tỳ nữ trên thuyền giải thích, Trần Bình An nhất thời không biết nói gì. Sau khi tỳ nữ kia rời đi, Trần Bình An đi tới cửa sổ, nhìn cái gọi là Trung Nhạc một nước cách đó không xa, dở khóc dở cười.
Gọi là Trung Nhạc, nhưng không cần so sánh với núi Phi Vân ở quê nhà, ngay cả núi Lạc Phách chỉ thuộc về hắn cũng hùng vĩ hơn ngọn núi này rất nhiều.
Trần Bình An đành phải dẫn theo ba người chuẩn bị xuống thuyền, chờ những chiếc thuyền nhỏ qua lại, đưa bọn họ tới ngọn “núi lớn” Trung Nhạc nước Thừa Thiên kia.
Hắn dùng cái mông để nghĩ cũng biết, thần linh của ngọn Trung Nhạc này và chủ nhân của thuyền Thanh Y, chắc chắn là đồng bạn làm ăn, đôi bên cùng có lợi.
Trong lúc bọn Trần Bình An chờ thuyền nhỏ đón người, đám hành khách xung quanh đều theo bản năng tránh ra, dù không ngang nhiên chỉ chỉ trỏ trỏ nhưng khó tránh khỏi thì thầm.
Lúc trước đám người giang hồ chịu thiệt dưới tay “kiếm tu trẻ tuổi”, đến phòng xin lỗi không có kết quả, đã sớm ảo não xuống thuyền, không dám ở lâu.
Tâm tình của mọi người khác nhau. Tiên sư gia phả dù tuổi tác lớn hay nhỏ, phần nhiều là đố kị Trần Bình An nuôi dưỡng ra hai thanh phi kiếm bản mệnh, chỉ là ẩn giấu rất tốt. Tu sĩ sông núi thì rất sợ hãi. Còn những người thế tục có tiền, sau khi nghe nhân sĩ các phương trên thuyền đàm luận thổi phồng, phần lớn đều cảm thấy kiếm tu quả nhiên ngang ngược bá đạo giống như lời đồn.
Chỉ có phía nhà thuyền gần đây khá cung kính với nhóm người Trần Bình An, chọn ra một cô gái xinh đẹp, thỉnh thoảng gõ cửa đưa tới một mâm rau quả tiên gia.
Trên thuyền còn có một lầu các nhỏ được gọi bằng cái tên khá hay là “nhà Tiên Khí”, dùng cho một số khách quý ngồi thuyền Thanh Y lưu lại thư pháp.
Trần Bình An khéo léo từ chối, chỉ bảo Chu Liễm đi viết một bức tranh chữ ứng phó.
Bọn Trần Bình An ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ dưới đáy có khắc bùa chú, ánh sáng vàng lưu chuyển, đi tới chân núi Trung Nhạc kia.
Khách hành hương chân chính không nhiều, đa số là con cháu quyền quý và hào kiệt giang hồ nước Thừa Thiên tới đây cược đá. Có điều những nhân vật đã quen ngước mặt lên trời ở vương triều thế tục này, đụng phải khách từ thuyền nhỏ đi xuống, âm thanh đi đường nói chuyện đều nhỏ hơn bình thường rất nhiều.
Trên thuyền có ba người đưa hương thuộc các miếu thờ khác nhau ở Trung Nhạc, vì tranh đoạt khách mà thiếu chút nữa đánh nhau. Người buôn bán hương khói của thần miếu Trung Nhạc là tính tình nóng nảy nhất. Còn lại là người buôn bán hương khói của một đạo quán giữa sườn núi và một ngôi chùa ở chân núi, mặc dù nhìn như tránh né xung đột, nhưng trong lời nói cũng là dao mềm bay loạn.
Ba người thi triển sở trưởng, đều có thu hoạch. Lần này bọn họ ngồi thuyền nhỏ đi lên lôi kéo, đều dẫn theo một số hành khách muốn thắp hương xuống thuyền.
