Trưởng thành chính là tràn đầy sức sống trong từng ngày, từng khoảnh khắc nhỏ, tựa như dây leo vươn lên khỏi mặt nước, quấn quanh, gắn chặt, vươn dài…

Hóa ra, người đó mới là ta.

Là ta – chân thật nhất – hoàn chỉnh nhất.

Hồi Thứ Bảy: Loạn Ở Trình Quốc

Bình rượu từ trên mái hiên lăn lông lốc, rớt xuống đất kêu “choang” một tiếng, vỡ tan tành.

Vì tiếng động này, Khương Trầm Ngư dừng tay, một bóng râm nhàn nhạt phủ xuống, nàng ngẩng đầu, phát hiện Phan Phương không biết đã nhảy xuống từ lúc nào, y đang đứng trước mặt nàng.

Ánh mắt hai người giao nhau giữa không trung, Phan Phương chợt đưa tay ấn lên dây đàn, trầm giọng nói: “Đủ rồi”.

Khương Trầm Ngư cười: “Tướng quân cảm thấy khá hơn chưa?”

Phan Phương chăm chú nhìn nàng, trong đáy mắt sâu thẳm có một cảm xúc khó có thể phân giải: “Có phải nếu ta không bảo dừng, nàng sẽ đàn mãi?”.

Khương Trầm Ngư nghiêng đầu, cố ý giả bộ trầm ngâm, lại thấy ánh mắt áy náy của Phan Phương, không nhịn được bật cười, đứng dậy chậm rãi nói: “Ta không dừng vì tướng quân vẫn chưa tỉnh ngộ, nay tướng quân lệnh cho ta dừng đàn, phải chăng đã thực sự ngộ ra?”.

Một tia dị sắc thoáng lướt qua mặt Phan Phương, tựa như gợn sóng lăn tăn, nhàn nhạt nhấp nhô, từ từ biến mất, cuối cùng cười như tự giễu: “Ta là một người thô lỗ, sao biết được ngộ với không ngộ, có điều ta biết rất rõ hai điều”.

Khương Trầm Ngư nhướn mày.

“Thứ nhất Di Thù không phải là Tần nương”. Phan Phương nhìn bầu trời phía xa, bình minh bắt đầu ló dạng, dưới ánh sáng, gương mặt của y cực kỳ rõ nét, cặp lông mày hơi nhướn, hốc mắt hơi sâu, sống mũi thẳng tắp, khóe môi kiên nghị, vẻ mặt trang nghiêm, nhưng ánh mắt lại dịu dàng, trước đây Khương Trầm Ngư chưa từng thấy nam tử nào có thể kết hợp hai đặc tính khác biệt hoàn toàn như kiên nghị và dịu dàng một cách hoàn mỹ đến thế.

Phan Phương quay người, ánh mắt chiếu thẳng vào nàng, nói từng tiếng rành rọt: “Ta tuyệt đối không lẫn lộn hai người, cũng tuyệt đối không lấy ai để thay thế ai. Cho nên, nàng không cần lo lắng ta vì thế mà làm loạn trận tuyến, quên mất mục đích của chuyến đi này”.

Khương Trầm Ngư cắn môi, y thẳng thắn, thành thật như thế, ngược lại khiến nàng xấu hổ. Kỳ thực, đêm qua sở dĩ nàng không giải thích với bọn Di Thù vì sao y lại rơi lệ, có một phần nguyên nhân là hy vọng cử chỉ kinh động này sẽ dẫn tới hiệu quả bất ngờ – Dù gì, không phải nam nhân nào cũng dám khóc trước mặt người khác, huống hồ là vì một nguyên nhân cảm động lòng người như thế. Di Thù tuy giờ vẫn chưa biết, nhưng sau này có một ngày sẽ biết, mà ngày nàng ta biết, có lẽ cũng chính là khi nàng ta rơi vào bẫy tình. Thế nhưng, giờ đây Phan Phương lại nói rõ với nàng rằng y sẽ không vì Di Thù giống Tân nương mà nảy sinh tình cảm đặc biệt nào với Di Thù. Như thế, bỗng khiến Khương Trầm Ngư cảm thấy mình hành động như một kẻ tiểu nhân.

“Thứ hai, Tần nương nàng…”, Phan Phương đặt tay lên tim mình: “Ở nơi đây, hơn nữa, sẽ luôn ở đây, cho đến lúc chết cùng ta”.

Mắt Trầm Ngư trở nên mông lung – Đây thực sự là lời yêu thương đẹp nhất thế gian. Đẹp đến nỗi khiến nàng không thể nói gì.

Bởi vì, cho dù nàng nói gì đều là làm vấy bẩn nó. Nàng chỉ có thể cúi đầu. Chợt nghe Phan Phương nói: “Đưa tay ra”.

Nàng sững người, vô thức giơ hai tay ra. Cảm thấy ngón tay lành lạnh, nàng ngước mắt, hóa ra là Phan Phương lấy thuốc thoa lên tay cho nàng.

Nàng đàn suốt một đêm, mười ngón tay đã đau không chịu nổi, có chỗ còn rách da, đau buốt như lửa đốt. Nhưng trước đó gắng gượng nén đau, không ngờ Phan Phương lại tinh tế đến vậy, đến chuyện nhỏ này cũng chú ý tới.

Tay Phan Phương cực kỳ khéo léo, gần như không chạm vào da nàng, đầu tiên là tay trái, sau là tay phải, cảm giác mát lạnh dần thay thế đau đớn bỏng rát, Khương Trầm Ngư cảm kích: “Đa tạ”.

Phan Phương cất thuốc đi, nhìn nàng chăm chú, thấp giọng nói: “Nàng là một cô nương tốt. Thiên tư băng tuyết, lại thiện lương”.

Khương Trầm Ngư sững sờ, có chút kinh ngạc vì y bỗng nói ra lời này, đang định nói vài lời khiêm nhường, lại thấy ánh mắt Phan Phương chùng xuống vài phần, đáy mắt tựa như ngậm ngùi: “Đời này công tử… và nàng không có duyên, đó là tôn thất của ngài”.

Trong khoảnh khắc đó, Khương Trầm Ngư gần như ngừng thở.

Y biết!

Hóa ra y biết!

Hóa ra y biết thân phận của nàng, biết nàng là ai, càng biết mối quan hệ giữa nàng và Cơ Anh!

Khương Trầm Ngư bất giác lùi về phía sau nửa bước, chỉ cảm thấy trái tim đang đập thình thịch trong lồng ngực, nàng từng phỏng đoán Giang Vãn Y có nhớ ra nàng không, nàng từng phỏng đoán hai trăm tám mươi người trên thuyền có biết nàng không, nhưng lại chưa từng nghĩ tới Phan Phương!

Ngày đó, khi cùng Chiêu Loan công chúa đến trà quán, từ đầu đến cuối nàng đều nép vào một bên, lại giả nam trang, Phan Phương đáng nhẽ không chú ý đến nàng mới phải, sau này lại càng không có cơ hội gặp mặt, tại sao y lại nhận ra nàng?

Nhìn gương mặt đột nhiên trắng bệch của nàng, Phan Phương nói: “Ta không nói ra đâu”.

Khương Trầm Ngư cắn môi, hồi lâu, mới gượng cười: “Chúng ta đúng là có duyên, phải không?”.

Hai người họ, một người là môn khách của Cơ Anh, một người từng là vị hôn thê của Cơ Anh, mà nay cùng làm sứ thần đi Trình quốc, phải hoàn thành nhiệm vụ chung – hoàn cảnh như thế, ban đầu làm sao có thể ngờ tới được? Thế sự an bài, quả nhiên khiến người ta dở khóc dở cười, ngậm ngùi khôn xiết.

Nàng cũng không sợ Phan Phương sẽ tiết lộ bí mật của nàng, chỉ là, chuyện cũ đã nhuốm bụi, lại bị một người có liên quan cố ý nhắc lại, sự kinh ngạc không kịp đề phòng đó và sự khốn đốn đó vẫn khiến nàng chua xót trong lòng.

Đặc biệt là, đối phương dùng những lời như thể ngợi khen nàng – “Đời này công tử và nàng không có duyên”.

Rất muốn bịt tai lại là có thể giả vờ mình không nghe thấy.

Rất muốn nhắm mắt lại là có thể giả vờ mình không nhìn thấy.

Rất muốn rất muốn như thế, nhưng cuối cùng, vẫn chỉ có thể im lặng đứng đó, nhìn thẳng vào hiện thực, không trốn được, cũng không bỏ được. Có lẽ đời này, hai chữ Cơ Anh, sẽ vĩnh viễn trở thành nỗi kỵ húy của nàng: Khơi ra, vết sẹo đậm sâu; che lại, âm thầm nhức nhối.

Đó là một sự tồn tại vừa bối rối, đau khổ mà không nỡ từ bỏ.

Bầu không khí xung quanh trong phút chốc trở nên gượng gạo, để xóa bỏ sự gượng gạo này, Khương Trầm Ngư ép mình ngẩng đầu, nhìn trả Phan Phương, nhướng mày, nhếch môi, cố gắng mỉm cười: “Thực ra…”.

Mới nói được hai tiếng, liền nghe thấy tiếng gọi chói tai, cùng với tiếng đập cửa ầm ầm, một người xông vào dịch trạm, chạy rất gấp, bước chân không ghìm được, ngã bịch xuống, lăn vài vòng trên đất, mãi mới dừng lại được, lão cũng chẳng buồn lau bụi trên mặt, gào lên với Khương Trầm Ngư: “Ngu cô nương, Phan tướng quân! Không hay rồi! Xảy ra chuyện lớn rồi!”.

Khương Trầm Ngư vội lên trước đỡ lão dậy: “Lý quản sự, xảy ra chuyện gì? Đừng cuống, từ từ nói…”.

“Không xong rồi, không xong rồi… xảy ra chuyện lớn rồi!”. Lý Khánh mặt xám noàn thân run lẩy bẩy, “Vừa nãy trong cung truyền tin ra, nói, hầu gia, hầu gia ngài…”.

Khương Trầm Ngư trong lòng chấn động, cả kinh: “Sư huynh làm sao? Lẽ nào sư huynh chữa bệnh… hỏng cho Trình vương sao?”. Nàng muốn nói là “làm chết”, nhưng lời đến miệng lại thấy không ổn, bèn lập tức sửa lại.

“Như thế vẫn còn tốt chán, hầu gia, hầu gia… Nghe nói đêm qua ngài mượn danh chẩn bệnh chơ Trình vương, ở lại trong cung, nửa đêm Trình vương đột nhiên nôn mửa, cung nhân chạy đi tìm hầu gia, ai ngờ, ai ngờ…”, Lý quản gia nói đến đây liền giậm chân, căng thẳng đến nỗi đầu mướt mồ hôi, “ai ngờ ngài không ở trong phòng mình! Mà là, mà là…”.

Khương Trầm Ngư hơi nheo mắt. Người khác hoảng loạn, ngược lại nàng càng trấn tĩnh, đáy mắt tựa hồ có băng sương ngưng đọng, lạnh lùng tiếp lời: “Mà là trên giường của người khác đúng không?”.

Lý Khánh sửng sốt: “Ngu cô nương đã biết rồi ư?”.

“Người kia có phải là La quý phi được Trình vương sủng ái nhất?”

Lý Khánh giậm chân đáp: “Chính là cô ta! Cô nương nói xem, đây, đây chẳng phải là… to gan tày trời, hoàn toàn không đếm xỉa đến thể diện của Bích quốc và tính mạng của chúng ta sao!”.

Khương Trầm Ngư quay đầu, nhìn Phan Phương: “Tướng quân thấy thế nào”.

Phan Phương trả lời rất ngắn gọn: “Âm mưu”.

“Vậy chúng ta còn đợi gì nữa”. Khương Trầm Ngư cười mỉa mai, quay người, cao giọng: “Người đâu, chuẩn bị xe”.

Lý Khánh hỏi: “Ngu cô nương định vào hoàng cung?”. “Ừ”.

Lý Khánh mừng rỡ: “Ngu cô nương đã nghĩ ra kế sách cứu hầu gia?”. “Không”. “Hả?”.

Khương Trầm Ngư trông tầng mây nơi chân trời, sắc mây dày đặc, tầng tầng chồng lên nhau, có thể coi là rực rỡ, cũng có thể nói là không lành. Nàng thu lại ánh nhìn, nén nhỏ giọng nói: “Nếu hầu gia bị oan, ta đương nhiên sẽ tận lực nghĩ cách để cứu ngài. Nhưng…”.

“Nhưng gì?”.

“Nhưng, nếu chuyện này là thật, sắc làm mờ trí, mạo phạm phi tử, làm nhục quốc thể, làm mất mặt nước ta, chết vạn lần cũng không đáng tiếc”.

Lý Khánh ngần ra.

Khương Trầm Ngư nhìn lão, lại cười, nói tiếp: “Có điều, cho dù có chết, cũng phải đưa về Bích quốc, do quốc chủ đích thân ban cho cái chết, kẻ khác không được quyết định. Cho nên, chúng ta đi”.

Cùng với tiếng “đi” này, bánh xe nghiền nát cỏ xanh, rõ ràng phút trước còn là ban mai tươi sáng, mà phút này, tầng mây nơi chân trời ập xuống, đem sắc đen nhuộm tối nhân gian.

Sau tiếng sấm trời bắt đầu mưa như trút nước.

Khi xe ngựa đến hoàng cung, mây đen đã che kín bầu trời, cung đăng chiếu trên mặt đất ướt sũng, ánh lên vài tia lân quang lờ mờ, hai chân chạm xuống mặt đất, gấu váy liền bị ướt.

Lý Khánh vội vàng xòe ô, che trên đầu Khương Trầm Ngư, còn nàng không có phản ứng gì, chỉ nhìn chằm chằm vào thị vệ gác cổng, gằn giọng nhắc lại lời của hắn: “Không cho gặp?”.

Thị vệ cười lễ độ, thái độ cung kính, nhưng lời nói vẫn lạnh băng như trước: “Đúng thế, tam hoàng tử có dặn, ngài hiện nay có việc, không hẹn gặp các vị khách quý”.

“Ai nói chúng ta muốn cầu kiến tam điện hạ? Chúng ta muốn cầu kiến Trình vương bệ hạ”.

“Hoàng thượng bệnh nặng, nếu người không tuyên triệu, không ai được bái kiến”.

Khương Trầm Ngư nheo mắt: “Vậy ngươi cho ta biết, bây giờ chúng ta còn có thể gặp ai?”.

Thị vệ khom lưng: “Thật ngại quá, các vị, bây giờ e rằng ai các vị cũng không gặp được”.

Khương Trầm Ngư cau mày, nàng đã đoán đối phương thể nào cũng ra chiêu này, nhưng, sự tình cấp bách, họ đợi ngoài cung thêm một khắc, là Giang Vãn Y có thể phải chịu khổ thêm một khắc, mà tội danh cũng sẽ nặng thêm một phần, cho nên, nhất định phải gặp được tam hoàng tử hoặc công chúa.

Nàng mím môi, trầm giọng: “Đã như vậy thì thôi. Có điều, lúc này Đông Bích hầu vẫn ở trong cung, chúng ta muốn gặp hầu gia. Chúng ta muốn gặp hầu chủ của nước mình, Trình vương cũng ngăn cản sao?”.

Thị vệ cười mờ ám: “Đông Bích hầu hiện tại… không tiện gặp các người”. Khương Trầm Ngư hỏi thẳng: “Tại sao không tiện?”.

Thị vệ hơi bối rối một lát, sau nói: “Cô nương đến gấp như thế, đương nhiên cũng biết là có chuyện gì. Đông Bích hầu phạm phải sai lầm lớn, sợ là… ha ha, có một số chuyện đã làm ắt phải biết sẽ có hậu quả thế nào, một mình hắn đã đành, còn liên lụy đến các người”.

Hắn đang cười nham nhở, Khương Trầm Ngư sầm mặt, quát lớn: “Câm miệng! Hầu chủ nước ta há có thể cho ngươi cuồng ngôn bình luận? Chưa nói nguồn cơn sự thật ra sao còn chưa biết, chúng ta là sứ thần của Bích quốc, có phạm phải lỗi gì, cũng không cho phép các ngươi lén lút tra xét! Mau báo cho chủ tử của ngươi, hôm nay chúng ta nhất định phải gặp được hầu gia!”.

Thị vệ mặt biến sắc, lạnh lùng nói: “Các ngươi làm loạn cũng không ích gì đâu, điện hạ đã ra lệnh, hôm nay ai cũng không được gặp…”.

Vừa nói tới đây, có tiếng bánh xe rầm rập xuyên qua màn mưa, mau chóng tiến lại gần, đó là một cỗ xe ngựa.

Phu xe dừng ngựa, khẽ quát: “Mở cửa, cho qua!”.

Thị vệ nhướng mắt lên, nói: “Tam điện hạ có lệnh, ai cũng…”, đang nói chợt im bặt, hắn trợn mắt, nhìn một cánh tay thò ra từ trong xe ngựa.

Đó là một cánh tay được chăm chút kỹ lưỡng, vô cùng thanh tú.

Ngón cái và ngón trỏ cong cong, cầm một lệnh bài màu tím, hoa văn trên lệnh bài vì xoay lưng với Trầm Ngư nên nàng không nhìn thấy.

Nhưng vẻ mặt của thị vệ thoắt đổi, không nói nửa lời, lập tức cung cung kính kính xua tay, chỉ huy những tên gác cổng khác mở cửa cung.

Xe ngựa chầm chậm chạy qua Khương Trầm Ngư, khi nàng nhìn bức rèm hạ thật thấp đó, đương đoán xem người nào có thể có quyền lực lớn đến vậy, đến mệnh lệnh của Di Phi cũng vô hiệu với y, giọng nói trong xe đột nhiên vang lên: “Các ngươi theo ta vào”.

Thị vệ cuống quýt: “Tam điện hạ đã dặn, không cho bọn họ…” liền bị phu xe lườm, càng nói càng nhỏ, cuối cùng nghẹn lại, cúi đầu xuống.

Khương Trầm Ngư mừng rỡ, liền về xe ngựa của mình, vậy là hai cỗ xe ngựa tiến vào hoàng cung, đi mất chừng nửa tuần trà mới dừng lại.

Khương Trầm Ngư xuống xe, thấy phu xe trước mặt cũng nhảy xuống, quay lại đỡ người trong xe.

Tháng sáu chính là lúc chớm hạ, thời tiết đã khá nóng, tuy mưa to làm giảm nhiệt độ, nhưng mặc áo mỏng là đã đủ ấm. Thế nhưng, người từ trong xe bước ra lại mặc rất nhiều áo, vừa nhìn đã biết có khoảng ba, bốn lớp áo, cả người đều cuộn trong quần áo, có vẻ rất sợ lạnh.

Phu xe khoác một chiếc áo choàng da cáo lên mình y, y giữ chặt áo, vừa hung hắng ho khẽ, vừa cất bước đi vào trong nhà.

Khương Trầm Ngư dặn Lý Khánh đợi bên ngoài, ra hiệu Phan Phương cùng đi theo.

Đám thị vệ canh cửa nhìn thấy người đó quả nhiên không dám ngăn cản, ngoan ngoãn cho qua.

Cửa phòng mở ra, bên trong là một đại sảnh khá rộng rãi, Di Phi đang dựa lưng trên chiếc trường ỷ chạm hoa, nở nụ cười giễu cợt, nhìn hai người giữa đại sảnh, bỗng thấy cửa mở, bao nhiêu người đi vào, nhất thời kinh ngạc, vội vàng đứng dậy.

Mà hai người giữa sảnh, một người đứng im không nhúc nhích, tựa như tượng gỗ, một người ngồi bệt dưới đất, bưng mặt khóc lóc. Không phải ai khác, đó chính là Giang Vãn Y và La quý phi.

Khương Trầm Ngư thấy không dùng hình, trong lòng liền thở phào nhẹ nhõm.

Còn Di Phi lại trừng mắt nhìn người đó, vẻ mặt cực kỳ không vui, sau đó lại liếc đám Khương Trầm Ngư sau lưng y, trầm giọng: “Không phải huynh đi Tuyết Nhai xin thuốc sao?”.

Trong sảnh ấm áp, người đó cởi áo khoác, thuận tay đưa cho phu xe đứng cạnh, ánh đèn trong sảnh liền soi tỏ diện mạo y, đó là một gương mặt trắng bệch không chút huyết sắc, lông mày rất đậm, giống như dùng mực vẽ ralông mi rất dài, đôi mắt mang ba phần mềm mại tự nhiên, giống như đôi tay y, có một vẻ tú mỹ đặc biệt.

Trên mặt y không có biểu cảm gì, đi thẳng sang một bên, tìm một chiếc ghế ngồi xuống, đoạn mới lên tiếng: “Xảy ra chuyện lớn thế này, ta thấy ta nên có mặt. Đệ không cần để ý đến ta, tiếp tục đi”. Ánh mắt lạnh lẽo như nước suối nhìn Khương Trầm Ngư, “Các ngươi cũng đừng đứng nữa, ngồi cả đi”, Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, nghe lời đi qua đó, ngồi xuống cạnh y. Phan Phương không ngồi, nhưng lại đến đứng phía sau Khương Trầm Ngư, không biết tại sao, những cử chỉ nhỏ nhặt này lại khiến Khương Trầm Ngư cảm thấy an tâm, tựa như chỉ cần có một người như thế đứng sau lưng mình, cho dù phía trước phải đối mặt với bao mưa gió, đều không cần sợ hãi.

Đôi mắt Di Phi nheo lại đầy vẻ nguy hiểm, nhìn họ một lát cuối cùng so vai, uể oải nói: “Rất tốt, chuyện này là do huynh nhất quyết đòi ở lại xem, cũng là huynh dẫn bọn họ vào, sau này phụ vương trách tội, đừng trách kẻ làm đệ đệ không nể tình, chỉ có thể bẩm báo với phụ hoàng về đại ca”.

Rèm mi Trầm Ngư run run – tuy đã lờ mờ đoán được thân phận người này, nhưng nghe người khác nói ra, nàng vẫn có chút ngạc nhiên. Thật không ngờ, nam tử hình dung tiều tụy mà thần trí minh mẫn, mi thanh mục tứ trước mắt lại là thái tử Trình quốc – “ngu tối vô năng, nhu nhược không có chủ trương” mà phụ thân nhắc tới – Lân Tố.

Tướng mạo như thế, thần thái như thế, tại sao lại không được Minh Cung yêu quý?

Nếu như y thực sự ngu tối vô năng, đám thị vệ ban nãy sao lại sợ y đến thế? Nếu như y thực sự không có chủ trương, lúc này Di Phi thẩm tra, y đâu nhất thiết phải chen vào mớ rắc rối này, càng không cần dẫn bọn nàng vào cùng…

Rất nhiều mâu thuẫn nghĩ mãi mà không thông đều nhất loạt dâng lên trong đầu, cuối cùng lại hóa thành vẻ điềm tĩnh không thể lay chuyển trên gương mặt nàng, Khương Trầm Ngư ngồi im lặng, chăm chú nhìn La quý phi đang khóc lóc thổn thức và Giang Vãn Y mặt mày tái nhợt nhưng im như thóc giữa đại sảnh.

Di Phi lại cười hì hì liếc mọi người, thong thả nói: “Khách nhân đã đến đủ rồi, vở kịch này chúng ta phải hát tiếp thôi”.

La quý phi run rẩy, ngước đôi mắt đỏ hoe, vô cùng căng thẳng nhìn gã.

Gã lại quay sang Lân Tố: “Thế nào, thái tử ca ca, có cần La phi nương nương thuật lại câu chuyện từ đầu đến cuối một lần nữa cho huynh không?”.

Lân Tố lãnh đạm nhìn La quý phi nói: “Có oan khuất gì?”.

La quý phi cắn chặt môi, toàn thân run rẩy, nhưng không nói câu nào.

Lân Tố lại nhìn sang Giang Vãn Y. “Quý phi không nói, vậy còn ngươi?”.

Giang Vãn Y sắc mặt nghiêm lạnh, ánh mắt thâm trầm, tựa như một khối bạch ngọc chìm trong nước, khiến Khương Trầm Ngư nhớ lại ngày đầu gặp hắn – Khi bức màn màu vàng nhạt vén ra, vị “thần y” hiện ra trong tầm mắt lại là một nam tử trẻ tuổi, ôn hậu tú mỹ như nước, lúc đó nàng đã cảm thấy, hắn hoàn toàn không hợp với hoàng cung, mà nay, việc liên quan đến danh dự hai người, bang giao hai nước, thời khắc trọng đại như tên trên dây, chỉ một hành động nhỏ có thể ảnh hưởng toàn đại cục như thế này, nhìn Giang Vãn Y đứng ở dưới sảnh đường, thân hình mảnh khảnh như thư sinh, cùng với sự bi thương chất chứa toát ra từ ánh mắt, đều gợi ra một cảm giác hoang đường là “nhân vật tựa thần tiên siêu phàm thoát tục như thế này, tại sao lại đứng ở nơi đây?”.

Mà hắn lại cũng không lên tiếng.

Di Phi cười hì hì: “Hắn không nói, đương nhiên là ngầm thừa nhận rồi. Thực ra, nói hay không cũng không quan trọng, nhiều cặp mắt như vậy đều đã thấy… đúng không, Đông Bích hầu, Giang thần y của ta?”.

Ánh mắt Giang Vãn Y lướt qua mặt Khương Trầm Ngư và Phan Phương, rồi chầm chậm cúi đầu xuống, Khương Trầm Ngư chú ý đến đôi tay hắn từ từ nắm chặt ở bên hông, rõ ràng tâm can giằng xé, nhưng cuối cùng vẫn lựa chọn im lặng.

Tại sao phản ứng của hắn lại khó xử như thế? Chẳng lẽ có ẩn tình sâu xa trong đó mới có thể khiến hắn thà chịu nguy hiểm cũng không chịu nói rõ chân tướng?

Lân Tố thong thả nói: “Ta không cần biết người khác thấy gì bây giờ ta chỉ muốn nghe đương sự nói một câu”.

“Vậy thì, đệ tường thuật lại cho thái tử điện hạ một lần nữa”. Di Phi đi về phía La quý phi mấy bước, tươi cười liếc nàng ta, giọng nói mềm mảnh như tơ gấm, “Quý phi nương nương và Đông Bích hầu từ nhỏ duyên sâu, cửu biệt trùng phùng, khó mà kìm nén, hai bên lại uống vài chén rượu, nam hoan nữ ái, hoàn toàn quên mất thân phận của nhau, cho nên phạm phải lỗi lớn tày trời, nay bị phát giác, chứng cứ rành rành, trăm miệng khó chối, chỉ có thể ngoan ngoãn nhận tội…”.

Khương Trầm Ngư thấy gã càng nói càng chẳng ra sao, vừa mới cau mày, lại nghe ngữ điệu của gã đột nhiên thay đổi: “Câu chuyện như thế – đừng nói ta không tin, thái tử ca ca không tin, phụ hoàng không tin, e rằng, hết thảy người trong thiên hạ đều không tin”.

Câu này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của nàng, nàng bất giác mở to mắt nhìn.

Di Phi giơ ống tay áo dài lòe loẹt của gã lên, dùng ba ngón tay móng sơn màu nhàn nhạt, bưng miệng cười, tướng mạo gã bẩm sinh không nhu hòa bằng huynh trưởng của gã, vì thế điệu cười ẻo lả này ngược lại trông càng khả ố, nhưng trong tư thế cố ý làm người khác buồn nôn đó, đôi mắt lại đen như mực, phát sáng lấp lánh: “Chớ nói Đông Bích hầu ngươi là sứ thần Bích quốc thân mang trọng trách, những kẻ sáng suốt trên đời này đều biết ngươi đến để hỏi cưới muội muội ta; nếu như ngươi muốn vụng trộm người khác thì cũng không cần phải leo lên giường ngà ngay đêm đầu tiên vào cung, đến đường cũng không biết này, càng huống hồ ngươi biết rõ sở dĩ lưu ngươi lại trong cung là để tiện chẩn trị cho phụ vương ta, gọi lúc nào đến lúc đó. Xin hỏi, trên thế gian này thực sự có kẻ ngu xuẩn nào mờ mắt vì sắc đến mức hoàn toàn không đếm xỉa đến ba điều trên không? Có lẽ có, nhưng một đại phu có thể thuộc nằm lòng mấy vạn thảo dược và phương thuốc lại không có đầu óc như thế, ha ha, ta không tin”.

Giang Vãn Y vì mấy câu này của gã bỗng ngẩng phắt đầu, biểu tình kinh ngạc, rõ ràng không ngờ Trình tam hoàng tử kỳ dị khó lường này lại nói những lời giúp hắn gỡ tội.

Lân Tố nói: “Đã như vậy đệ tại sao còn…”.

Di Phi giơ tay lên, ngắt lời Lân Tố: “Tại sao đệ phải âm thầm thẩm vấn họ?

Đương nhiên là vì đệ rất muốn biết, rõ ràng có nhiều điểm khúc mắc như thế, rõ ràng có vô số lý do có thể trình bày, nhưng tại sao Đông Bích hầu của chúng ta nửa lời cũng không nói, cam chịu bị người khác đổ oan? Đây mới là điều thú vị nhất”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy một cơn ớn lạnh từ dưới chân bốc lên, Di Phi nói không sai, đây mới là vấn đề then chốt nhất. Tại sao La quý phi lại đổ oan cho Giang Vãn Y? Tại sao Giang Vãn Y lại không chịu thanh minh? Đêm qua đã xảy ra chuyện gì? Bên trong lẽ nào còn ẩn chứa âm mưu lớn hơn?

Bàn tay nàng vô thức xiết chặt.

Di Phi nghiêng mình, nhìn La quý phi nói: “Nương nương, chẳng hay nương nương có chịu giải đáp cho ta không?”.

La quý phi run bần bật, cắn chặt răng, Di Phi nhướn mày, lại cười nói: “Nương nương và Đông Bích hầu có thù gì sao? Mà phải đổ oan cho hắn?”.

“Cái, cái, cái gì?”. La quý phi đột nhiên trừng mắt.

“Nếu không phải nương nương sai người đến mời Đông Bích hầu, hắn còn có thể tự biết được đường đi đến Bích Tú cung của nương nương ư?”.

“Ta, ta… ta chỉ mời hầu gia đến hàn huyên…”.

“Ồ, hóa ra trong buổi tiệc tối, các ngươi vẫn chưa hàn huyên đủ, phải nửa đêm canh ba bàn tiếp sao?”. Di Phi nheo mắt, ánh mắt sắc tựa dao. “Phụ vương ta bệnh liền ba năm, nương nương đang tuổi xuân phơi phới, cô đơn không chịu nổi cũng là chuyện thường tình…”.

Giọng gã chói tai, lại thêm ngữ điệu cổ quái, vì thế khi nói những lời châm biếm càng lộ rõ sự hà khắc, La sao chịu nổi sự sỉ nhục này, thoắt cái mặt trắng bệch, bỗng nhìn Giang Vãn Y một cái, thét lên: “Ngươi tin hắn lại không tin ta? Vì cơn cớ gì ta phải tự làm bại hoại thanh danh của mình? Ta là phi tử được hoàng thượng sủng ái nhất…”.

Di Phi từ tốn ngắt lời nàng ta: “A, nương nương quên mất một từ quan trọng – là trước khi lâm bệnh. Trước khi phụ hoàng ta phát bệnh, nương nương đúng thực là được sủng ái nhất, nhưng từ ngày người đổ bệnh, cơ tần hậu cung đều chỉ là đồ trưng bày, cho dù người khỏi bệnh, có lâm hạnh nương nương hay không đều rất khó nói, đừng nhắc đến chuyện phong hậu sau này”.

“Ngươi! Ngươi! Ngươi…”. La quý phi không thể phản bác, mắt đỏ lên, nước mắt lã chã rơi xuống.

Đúng lúc rối ren, tiếng ghế quẹt trên mặt đất vang lên ken két, mọi người quay đầu lại nhìn, thấy Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi đến trước mặt La quý phi với phong thái cực kỳ ung dung, nho nhã.

“Tiểu nữ có một câu hỏi muốn hỏi quý phi”.

Di Phi cười từ từ liếc nàng mấy cái: “A Ngu cô nương chịu cùng ta thẩm vấn, còn gì tốt bằng”.

Khương Trầm Ngư từ trên cao nhìn xuống La quý phi một cách lãnh đạm khẽ nói: “Những điều người bên ngoài đồn đại là những thứ mà mắt họ nhìn thấy, tiểu nữ chỉ muốn hỏi quý phi, mắt của quý phi nhìn thấy cái gì?”.

Mặt La quý phi lộ vẻ mông lung.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, giọng nói càng mềm mỏng hơn: “Cũng có nghĩa là quý phi và sư huynh tiểu nữ đã gần gũi xác thịt, hẳn có những chứng cứ mà người bên ngoài không biết để chứng minh, đúng không?”.

Được nàng nhắc nhở, ánh mắt La quý phi bỗng sáng rỡ, vội vàng quay đầu sang hai vị hoàng tử, nghẹn ngào: “Ngọc Quan, Ngọc Quan, chỗ ba tấc dưới eo của chàng, có một vết sẹo hình bán nguyệt to bằng móng tay!”.

Lời vừa thốt ra, người người biến sắc.

Ba tấc dưới eo, đã gần với vị trí riêng tư nhất của cơ thể con người, đến chỗ đó của Giang Vãn Y có sẹo nàng ta cũng biết!

Khương Trầm Ngư trầm giọng nói: “Nếu tiểu nữ nhớ không nhầm, quý phi từng là a hoàn thân cận của sư huynh tiểu nữ?”. Vậy thì khi còn nhỏ lúc Giang Vãn Y tắm rửa thay áo từng thấy cũng không có gì lạ.

Chẳng ngờ La quý phi nghe xong, liền lắc đầu: “Vết sẹo đó là mới có, trước đó… chưa, chưa từng có…”.

“Quý phi chắc chắn?”. “Phải”.

Khương Trầm Ngư nhìn chằm chằm nàng ta, chầm chậm lặp lại một lần nữa: “Quý phi, chắc, chắn chứ?”.

La quý phi không hiểu ý nàng, nhưng vẫn cắn môi trịnh trọng gật đầu: “Phải”.

“Ngoài chỗ đó ra thì sao?”.

“Cái gì, gì mà ngoài chỗ đó ra?”.

“Còn có vết bớt vết sẹo nào khác không?”.

“Cái này…”, trong đáy mắt La quý phi ánh lên một tia hoảng loạn, cúi đầu giọng rầu rĩ. “Lúc đó cảnh tượng quá hỗn loạn, có lẽ còn có, nhưng ta không lưu ý, cũng, cũng không nhớ được”.

“Rất tốt”. Khương Trầm Ngư tươi cười: “Hy vọng quý phi nhớ kỹ lời mình nói và hai tiếng “phải” ban nãy”. Nói đoạn, nàng quay người chầm chậm đi đến trước mặt Giang Vãn Y.

Di Phi, Lân Tố đều nhìn nàng chăm chú, đang phỏng đoán xem bước tiếp theo nàng có đòi Giang Vãn Y thoát y nghiệm thân không, lại thấy nàng đột nhiên vung tay, tát một cái rất mạnh.

“Bốp”.

Âm thanh xé rách không khí, chát chúa vang dội trong đại sảnh bị khóa kín, khiến ai nay chấn động cả kinh, đặc biệt là Lân Tố, lập tức từ trên ghế nhảy dựng lên: “Ngươi làm gì thế?”

Khương Trầm Ngư nhìn bàn tay vì dùng lực quá mạnh mà run lẩy bẩy của mình, lại nhìn Giang Vãn Y ngớ ra vì bị đánh và vết đỏ mau chóng hiện lên trên mặt hắn, đôi mắt dần dần loang loáng nước…

“Sư huynh… huynh, huynh… còn xứng đáng với muội không?”

Người trong sảnh đều sửng sốt trợn mắt há mồm, đặc biệt là Giang Vãn Y, cứ đờ đẫn nhìn nàng như bị định thân.

Không đợi người khác phản ứng lại, Khương Trầm Ngư đã tiến lên tóm chặt cổ áo hắn, giận dữ nói: “Huynh từng hứa với sư phụ những gì? Huynh đã hứa! Huynh, huynh, huynh khốn kiếp!”.

Mặt Di Phi lóe lên mấy tia dị sắc, đôi mắt tối dần.

“Huynh đã hứa với sư phụ sẽ đối xử tốt với muội, nhưng lại lừa dối muội, phản bội muội hết lần này đến lần khác! Lần này đến Trình quốc là ý chỉ của thánh thượng, được, muội không so đo với huynh, chỉ coi là huynh không tình nguyện, nhưng chuyện nàng ta thì huynh giải thích thế nào? Muội đợi huynh suốt đêm ở dịch trạm, lo lắng bao nhiêu, mà huynh lại ở nơi này phong lưu khoái hoạt, huynh, huynh… sao có thể làm vậy? Huynh đã hứa với sư phụ… huynh lại đối xử với muội như thế này, đối xử với muội như thế này…”. Tiếng gào của Trầm Ngư biến thành thổn thức, một tay tóm chặt cổ áo Giang Vãn Y, một tay đập túi bụi vào lồng ngực hắn, đẩy hắn loạng choạng lùi về đằng sau.

Cuối cùng, chỉ nghe một tiếng “soạt”, cổ áo đột nhiên rách toạc, nàng dùng lực quá mạnh, ngã về phía sau, Phan Phương vội bước lên đỡ nàng.

Khương Trầm Ngư vẫn chưa đứng vững, ánh mắt ngưng đọng ở nơi nào đó, hoảng hốt kêu lên một tiếng. Thực ra không chỉ mình nàng, tất cả những người khác cũng đều nhìn thấy. Chỉ thấy cổ áo của Giang Vãn Y đã bị xé thành hai mảnh, treo trên vai phải, từ vai trái đến phần dưới ngực phải đều lộ ra, mà điều khiến cho người ta ngạc nhiên nhất là trên phần da bị lộ đó toàn là những vết bớt màu đỏ đậm, ày đặc như mực nước rẩy khắp lồng ngực hắn.

La quý phi vừa nhìn thấy liền hoảng sợ thét lên chói tai: “Không! Không! Không… Không thể nào! Chuyện này không thể, vừa nãy, vừa nãy rõ ràng không có! Không thể có…”.

Khương Trầm Ngư đẩy Phan Phương đang dìu mình ra, ưỡn thẳng lưng, cười lạnh: “Không có? Thật là thú vị, quý phi biết ba tấc dưới thắt lưng của sư huynh có vết sẹo to bằng móng tay, nhưng không biết trên người huynh ấy có đám bớt màu đỏ to như thế này…”.

“Ta, ta…”, La quý phi hoảng loạn nhìn Giang Vãn Y, “Ta không nói dối, trước đó, trước đó đúng là không có, không có! Không có…”.

“Lẽ nào, ý của quý phi là vết bớt này vừa mới mọc ra?”. Khương Trầm Ngư sầm mặt.

“Ta, ta, ta… chàng, chàng, chàng…” La quý phi run lẩy bẩy, đột nhiên bò lên trước, níu vạt áo bào của Lân Tố, khóc lóc nói: “Thái tử điện hạ, điện hạ hãy tin ta, điện hạ hãy tin ta!”.

Lân Tố nhìn nàng ta với vẻ chán ghét, giống như nhìn thứ gì đó bẩn thỉu.

Di Phi bỗng cúi xuống, giơ tay ra phía nàng ta.

La quý phi như người chết đuối vớ được cọc, tràn trề hy vọng ngẩng đầu lên, chỉ thấy gã cười hì hì, nói: “Ta muốn dạy nương nương một câu thoái thác, đó là nói khi nương nương và Đông Bích hầu mây mưa, tư thế cuồng loạn, căn bản không kịp cởi y phục đã…”.

Hy vọng của La quý phi trong phút chốc biến thành tuyệt vọng nhìn cánh tay của gã tựa như nhìn rắn độc, vội vàng bò về phía sau để trốn tránh.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, tiến lên ttước mấy bước, nghiêm mặt nói: “Bây giờ, lời buộc tội của nương nương đối với sư huynh của tiểu nữ không đáng tin nữa, các người chuẩn bị xử lý việc này như thế nào?”.

Di Phi nhướn mày, cười rất tà mị: “Đương nhiên là tiếp tục tra xét”. Thấy Khương Trầm Ngư hơi cau mày, liền nói tiếp: “Có điều chỉ thẩm tra quý phi”. Nói đoạn chỉ vào La quý phi.

“Thế còn sư huynh tiểu nữ thì sao?”.

“Dĩ nhiên là cần làm gì thì cứ thế mà làm thôi”.

“Vậy được chúng ta về dịch trạm”. Khương Trầm Ngư vừa quay người, Di Phi giơ một tay ra cản: “Í, ta đâu có nói các ngươi có thể đi”.

Ánh mắt hai người giao nhau, Khương Trầm Ngư nhìn gã chằm chằm không chớp mắt, lạnh lùng nói: “Ngài không cho chúng ta đi?”.

Di Phi mím môi cười, đôi mắt lóe sáng: “Đâu có, ta chỉ nhắc nhở một chút, cần làm gì thì làm đó mà ta nói là chỉ vẫn phải phiền hầu gia trị bệnh cho phụ vương”.

“Hay lắm, tiểu nữ cho rằng, cần làm gì thì làm đó cũng là để sư huynh tiểu nữ tiếp tục trị bệnh cho Trình vương bệ hạ, chỉ có điều trong hoàng cung này có quá nhiều thị phi, trước khi chân tướng được minh xét, để tránh điều tiếng, sư huynh về dịch trạm ở vẫn tốt hơn.”

Di Phi nhìn nàng, nàng cũng nhìn trả gã, hai người cứ thế nhìn nhau hồi lâu, cuối cùng, Di Phi nhếch lông mày lên, sau đó nghiêng người, chừa một lối đi.

Khương Trầm Ngư trầm giọng nói: “Phan tướng quân, đưa sư huynh theo, chúng ta đi thôi”. Nói rồi không chút chần chừ đi lướt qua Di Phi, mở cánh cửa phòng đóng kín, bước ra ngoài.

Bên ngoài, ánh dương diễm lệ tựa gấm lập tức trùm lên toàn thân nàng.

Dù thời tiết đã ấm áp như thế, nhưng, bàn tay trong tay áo lại vô cùng giá băng.

Khương Trầm Ngư mím chặt môi, rảo bước, sau khi ra khỏi cửa cung, nàng gọi Lý Khánh lại, đưa Giang Vãn Y về dịch trạm.

Suốt đọc đường không ai nói gì.

Mười ngày sau, Điền Cửu quỳ trong ngự thư phòng, trần thuật sự việc với Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn hỏi: “Cũng có nghĩa là Khương Trầm Ngư đã dùng loại thuốc dịch dung mà Giang Vãn Y đưa cho?”.

“Vâng. Đầu tiên nàng ta rút nút bình thuốc ra, giấu trong tay, sau đó tiến tới dùng bàn tay còn lại tát Giang Vãn Y một cái thu hút tầm nhìn của mọi người, để có thể thuận lợi chạm vào người hắn lại vờ kéo áo, dốc tất cả thuốc vào áo trong của Giang Vãn Y, tính toán thời gian, đợi thuốc phát huy công hiệu bèn xé rách cổ áo của hắn, để mọi người nhìn thấy vết bớt đỏ trên người hắn”.

Chiêu Doãn cau mày, nói: “Nàng ta cũng thật to gan, lẽ nào không sợ Lân Tố và Di Phi nhìn ra vở kịch của nàng ta?”.

“Đó là vì trước khi hành sự, nàng ta nhất định đã điều tra trước và biết Lân Tố và Di Phi đều không biết võ công, cho nên nàng ta lấy tay áo che chắn, lại không ngừng nói để phân tán sự tập trung của họ, kín đáo đến mức thần không biết quỷ không hay. Chỉ một người duy nhất ở đó phát giác là Phan tướng quân, mà Phan tướng quân lại là người mình”.

Chiêu Doãn nheo mắt: “Hừ, thật muốn biết nếu hôm đó Hàm Kỳ cũng có mặt, nàng ta sẽ làm thế nào”.

Điền Cửu cười khẽ: “Nhưng hôm đó, Hàm Kỳ không có mặt. Cho nên trò vặt của nàng ta mới có thể trót lọt”. Chiêu Doãn châm biếm, nghiêng đầu, “Sau đó thì sao? Di Phi cứ để họ về như vậy à?”.

“Vâng”.

Chiêu Doãn trầm ngâm: “Dễ dàng thả người vậy sao? Tuy Khương Trầm Ngư diễn màn kịch oán phụ, nhưng nghiêm túc mà xét, căn bản chỉ là đánh tráo khái niệm – La thị nói trên người Giang Vãn Y có sẹo, nàng ta lại dứt khoát nói trên người Giang Vãn Y có vết bớt còn to hơn”.

“Cho nên, trước đó nàng ta ba lần lặp đi lặp lại hỏi La thị có chắc chắn không. Bởi vì, khi nàng ta hỏi La thị có nhớ còn dấu vết nào khác hay không, La thị tuy có cảnh giác, đưa ra đáp án nước đôi, nhưng kỳ thực đã rơi vào cái bẫy của nàng ta. Bởi vì, khi mọi người nhìn thấy trên người Giang Vãn Y lại có vết bớt nhức mắt kinh hồn như thế, đương nhiên sẽ hoài nghi lời của La thị – Nàng ta đã nhìn thấy vết sẹo nhỏ như vậy, tại sao lại không nhìn thấy vết bớt lớn như thế? Như vậy, lời chứng của La thị không đáng tin nữa”.

“Nhưng khi đó chẳng phải nói có rất nhiều cung nhân nhìn thấy hai người trên giường y phục xộc xệch sao?”.

“Nhưng cũng chỉ là trên giường, y phục xộc xệch mà thôi”.

Chiêu Doãn đan mười ngón tay vào nhau, chậm rãi nói: “Cũng có nghĩa là Giang Vãn Y bị bắt tại trận trên giường của La thị là sự thực, nhưng ngoài La thị ra, không có người thứ hai có thể chứng minh hai người họ thực sự gian dâm, vì thế, chỉ cần lật đổ lời chứng của La thị, tội danh đã bất thành?”.

“Đúng thế”.

“Vậy rốt cuộc họ có rượu say làm càn không?”.

Trên mặt Điền Cửu để lộ một thần sắc cổ quái, cười ám muội, sau đó rút từ trong tay áo ra một tờ giấy, cung kính trình lên.

Chiêu Doãn cầm lấy, mở ra xem xong đột nhiên biến sắc, đập bàn đứng dậy: “Hóa ra là thế!”.

“Vâng”.

“Đây cũng là nguyên nhân Giang Vãn Y thà bị chém đầu, cũng không chịu mở miệng nói một câu biện giải cho chính mình?”

“Đúng vậy”.

Chiêu Doãn bỗng giơ tay, xé vụn tờ giấy đó, giận dữ cười nói: “Giỏi! Giỏi lắm! Một tên hai tên đều dám làm trái ý trẫm, lừa dối trẫm! Đến ý chỉ của trẫm cũng không coi ra gì!”.

Điền Cửu quỳ sụp xuống, trầm mặc cúi đầu.

Cơn giận dữ của Chiêu Doãn mau chóng trôi qua, cuối cùng y hít sâu một hơi, lấy lại vẻ trấn tĩnh, nói: “Trẫm không sao, ngươi nói tiếp đi, sau đó thế nào?

Về tới dịch trạm rồi Khương Trầm Ngư không làm gì nữa sao? Sau khi nàng ta đi, ba hoàng tử của Trình quốc có hành động gì không?”.

Điền Cửu hạ giọng bẩm: “Dĩ nhiên là có hành động…”.

Sau khi xe ngựa về tới dịch trạm, Khương Trầm Ngư không nói một lời, tự mình xuống xe, đi thẳng về phòng ngủ của nàng.

Phan Phương khẽ huých Giang Vãn Y vẫn đang hồn xiêu phách lạc, hất hàm về hướng phòng ngủ, ý bảo hắn đi vào. Giang Vãn Y hiểu ý của Phan P, sắc mặt phức tạp đứng đó hồi lâu, cuối cùng thở dài thườn thượt rồi mới đẩy cửa bước vào.

Trong phòng, Khương Trầm Ngư đang im lặng ngồi bên bàn tựa như đang đợi hắn, lại tựa như đang thẫn thờ.

Giang Vãn Y từng bước từng bước đi về phía nàng, ánh dương chiếu xuyên qua lụa trắng trên cửa sổ khung gỗ màu xanh lục, chiếu lên gương mặt nghiêng nghiêng của nàng, khiến mặt nàng ánh lên một quầng sáng nhàn nhạt. Nàng tỏa sáng như thế nhưng lại trầm uất như thế.

Giang Vãn Y dừng bước, lên tiếng, giọng khe khẽ: “Đưa tay trái của muội…

cho ta”.

Khương Trầm Ngư quay mặt lại, hai người đối mặt, nàng chầm chậm giơ cánh tay trái lên, lớp áo khoác màu đen và tay áo màu trắng tụt xuống, để lộ cánh tay trái luôn giấu trong tay áo từ đầu đến cuối.

Những mảng màu đỏ sẫm, đỏ tươi, đỏ như máu kín đặc trên tay nàng, bám vào năm ngón tay như một con nhện, gân xanh nổi lên như rễ cây cổ thụ, mỗi ngón tay đều sưng to, tấy đỏ dính sát với nhau, không thể xòe tay ra nổi.

Khương Trầm Ngư giơ cánh tay thô lậu đến mức khó có thể miêu tả thành lời đó bằng một tư thế tao nhã vô song, lặng lẽ mỉm cười.

Như một đóa hoa xinh đẹp bừng nở. Như một cây liễu đung đưa theo gió.

Như ngôi sao băng lướt qua bầu trời đêm tĩnh lặng. Như suối biếc trào ra khỏi huyệt nhãn(1) trong veo.

Như hết thảy sự vật tuyệt mỹ trên thế gian này, nàng chăm chú nhìn hắn, mỉm cười.

“Ba ngày sau, bàn tay này của muội có thể biến thành bàn tay đẹp nhất thế gian không?”.

Giang Vãn Y không nhịn được cười, nhưng cười xong lại ngậm ngùi: “Muội thật to gan…”, nói rồi với lấy hòm thuốc đặt trên tủ, ngồi xuống đắp thuốc cho nàng.

Nước thuốc màu xanh biếc từng chút từng chút chấm lên tay, mảng da màu đỏ sậm đó liền nhạt màu, Khương Trầm Ngư nhướn mày nói: “Hóa ra cái này còn có thể tẩy đi?”.

“Ừ.” Giang Vãn Y tỉ mỉ dùng bông gòn bôi thuốc, không bỏ qua bất cứ chỗ nào, khẽ nói: “Là thuốc có ba phần độc, lần này muội dùng hơi quá liều, nếu không sớm tẩy đi, sợ là không tốt”.

“Tổn hại như thế này so với mất đầu thì nhẹ hơn rất nhiều”. Khương Trầm Ngư không bận tâm, quay mặt sang một bên, tiếp tục ngắm phong cảnh bên ngoài cửa sổ, tựa như đang suy nghĩ điều gì.

Trong phòng trở nên im lặng, chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng bình thuốc va chạm và tiếng y phục sột soạt khi Giang Vãn Y đắp thuốc cho nàng.

Trong sự tĩnh mịch đó, tiếng tim đập càng trở nên rõ ràng, vẻ mặt Giang Vãn Y thoáng biến đổi, cuối cùng ngẩng đầu, nhìn thẳng vào nàng, nói: “Tại sao muội không hỏi ta đêm qua rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”.

Khương Trầm Ngư lạnh nhạt đáp: “Huynh thà mất đầu cũng không chịu nói, ắt là có nguyên nhân không thể nói”.

“Nếu muội hỏi, có lẽ…”. Giang Vãn Y dường như nói rất khó khăn “ta bằng lòng nói”.

Khương Trầm Ngư quay đầu lại, im lặng nhìn hắn một lúc đột nhiên nói: “Huynh có biết muội là ai không?”.

Ánh mắt Giang Vãn Y ngần ngừ rồi gật đầu.

“Huynh thực sự biết muội là ai?”

“Ừ.” Giọng hắn khe khẽ, “Muội biết đấy, ta… từng là môn khách của công tử”.

“Huynh đã biết thân phận thực sự của muội từ lâu, nhưng chưa bao giờ hỏi muội. Cho nên”. Khương Trầm Ngư tươi cười với hắn, “bây giờ, muội cũng không hỏi huynh”. Nói đến đây giọng nàng cũng trở nên ngậm ngùi, “Nói trắng ra, thực ra chúng ta cũng chỉ là con cờ trong tay người khác, mỗi bước đi đều không thể tự mình quyết định. Đã như thế, con cờ hà tất phải làm khó con cờ. Huynh nói có đúng không?”.

Giang Vãn Y lộ vẻ cảm kích.

Khương Trầm Ngư vỗ nhẹ lên mu bàn tay hắn: “Cho nên, chuyện ngày hôm nay chỉ coi như muội trả huynh món nợ huynh tặng thuốc dịch dung cho muội, không cần canh cánh trong lòng. Có điều, phía Trình quốc sẽ không dễ dàng buông tha, bước tiếp theo nên làm thế nào, huynh tự suy nghĩ đi”.

“Yên tâm, ta biết bước tiếp theo phải làm thế nào”. Khi Giang Vãn Y nói câu này, tuy vẻ mặt vẫn hơi do dự, nhưng ánh mắt kiên định vô cùng. Điều này khiến nàng thoáng kinh ngạc, tất cả chuyện này liệu có phải là do mình lắm chuyện hay không? Có lẽ, mỗi bước đi của Giang Vãn Y đều đã được tính toán ổn thỏa để đạt tới một tình trạng nào đó, nhưng lại bị mình chen ngang phá hoại?

Khương Trầm Ngư bặm môi, nhìn bộ dạng Giang Vãn Y, trước khi sự tình sáng tỏ, hắn sẽ không nói rõ, nghĩ vậy không kìm được có chút hối hận vừa nãy tại sao ra vẻ đại lượng không thăm dò ngọn nguồn rõ ràng, nhưng lời đã nói ra cũng không tiện nuốt lại, lập tức cười cười, chuyển sang chủ đề khác: “Có điều sư huynh, bây giờ e rằng tất cả mọi người đều biết giữa chúng ta có mối tư tình, huynh muốn cưới công chúa Di Thù chắc sẽ càng khó hơn”.

Giang Vãn Y cụp mắt, lầm bầm: “Ai muốn lấy nàng ta”.

“Ấy? Huynh thật sự không có chút hứng thú nào với cô công chúa đó sao?”.

Nàng cố ý trêu chọc, “Tuy nói hoàng thượng hy vọng huynh lấy được công chúa, nhưng Di Thù đúng là một đại mỹ nhân!”.

Đáy mắt Giang Vãn Y lóe lên một tia âm u, tựa như nhớ lại điều gì, cười nhạt, đáp: “Mỹ nhân thì nàng ta vẫn chưa đến tầm, ngược lại bản lĩnh ‘họa thủy’ thì…”, nói đến đây, đột nhiên im lặng, thần sắc càng thêm phức tạp.

Trầm Ngư nhìn hắn vẻ dò hỏi.

Giang Vãn Y rầu rĩ than: “Quân tử không bàn luận ưu khuyết của người khác, ta lỡ lời rồi”.

Sự hiếu kỳ trong mắt Trầm Ngư lại càng rõ nét hơn, mắt nàng dần sáng lên. Tuy không rõ tại sao Giang Vãn Y lại có thành kiến với Di Thù như thế, nhưng thấy hắn lòng đầy bất mãn mà vẫn không chịu nói xấu người khác, từ đó có thể thấy nhân phẩm của vị thần y này quả thật không tồi. Chính trị bẩn thỉu nhưng trên con đường dài đằng đẵng có thể gặp một người như vậy, chẳng phải là may mắn sao?

Giang Vãn Y đậy nắp hòm thuốc, đứng dậy đi tới mở cửa sổ, bên ngoài trời xanh ngăn ngắt, gió đưa hương thảo mộc tràn vào trong phòng, hắn ngắm nhìn phong cảnh bình dị mà mỹ lệ đó, thong thả nói: “Lần này ta đến Trình quốc chỉ vì một việc – chữa bệnh cho Trình vương. Bất kể những lý do khác phức tạp thế nào, đối với ta mà nói, tính mạng con người vẫn quan trọng hơn tất cả. Muội xuất thân danh gia, sống trong nhung lụa, có lẽ không biết ở thế giới bên ngoài, thực ra còn rất nhiều rất nhiều người đều không được khám bệnh”.

Khương Trầm Ngư im lặng lắng nghe, không xen lời.

Quả nhiên, Giang Vãn Y nói tiếp, dường như đang giãi bày, lại dường như chỉ nói chỉ mình nghe, không cần để ý người nghe là ai: “Ta từng gặp rất nhiều cụ già áo quần rách rưới, mình đầy thương tích thoi thóp hơi tàn nơi đầu đường xó chợ, cũng từng gặp những đứa trẻ chân trần, nước mũi lòng ròng chạy trong mưa, những người dân nghèo xanh xao vàng vọt, áo không đủ che thân, họ gầy đến nỗi trơ xương, bệnh tật đầy thân… Những cảnh tượng đó ta gặp đã quá nhiều, ta còn chứng kiến một thiếu nữ ôm người bạn thân nhất của mình gào khóc trong tuyết trắng, chỉ vì bạn của nàng ấy mắc bệnh, nhưng không có tiền chữa trị… Cho nên, ta tự nhủ lòng, ông trời đã o ta sinh ra trong một hành y thế gia, để ta vừa chào đời đã được hưởng điều kiện hành nghề y tốt nhất, ta phải đem chút sức mọn của mình để làm gì đó cho chúng sinh, ta không muốn chỉ hầu hạ bọn quyền quý giống phụ thân, ta muốn cứu mỗi ngưới ta có thể cứu, hơn nữa đối với những người bệnh nghèo khổ đó, ta khám hệnh cho họ không cần tiền”.

Bàn tay Khương Trầm Ngư dần dần nắm chặt lại.

“Cho nên ta tranh cãi với phụ thân, bỏ nhà, đi khắp các thôn quê, ăn gió nằm sương, cho dù gian khổ đến đâu cũng đều âm thầm chịu đựng, vì đó là con đường ta tự chọn, ta phải kiên trì đi tiếp”. Giang Vãn Y nói đến đây, gương mặt không hề có vẻ đắc ý mà bao trùm trong một nỗi bi thương sâu đậm, nỗi bi thương đó rõ ràng đến mức khiến cả Khương Trầm Ngư cũng cảm thấy bóng dáng hắn càng lộ rõ vẻ tiêu điều.

“Thế nhưng, lý tưởng hóa ra cuối cùng chỉ có thể gọi là lý tưởng. Trên thế gian này, không phải chỉ cần muội đủ kiên định, đủ dũng cảm, là có thể thực hiện một số việc…”. Hắn quay người lại, nhìn nàng, mỉm cười ảm đạm, “cho nên, cuối cùng ta vẫn quay về”.

“Huynh cảm thấy mình quay về là sai lầm?”.

Giang Vãn Y lắc đầu: “Không liên quan đến đúng hay sai, thị hay phi. Mà là ta phát hiện, có lúc dù muội chỉ đơn thuần muốn cứu một người, cuối cùng lại biến thành một việc vô cùng phức tạp”.

Khương Trầm Ngư hiểu ý của hắn. Theo như lời hắn nói, sở dĩ hắn đến Trình quốc chỉ là vì muốn chữa bệnh cho Minh Cung, nhưng bên trong lại kéo theo những quan hệ phức tạp đan xen, cái nào cũng bó buộc hắn, khiến hắn cảm thấy khó mà chịu đựng được.

Kỳ thực, nàng chẳng phải cũng như thế sao?

Cả Phan Phương và hai trăm tám mươi người đi cùng, người nào là không như thế đây?

“Huynh… có thể nói cho muội biết, vì sao huynh phải quay về không?”. Nàng nhập cuộc là vì một đạo thánh chỉ, không thể chối từ. Nhưng hắn thì khác, trước khi hắn vào cung, hoàng đế hoàn toàn không biết có một người như vậy tồn tại, là điều gì đẩy hắn đến chỗ đầu sóng ngọn gió, khó mà được yên ổn?

Là công tử sao?

Là công tử tìm Giang Vãn Y trở về, là công tử ép hắn sao?

Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy, câu hỏi này đối với nàng vô cùng quan trọng, quan trọng đến mức dường như có một sợi tơ vô hình, dần dần gợi mở quá khứ, mà lần này, cái nàng nhìn thấy không còn là khung cảnh thái bình giả tạo như trước nữa.

Tay nàng nắm chặt, thả lỏng, rồi lại nắm chặt, lại thả lỏng, cứ như thế lặp lại mấy lần, cuối cùng câu hỏi vẫn buột ra khỏi miệng: “Là vì… công tử tìm huynh, cho nên… huynh không thể từ chối?”.

Đôi mắt Giang Vãn Y tối lại, khiến trái tim nàng cũng chùn xuống theo – Lẽ nào thực sự vì Cơ Anh ?

Ai ngờ, rèm mi dày nhướn lên, giọng nói trong vắt tựa nước, đáp án nói ra lại hoàn toàn khác: “Ta trở về là vì ta muốn cứu Hy Hòa”.

Khương Trầm Ngư cả kinh, ngạc nhiên ngẩng đầu, thấy Giang Vãn Y nắm chặt tay, toàn thân run run, rõ ràng bản thân hắn rất rõ, câu này một khi đã nói ra sẽ gây ra hậu quả kinh khủng đến mức nào.

Nàng im lặng một lúc mới lên tiếng: “Huynh nên gọi nàng ấy là phu nhân”.

“Phu nhân…”, một loạt biến hóa diễn ra trên gương mặt Giang Vãn Y, có mơ hồ, có chua xót, có day dứt, cuối cùng, hắn cười thật tang thương, “Có lẽ mọi người đều coi nàng là phu nhân của Bích quốc, là sủng phi của thánh thượng, nhưng với ta, nàng chính là Hy Hòa, là đứa trẻ ôm thi thể bạn trong trời tuyết, khóc lớn không nỡ buông tay năm đó…”.

Khương Trầm Ngư không ngờ, hắn và Hy Hòa hóa ra còn có giao tình như thế, hơn nữa, rõ ràng Hy Hòa có ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc đến hắn, sâu sắc đến mức khiến một thiếu niên từ đây lập chí trở thành một danh y chữa bệnh không lấy tiền.

“Huynh…”. Nàng bỗng nhiên không biết nên nói gì.

Nói hắn đã sai ư? Nói hắn không nên có suy nghĩ như vậy đối với phi tử của hoàng thượng ư?

Nhưng, nàng có tư cách gì mà nói hắn?

Bản thân nàng há chẳng phải thân là hoàng phi, nhưng lòng còn nghĩ đến người khác sao?

Là người ai chẳng có lòng riêng, lòng riêng của Giang Vãn Y là Hy Hòa; còn lòng riêng của nàng là Cơ Anh.

Trong phòng im phăng phắc, đương lúc bối rối, bỗng có người gõ cửa. Khương Trầm Ngư vội đứng dậy mở cửa, thấy bên ngoài có một thị vệ dịch trạm tay dâng thư tín, nói: “Tam điện hạ gửi thư tới, dặn dò phải trao tận tay cô nương”.

Nhanh thế sao? Họ vừa mới về dịch trạm, Di Phi đã sai người đưa thư tới?

Gã muốn làm gì?

Khương Trầm Ngư nhận lấy bức thư, mở ra xem, thấy lời lẽ rất đơn giản, đại ý là có chuyện quan trọng muốn bàn, mời đến phủ tam hoàng tử một chuyến.

Nội dung không vấn đề gì, nhưng lại chỉ mời một mình nàng.

Tại sao? Nếu liên quan đến chuyện tối qua, đáng nhẽ phải mời cả ba người đi mới đúng chứ? Tại sao chỉ mời mình nàng?

Tên Di Phi xảo quyệt thâm độc đó rốt cuộc định làm gì? Có điều không đi cũng không được.

Thôi được đến xem xem gã giở trò gì cũng tốt. Nghĩ tới đây, nàng gấp thư lại, mỉm cười: “Phiền ngươi hồi bẩm điện hạ, cho phép ta chải đầu thay áo rồi sẽ tới sau”.

Hành lang chạm khắc, chim hót véo von. Thuyền hoa lộng lẫy, ngọc quý ngát hương.

Sau khi đến phủ tam hoàng tử, Khương Trầm Ngư được tên tùy tùng mang khí chất phiêu diêu đó đưa qua cửa chính, đi qua ba lớp tường dày tránh gió, cảnh tượng hiện ra trước mắt như thế này: Một thân cổ thụ cao hơn mười trượng sừng sững chọc trời, bộ rễ ngoằn ngoèo uốn lượn, cành lá rậm rạp sum suê, phòng ốc được dựng quanh một tán cây rộng lớn, thấp thoáng giữa lá biếc hoa quỳnh, tựa như mỹ nhân ôm lơi tì bà, vừa thần bí vừa yêu kiều nghênh đón khách nhân.

Bậc thang cũng ghép bằng loại gỗ này, xoay tròn uốn quanh đi lên thân cây, dẫn vào từng phòng, lại có thiếu nữ yêu kiều, thân vận áo màu, túm một cành rủ xuống đất của cây đại thụ, nhảy từ trên cây xuống, bay đến trước một căn phòng khác, dùng chân gõ cửa, cười rất giòn giã.

Đưa mắt nhìn, chỉ thấy trời xanh ngăn ngắt, cỏ biếc mơn mởn, áo màu phấp phới, người như hồ điệp, linh hoạt sinh động.

Mà cách cái cây không xa về phía Đông có một mặt hồ lớn, một chiếc thuyền hoa đậu ven hồ, tiếng đàn loáng thoáng từ trên thuyền vọng lại.

Khương Trầm Ngư bị chấn động trước tất thảy những gì nhìn thấy, trong lòng trào dâng một cảm giác khó có thể miêu tả thành lời. Lần đầu gặp Di Phi, nàng đã cảm thấy người này yêu dị đến mức thú vị, tuy đã nghe nói con người gã ti tiện, nhưng sau mấy lần tiếp xúc, lại chưa thấy ti tiện, dẫu rằng gã kỳ quặc khó lường, nhưng cũng là một người hết sức thú vị. Mà nay thấy nơi ở của gã, nàng càng cảm thấy người này không phải là kẻ tầm thường, mà là kẻ lòng ôm hoài bão lớn.

Tùy tùng đưa nàng đến trước thuyền hoa, cao giọng bẩm: “Điện hạ, Ngu cô nương đến rồi”.

Rèm ngọc trên thuyền hoa lập tức được vén lên, hai viên tùy tùng bước ra, bên trong khoang thuyền, Di Phi đang ngồi tựa trên chiếc sập quý phi, một tay chống má, còn tay kia cầm chiếc tranh đường hình phượng hoàng(2), vừa liếm đường vừa nói: “Hay lắm hay lắm, mời Ngu cô nương lên thuyền”.

Khương Trầm Ngư thấy trong khoang thuyền không có ai khác, đã đến rồi thì hãy thuận theo tự nhiên, liền bước lên thuyền theo lời gã.

Di Phi trỏ chiếc ghế trống, ý bảo nàng ngồi xuống.

Khương Trầm Ngư thấy trên chiếc sập đó toàn là vụn đường, mà khóe môi gã lại dính toàn đường, thật không biết vị hoàng tử này rốt cuộc đã ăn bao nhiêu tranh đường mới có thể vương vãi như vậy, thế nên trong đáy mắt nàng thoáng hiện nét cười.

Di Phi ân cần hỏi: “Ngu cô nương có ăn không?”.

“Không cần đâu”. Nàng cung kính chối từ, “Tiểu nữ không thích ăn đồ ngọt!”.

“À vậy thì đáng tiếc thật, tranh đường là thứ ngon nhất trên đời, không chỉ ngon, mà còn hữu dụng”. Di Phi thở dài, lại “rắc” một tiếng, cắn một nửa đầu con phượng hoàng.

Khương Trầm Ngư không đoán ra gã định làm gì, quyết định vẫn nên dĩ bất biến ứng vạn biến, im lặng ngồi đó, mắt nhìn thẳng phía trước, gã không nói, nàng cũng lặng yên.

Trong thuyền hoa, nhất thời chỉ nghe thấy tiếng cắn nhai rắc rắc. Di Phi ăn không ngừng, mắt cũng không nghỉ ngơi, cứ sáng quắc, nhìn nàng chằm chằm, nếu đổi lại là người khác, hẳn sẽ bị ánh mắt đó nhìn cho bồn chồn như ngồi trên chảo lửa, nhưng Khương Trầm Ngư lại như một đầm nước, một bức họa, một cái bóng trong gương đồng, một tia sáng chiếu vào giếng trời, rõ ràng không có bất cứ động tĩnh nào, nhưng vẫn cho người ta một cảm giác tồn tại đầy sống động.

Đôi mắt Di Phi hơi trầm xuống.

Ăn xong tranh đường, lập tức có tùy tùng dâng khăn tay nóng lên, gã đẩy ra, ngoắc tay ra hiệu lấy tiếp, tùy tùng cung kính đáp: “Hồi bẩm điện hạ, tranh đường đã hết rồi”.

Di Phi “ồ” một tiếng, nhướn mày, quay sang nhìn Khương Trầm Ngư, cười nói: “Ngu cô nương không thích ăn tranh đường vậy có biết cách làm không?”.

Khương Trầm Ngư rủ rèm mi, đáp: “Biết, dùng đường đã tinh chế, đổ vào gáo đồng đun chảy, sau đó dùng thìa làm bút, dùng đường lỏng làm mực, rưới lên phiến đá để vẽ hình, đợi đến lúc đường nguội thì lấy ra, tự nhiên sẽ thành tranh”.

Di Phi lắc đầu, chớp mắt cười: “Đó là cách làm tranh đường bình thường, nhưng loại ta ăn lại không làm giống thế”.

Bộ dạng gã đắc ý đợi người khác truy vấn, Khương Trầm Ngư không khỏi bật cười trong lòng, mỉm cười nói: “Điện hạ thân phận tôn quý, ăn uống cũng cầu kỳ, đương nhiên không giống với bách tính bình thường”.

“A, ta rất thích nghe lời nàng vừa nói. Thực ra hôm nay ta tìm nàng là vì một việc, có điều vừa vặn bây giờ hai việc có thể hợp làm một. Ta sẽ cho nàng xem tranh đường ta ăn rốt cuộc được làm như thế nào?”. Dứt lời, gã vỗ tay, bỗng hai tên tùy tùng bên ngoài cửa khoang thuyền vừa lắc một cái đã không thấy đâu, khi xuất hiện trở lại đã kéo một người từ trên bờ tới.

Người nọ mình mặc y phục thái giám, gương mặt đầy sợ hãi, ngũ quan xinh đẹp đều trở nên méo mó, trông vô cùng đáng sợ, vừa giãy giụa vừa gào thét: “Cầu xin các người, tha cho tiểu nhân! Xin các người! Tha cho tiểu nhân! Đừng, đừng mà, đừng…”.

Tùy tùng lôi hắn lên thuyền hoa, rồi ném hắn xuống sàn, người đó ngẩng đầu nhìn thấy Di Phi càng sợ hãi tột độ, thảm thiết kêu: “Tam, tam, tam hoàng tử, xin, xin xin người, tha cho tiểu nhân! Xin người…”. Vừa nới vừa ra sức dập đầu. Lúc đó, trong khoang thuyền chỉ nghe thấy tiếng dập đầu bình bịch.

Di Phi cong ngón tay, cầm một chén trà trên chiếc bàn cạnh sập lên, thong thả nhấp một ngụm, rồi lại “ừm” một tiếng, quay đầu sang nói với một tên tùy tùng: “Sơn Thủy” trà nghệ của người ngày càng tinh thâm đấy, chén trà Mông Đỉnh Thạch Hoa này pha rất ngon”.

Tùy tùng Sơn Thủy đáp: “Là do Tùng Trúc chọn nguyên liệu hảo hạng”.

Di Phi lại quay sang một tên tùy tùng khác: “Là ngươi đích thân lên núi hái?”.

Tùng Trúc đáp: “Vâng, đi cùng Cầm Tửu nữa”.

Khương Trầm Ngư nghĩ – Sơn Thủy, Tùng Trúc, Cầm Tửu, trong một lát mà tuế hàn tam hữu đều đông đủ. Chẳng ngờ, kẻ thô lậu như Di Phi lại đặt cho tùy tùng bên cạnh những cái tên tao nhã như thế, đặc biệt là khi gã gọi, nghe lại càng giống như châm biếm.

Cầm Tửu bê một chiếc thùng gỗ lớn, cao bằng nửa người tới phi thân lên thuyền, khi hạ xuống sàn không hề phát ra tiếng động, cũng không thấy người chao đảo dù chỉ một chút.

Cùng với hắn, Khương Trầm Ngư ngửi thấy một mùi hương ngòn ngọt thấu tận tâm can, định thần nhìn lại, hóa ra trong chiếc thùng gỗ đó đựng toàn đường, hơn nữa còn ướp đủ loại cánh hoa.

Tên thái giám nhìn thấy thùng đường đó, mặt mày xám ngoét, vội vàng vừa gào thét “đừng, đừng” vừa lùi về phía sau, thấy hắn sắp rơi xuống hồ, Cầm Tửu nhón chân đá nhẹ vào hõm gối hắn, hắn ngã nhào xuống sàn, không thể nhúc nhích được nữa.

Di Phi liếm môi, nhìn thùng đường đó đầy thèm thuồng: “Đã chuẩn bị xong rồi, mau làm đi”.

“Tam điện hạ! Tam điện hạ! Đừng! Đừng mà!”. Tiếng kêu tuyệt vọng của tên thái giám cao vút lên tận trời, chấn động đến mức Khương Trầm Ngư cảm thấy tai đau buốt, không kìm được đưa tay lên bịt tai.

Di Phi không bỏ qua hành động nhỏ của nàng, cười nhạt nói: “Ngu cô nương sợ ầm ĩ, làm cho hắn nhỏ giọng một chút đi”.

“Vâng”. Cầm Tửu đáp, rồi dùng chân lại đá thái giám một cước giọng hắn lập tức nhỏ đi, tuy vẫn kêu gào, nhưng chỉ có thể phát ra thứ âm thanh khào khào.

Di Phi nói với Khương Trầm Ngư: “Ngu cô nương, cô nương phải nhìn thật kỹ vào. Phương pháp làm kẹo của ta xưa nay không cho người ngoài nhìn, nàng là người đầu tiên”.

Khương Trầm Ngư nghĩ, chỉ là đun đường lên thôi mà, còn có thể đặc biệt thế nào nữa? Nhưng ngay lập tức nàng phát hiện mình đã lầm.

Chỉ thấy Sơn Thủy, Cầm Tửu và Tùng Trúc đi đến trước thùng gỗ mỗi tên đặt hai tay lên thành thùng, không lâu sau, đường hạt bên trong liền bắt đầu nóng chảy, những cánh hoa nổi trên bề mặt cũng dần dần chìm xuống, lại thêm một lúc trôi qua, một làn khói trắng lượn lờ bốc lên, đường miếng đã hóa thành nước đường, nước đường lại bắt đầu sôi, nổi lên những bong bóng màu nâu.

Nhưng thần sắc của ba tên tùy tùng đó vẫn vô cùng bình tĩnh, bình tĩnh đến mức dường như họ chỉ là đặt tay lên thùng gỗ mà thôi.

Khương Trầm Ngư xem đến đây, không kìm nổi nghĩ – không biết võ công hai ám vệ Chiêu Doãn cấp cho nàng so với “tuế hàn tam hữu” này thế nào. Nhưng cho dù thế nào, rõ ràng võ công của bọn họ vô cùng cao thâm, thuộc hạ đã thế, chủ nhân hẳn cũng không tầm thường.

Trong lòng lại coi trọng Di Phi thêm một phần.

Thời gian khoảng nửa tuần trà trôi qua, nước đường trong thùng gỗ đã sôi hoàn toàn, nổi bong bóng ùng ục. Cầm Tửu dừng tay trước tiên, quay người đi về phía tên thái giám kia.

Thái giám cơ thể không thể cử động, miệng không thể nói, chỉ có thể lắc đầu nguầy nguậy, nước mắt lã chã trào ra.

Đương lúc Khương Trầm Ngư ngạc nhiên vì sao hắn lại sợ hãi đến thế, liền thấy Cầm Tửu “soạt” một tiếng, y phục của tên thái giám đó rách toạc từ đầu đến chân, sau đó hắn vung tay, đám vải nát bươm đó đã bay hết xuống hồ.

Khương Trầm Ngư vô thức quay mặt sang chỗ khác.

Dù thái giám đó đã nằm phủ phục dưới đất, nhưng nhìn thẳng thân hình lõa lồ của nam giới như thế vẫn có chút xấu hổ, đối với người chưa từng trải như nàng. Lần này khác với lần châm cứu cho Hách Dịch trên thuyền lúc trước, khi ấy Hách Dịch chỉ để lưng trần, còn tên thái giám này rõ ràng là lõa thể toàn thân.

Di Phi cười híp mắt nhìn nàng, đôi đồng tử đen như mực lóe sáng: “Thế nào? Ngu cô nương xấu hổ à? Ta khuyên cô nương vẫn nên nhìn kỹ thì hơn, nếu không sẽ bỏ lỡ phần đặc sắc nhất”.

Khương Trầm Ngư thấy lời của gã có ẩn ý, rõ ràng có điều ám chỉ, đành lần nữa quay đầu nhìn sang, thấy trắng lốp một mảng, trong lòng thầm nhủ: “Không sao, không sao… cứ coi như hồi nhỏ nhìn ca ca tắm nắng trong sân đi”.

Di Phi đưa mắt ra hiệu cho Cầm Tửu, Cầm Tửu nhấc chân, đột ngột lật ngửa tê Khương Trầm Ngư lần đầu tiên n thái giám đó lại, Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy choáng váng, đầu óc trống rỗng, giống như có thứ gì đó vỡ tung, một loạt cảm xúc kinh ngạc, sợ hãi, xấu hổ, căm hận, chán ghét, bàng hoàng… trong khoảnh khắc trào dâng toàn thân nàng.

Đó… đó…

Tên thái giám đó…

Lại, không phải là thái giám!

Mà điều ngạc nhiên hơn nữa là Di Phi tiếp tục diễn điệu cười bỉ ổi khiến người ta hận không thể giơ tay tát cho gã mấy cái, uể oải nói: “Người này tên là Phúc Xuân, trốn trong Tây cung, phúc trạch xuân sắc, đúng là một cái tên đẹp…”.

Phi tử của hoàng đế Trình quốc theo lễ xưa, phân làm hai cung Đông, Tây, mà Tây cung chính là nơi ở của La quý phi cực sủng một thời.

Khương Trầm Ngư rúng động toàn thân, sắc mặt nhợt nhạt, không chút huyết sắc.

Đây… đây là ý gì?

Lẽ nào, La quý phi tư thông với tên thái giám giả này, còn Giang Vãn Y vô can?

Di Phi nhìn nàng chằm chằm, không bỏ lỡ bất cứ biểu cảm nhỏ nào của nàng, tiếp tục cười khề khà nói: “Ta biết lúc này Ngu cô nương nhất định có nhiều điều chưa hiểu, không sao, tiểu vương ta cũng không hiểu, tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu”. Nói đoạn, gã búng tay một cái.

Chỉ thấy Cầm Tửu không biết lôi ra từ đâu một chiếc muôi đồng dài hơn thước, múc đầy một muôi nước đường sôi ùng ục từ trong thùng gỗ ra, rồi cứ thế rưới lên người Phúc Xuân…

Xèo…

Một làn khói trắng bốc lên. nhìn thấy cảnh dùng hình như thế, chỉ cảm thấy cả trái tim đều bị làn khói trắng đó cắt nát, muôi đường đó giống như rưới lên người nàng, bỗng cảm thấy đau đến mức không nói nên lời…

Mà đây mới chỉ là màn dạo đầu.

Tiếng kêu thảm thiết không ngừng vang lên, đập vào tai nàng.

Cầm Tửu không chút nương tình, muôi thứ nhất, muôi thứ hai, hết muôi này đến muôi khác rót xuống.

Phúc Xuân ra sức giãy giụa, nhưng huyệt vị cơ thể đã bị phong bế, cho dù dùng sức thế nào cũng chỉ là phí công.

Di Phi còn ở bên cạnh liếm môi, nói: “Rất tốt, ta thích tranh đường vẽ trên ván người này, vừa thấm sinh khí của người, lại đượm mùi thơm thanh nhã của đường. Cầm Tửu, ta thấy tầng mặt cũng tương đối rồi, tiếp theo, có thể chính thức vẽ rồi đó”. Nói rồi đảo mắt, bịt miệng cười gian tà. “Ngươi hầu hạ khiến La Tử thích ngươi thế, e là kỹ thuật đó khá lắm đúng không? Đã như thế, vậy thì bắt đầu từ chỗ đó đi. Xưa có Tào xung cân voi(3), ta muốn có một bức “Mã Khang cưỡi voi lên triều, hi hi hi…”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy gã nói thô bỉ thế, mà cảnh tượng trước mắt tuy không hề máu me, nhưng còn tàn khốc đáng sợ hơn cảnh tượng tàn sát, nhớ lại miếng tranh đường phượng hoàng Di Phi ăn ngon lành lúc trước cũng làm ra bằng cách này, nước chua liền xộc lên cổ họng, nàng buồn nôn không chịu được.

Nàng không nhịn được nữa, dứt khoát đứng dậy, cắn chặt răng, bật ra bốn tiếng: “Tiểu nữ đi đây!”.

“Sao thế?”. Di Phi biết rồi còn vờ hỏi, “Chúng ta chưa bắt đầu thẩm vấn mà, không phải còn chưa biết đêm đó đã xảy ra chuyện gì…”.

Nàng ngắt lời gã: “Cho dù tiểu nữ muốn biết, cũng tuyệt đối không dùng phương thức này!”. Nói rồi bỏ đi, bước ra khỏi khoang thuyền, không nỡ nhìn ván đường thịt người trên sàn thuyền đó, đương chuẩn bị lên bờ, lại phát hiện hóa ra không biết từ lúc nào chiếc thuyền hoa đã trôi ra giữa hồ, cách xa bờ đến hơn mười trượng.

Nàng kinh ngạc quay đầu, thấy Di Phi cười giảo hoạt như hồ ly, gã không nói gì, chỉ là ra vẻ ung dung dùng tay tiếp tục chống đầu, nghiêng người nằm trên sập quý phi nhìn nàng.

“Tiểu nữ phải về dịch trạm”.

“Đợi làm xong việc ở đây, ta đương nhiên sẽ sai người đưa nàng về. Nàng sợ cái gì?”. Khi giọng nói kỳ dị nén âm mũi nghèn nghẹt xuống phát ra, mang theo vài phần tà mị, “Ta không ăn thịt nàng đâu… Yên tâm, ta chỉ ăn đường, không ăn thịt người đâu”.

Khương Trầm Ngư nhìn gã mà không dám tin, chân tay cứ lạnh cóng.

Nàng xuất thân danh môn, bình thường toàn tiếp xúc với quý tộc phong nhã, giới quý tộc giữ gìn thân phận, đặc biệt trước mặt nữ quyến, luôn xuất hiện với vẻ ôn văn hữu lễ, cho dù là phường háo sắc như ca ca của nàng, khi có mặt nàng cũng kiêng dè thận trọng, giả làm quân tử. Vì thế, có thể nói mười lăm năm nay, nàng lần đầu tiên gặp phải kẻ thô bỉ hạ lưu đến thế, hơn nữa còn là một hoàng tử! Giờ nàng đã hiểu vì sao Trình vương lại không thích đứa con này, ai cũng không thể thích nổi gã.

Lấy thân người làm ván để vẽ tranh đường, ăn vào mà không thấy ghê tởm.

Sở thích như thế, hành vi kỳ quái như thế, cũng chỉ