Quản sự trên thuyền đặc biệt dẫn người đưa hương của miếu sơn thần Trung Nhạc kia tới chỗ nhóm người Trần Bình An, giới thiệu một chút.
Sau khi nghe nói Trần Bình An tạm thời không muốn xin hương, người đàn ông kia vẫn tươi cười, nói vài câu khách sáo theo thông lệ, chẳng hạn như Trần công tử đại giá quang lâm đã là vinh hạnh rồi.
Đợi đến khi Trần Bình An đặt chân xuống đất, người buôn bán hương khói kia vẫn ở trên thuyền, đứng bên cạnh lan can, nhổ một ngụm nước bọt ra bên ngoài.
Chu Liễm cười híp mắt nói:
- Thiếu gia thấy thế nào? Hay là lão nô lần đầu tiên ngự gió, khen thưởng cho tên tráng sĩ này?
Trần Bình An xua tay:
- Không chừng cả đời cũng chỉ gặp nhau một lần, không ân không oán, so đo chuyện này làm gì.
Bùi Tiền tò mò hỏi:
- Sao vậy?
Chu Liễm cười nói:
- Có người đang đi tiểu trên đầu ngươi, mau ngẩng đầu nhìn.
Bùi Tiền trợn mắt.
Dưới chân núi có một con đường dài chuyên môn cung cấp cược đá. Trên đường có mấy chục cửa tiệm lớn lớn nhỏ nhỏ, trong ngoài chất đầy đá đăng hỏa màu xám, nhỏ nhất chỉ bằng bàn tay, lớn nhất cao bằng thân người, nặng đến hơn vạn cân. Đá lớn như vậy phần nhiều là bảo vật trấn tiệm.
Loại đá đặc biệt của Trung Nhạc nước Thừa Thiên này, được gọi là đá đăng hỏa. Nguyên nhân là vì tủy đá đăng hỏa phẩm chất cao nhất trong truyền thuyết, đỏ tươi như máu, hình dáng sền sệt, không có tạp chất, hơn nữa còn chập chờn giống như như đèn đóm, tay cầm một khối có thể chấn nhiếp ma quỷ. Mà điểm đặc biệt là trước khi mở đá, ngay cả tu sĩ địa tiên cũng không nhìn thấu tình trạng bên trong.
Trần Bình An không cảm thấy hứng thú với chuyện này, bèn cho ba người Bùi Tiền mỗi người mười đồng tiền hoa tuyết, bảo bọn họ đi lựa chọn mở đá. Hắn thì một mình lên núi, muốn đến miếu thờ Trung Nhạc trên đỉnh núi xem thử, ước hẹn lúc hoàng hôn sẽ gặp nhau ở một nhà trọ dưới chân núi.
Bùi Tiền hơi ngại ngùng, hỏi xem có thể không mua đá hay không.
Trần Bình An cười đưa tay nhéo gương mặt đen nhẻm của cô bé:
- Dù sao mười đồng tiền hoa tuyết đã thuộc về ngươi rồi, thích xài thế nào cứ tùy ý.
Bùi Tiền à một tiếng.
Đợi đến khi Trần Bình An đi xa, bắt đầu bước chân lên núi, Bùi Tiền lập tức nhảy nhót một cái, nhe nanh múa vuốt, chơi đùa Phong Ma kiếm pháp một phen.
Chu Liễm còn chưa đi dạo hết hai cửa tiệm, đã mua một khối đá đăng hỏa thuận mắt, mở ra tại chỗ, kết quả tiền vốn không về. Bùi Tiền giận đến mức thiếu chút nữa liều mạng với lão.
Chu Liễm dùng một tay ấn đầu Bùi Tiền, mặc cho tay chân Bùi Tiền vung loạn.
Thạch Nhu cầm mười đồng tiền hoa tuyết, nhìn thật cẩn thận, nghe rất dụng tâm, đi dạo từng tiệm. Cô thường cầm một khối đá đăng hỏa lên xem kỹ cả buổi, sau đó lại để xuống, chần chừ không tiêu một đồng tiền hoa tuyết nào.
Chu Liễm khen ngợi không thôi:
- Thật là biết cách sống.
Bùi Tiền đi theo bên cạnh Thạch Nhu, mỗi lần đều nhìn chằm chằm vào đá đăng hỏa kích thước khác nhau, giống như muốn dán cả con ngươi lên đó. Cái mông bị Chu Liễm đá nhiều lần, còn bị Chu Liễm cười nhạo là trong mắt chỉ có tiền, vậy trong mắt chỉ có đá thì tính là gì?
Rất nhanh Chu Liễm lại hối hận vì không theo Trần Bình An lên núi.
Hai nữ nhân lớn nhỏ Thạch Nhu và Bùi Tiền, đi dạo cửa tiệm đúng là nghị lực trác tuyệt, chẳng những muốn dạo qua từng nhà từng nhà, còn muốn xem qua từng khối từng khối đá đăng hỏa. Hơn nữa chỉ cần có khách mua đá đăng hỏa, bảo cửa tiệm mở giúp, hai người đều sẽ dừng chân không đi tiếp, nhìn từ đầu đến cuối, vẻ mặt nghiêm túc, giống như còn quan tâm kết quả hơn đám phú hào tiêu tiền như nước kia.
Chu Liễm đi đường không tốn sức, nhưng trong lòng mệt mỏi.
Đến khi Chu Liễm ngẩng đầu nhìn sắc trời, đoán rằng Trần công tử đã sắp xuống núi đi tới chân núi, Thạch Nhu cuối cùng đã mua một khối đá đăng hỏa lớn chừng bàn tay. Theo như cửa tiệm đề giá, tốn hai đồng tiền hoa tuyết.
Mở đá ra, lại có tủy đá đỏ tươi lớn chừng ngón cái, ngay cả chủ tiệm cũng cảm thấy ngạc nhiên. Không phải vì một chút tủy đá như vậy giá trị bao nhiêu, mà là đá đăng hỏa rất nhỏ lại có thể mở ra nhiều tủy đá như vậy, quả thật rất hiếm thấy.
Thạch Nhu mỉm cười, không định bán khối tủy đá đỏ tươi sền sệt kia.
Sau khi rời tiệm, Bùi Tiền đột nhiên kéo kéo tay áo Thạch Nhu, nhỏ giọng mở miệng nói:
- Thạch Nhu tỷ tỷ, tỷ cho ta mượn tám đồng tiền hoa tuyết được không?
Thạch Nhu hiếu kỳ hỏi:
- Ngươi không mua đá, mượn tiền làm gì?
Bùi Tiền nghiêm túc nói:
- Ta mua đá.
Thạch Nhu càng nghi ngờ:
- Đã đi dạo xong rồi, nhiều cửa tiệm như vậy, ngươi còn nhớ là khối nào sao?
Bùi Tiền gật đầu.
Thạch Nhu liền cười đưa tám đồng tiền hoa tuyết còn lại cho Bùi Tiền.
Bùi Tiền hít sâu một hơi, bắt đầu ba chân bốn cẳng chạy như bay. Thạch Nhu và Chu Liễm nhìn nhau một cái, cùng bước nhanh theo, không biết trong hồ lô của Bùi Tiền rốt cuộc bán thuốc gì.
Cuối cùng tại một cửa tiệm lớn các loại đá đăng hỏa chất đống thành núi, hai người phát hiện Bùi Tiền đứng ở một góc, cố sức “lôi ra” một khối đá đăng hỏa, đoán chừng phải nặng mấy trăm cân, hai tay cô bé cũng chưa chắc ôm hết.
Đá đăng hỏa mặc dù không nhìn ra tình trạng bên trong, nhưng đã có lịch sử khai thác mấy trăm năm, cũng có nghiên cứu về mấy mạch đá ở chân núi Trung Nhạc. Cộng thêm kinh nghiệm phong phú mở ra tủy đá nhiểu lần, cho nên người giám định của từng tiệm sẽ có suy đoán đại khái, mặc dù khó tránh khỏi có chút sai lệch, nhưng bình thường cũng không lớn. Thỉnh thoảng sẽ có khách hàng kiếm được lời nhỏ, nhưng gần như sẽ không để người ta kiếm được lời lớn.
Cho nên không ít đá đăng hỏa mặc dù kích thước lớn nhưng giá cả lại rất thấp, ngược lại có một số đá không lớn nhưng giá cả rất cao.
Khối đá đăng hỏa bên chân Bùi Tiền kích thước rất lớn, nhưng chỉ đề giá hai mươi đồng tiền hoa tuyết, đã đặt trong tiệm hơn một trăm năm nhưng không ai hỏi thăm.
Bùi Tiền bắt đầu nghiêm túc mặc cả với chủ tiệm, nói rằng cô chỉ có mười lăm đồng tiền hoa tuyết, đã là tất cả tài sản vất vả tích góp nhiều năm rồi.
Lão chủ tiệm cảm thấy cô bé này rất thú vị, nhìn không giống như con cháu của gia đình giàu có, da dẻ rất đen, nhưng lại có thể sở hữu mười lăm đồng tiền hoa tuyết. Đó là một vạn năm ngàn lượng bạc trắng, ở thành trì quận huyện nước Thừa Thiên đã xem như giàu có rồi.
Thực ra lão chủ tiệm cảm thấy giảm năm đồng tiền hoa tuyết, còn mười lăm đồng, cái giá này cũng không chịu thiệt. Khối đá đăng hỏa lớn này đã được thầy giám định tính toán là mười đồng tiền hoa tuyết, có đặt ở đây thêm một trăm năm nữa, cửa tiệm đã truyền đến tay cháu mình rồi cũng chưa chắc bán được.
Có điều lão và Bùi Tiền vẫn một người chào giá quá cao, một người hạ giá quá thấp, mặc cả với nhau khoảng nửa nén nhang. Lão chủ tiệm chỉ muốn xem thử, tiểu khuê nữ này vì muốn tiết kiệm năm đồng tiền hoa tuyết, sẽ nghĩ ra những lý do và cái cớ nào.
Cuối cùng lão cười ha hả đồng ý. Kết quả lại thấy nha đầu đen nhẻm kia lấy ra một nắm tiền hoa tuyết, nhặt ra ba đồng bỏ vào tay áo của mình, còn dư mười lăm đồng đều đưa cho lão. Ông lão thấy vậy khóe miệng co giật, tiểu cô nương ngươi đúng là không phúc hậu lắm.
Bùi Tiền giả ngốc, nhếch miệng cười.
Thạch Nhu làm như không quen biết Bùi Tiền.
Chu Liễm lại giơ ngón cái lên với cô bé:
- Không hổ là đại đệ tử khai sơn.
Lão chủ tiệm cũng không tức giận, ngược lại cảm thấy tiểu cô nương thông minh tinh nghịch này là một nhân tài buôn bán, bèn cười hỏi:
- Có muốn tiệm chúng ta giúp ngươi mở đá tại chỗ không?
Bùi Tiền gật đầu nói:
- Muốn mở, nếu không nặng như vậy ta không ôm được. Dựa theo quy củ chỗ các người, đá đăng hỏa dưới hai mươi đồng tiền hoa tuyết không có đền bù mở đá. Còn nữa, nếu như mở ra đá tốt, có cho cửa tiệm một chút hoa hồng hay không là do người mua tự nguyện. Đến lúc đó ta không cho lão tiên sinh ngài hoa hồng, ngài cũng không được tức giận.
Lão chủ tiệm vui vẻ gật đầu đáp ứng.
Bùi Tiền đột nhiên bảo ông lão chờ một chút, quay đầu nhìn Chu Liễm.
Chu Liễm hiểu ngầm trong lòng, gật đầu nói:
- Mở đi, thiếu gia không có mặt, còn có ta ở đây.
Bùi Tiền nghiêng đầu, cười rạng rỡ, bỗng nhiên quay đầu vung tay lên với lão chủ tiệm:
- Mở đá!
Sau đó cô trả lại ba đồng tiền hoa tuyết còn dư cho Thạch Nhu, nhỏ giọng nói:
- Còn thiếu tỷ năm đồng, sau này sẽ trả lại cho tỷ.
Một nén nhang sau, cả con đường dài ở chân núi đều rung động.
Bùi Tiền vốn đeo nghiêng cái bọc, lúc này lại có thêm một bọc hành lý nặng nề.
Ở phía sau, ông chủ cửa tiệm kia đấm ngực giậm chân, hối hận không thôi.
Tủy đá đăng hỏa trăm năm khó gặp, giá trị ba đồng tiền cốc vũ!
Hai tay Chu Liễm lồng trong tay áo, cười híp mắt chậm rãi theo sau Bùi Tiền nghênh ngang.
Thạch Nhu chỉ cảm thấy khó tưởng tượng.
Trần Bình An vừa lúc xuống núi, đi tới đầu cuối con đường.
Thấy Bùi Tiền bị nhiều người nhìn chăm chú, Trần Bình An không hiểu chuyện gì.
Vừa nhìn thấy bóng dáng quen thuộc kia, Bùi Tiền lập tức chạy như bay tới, mệt đến thở hồng hộc.
Trần Bình An cười hỏi:
- Thế nào rồi, là Chu Liễm hay Thạch Nhu mua hời à?
Bùi Tiền chỉ cười.
Chu Liễm và Thạch Nhu đi đến bên cạnh hai thầy trò. Chu Liễm nhẹ giọng cười nói:
- Thiếu gia, con nhóc bồi tiền này đã dùng mười lăm đồng tiền hoa tuyết, mở ra một khối tủy đá đăng hỏa, giá trị ít nhất ba đồng tiền cốc vũ.
Trần Bình An cười xoa đầu Bùi Tiền:
- Lợi hại như vậy à.
Cao hứng thì có cao hứng, nhưng không đáng nói là kinh ngạc hay mừng rỡ.
Cặp mắt Bùi Tiền híp lại thành hình trăng non, nghiêng đầu qua, vất vả lấy cái bọc xuống, đưa cho Trần Bình An:
- Sư phụ, tặng cho ngài.
Trần Bình An cười khoát tay nói:
- Tự mình giữ đi, sau này chờ ngươi tích góp tiền mua giá để bảo vật rồi, đặt ở chỗ trên cùng dễ thấy nhất. Ai nhìn thấy cũng hâm mộ, biết ngươi là một tài chủ nhỏ.
Bùi Tiền lắc đầu, giải thích:
- Con nhớ ra rồi, ngày mà con bắt được thỏ hoang rồi lại thả, hóa ra là ngày sinh của sư phụ ngài. Vừa lúc dùng thứ này làm quà sinh nhật tặng sư phụ.
Trần Bình An ngạc nhiên, trầm mặc rất lâu, lòng bàn tay đặt trên đầu nhỏ của Bùi Tiền, cười nheo mắt lại:
- Thế à, vậy sư phụ sẽ nhận nhé.
Đây là lần đầu tiên Chu Liễm nhìn thấy Trần Bình An vui vẻ như vậy.
Lúc trước trùng phùng với Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà, Trần Bình An dĩ nhiên cũng rất vui vẻ, nhưng không phải loại vui vẻ hiện giờ.
Bùi Tiền gật đầu, xin lỗi:
- Nhưng mà sư phụ, mồng năm tháng năm sang năm, con chưa chắc có thể tặng lễ vật tốt như vậy.
Trần Bình An cầm lấy cái bọc kia, bỏ vào hòm trúc sau lưng, dắt tay Bùi Tiền cùng đi trên đường.
Bùi Tiền phấn khởi kể lại cảnh tượng sau khi mở đá, mọi người đều mở to mắt. Trần Bình An mỉm cười nghe cô bé lải nhải.
Trời chiều ngả về phía tây.
Ánh tà dương kéo dài bóng dáng một lớn một nhỏ.
Hai tay Chu Liễm vẫn lồng trong tay áo, ánh mắt Thạch Nhu dịu dàng.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT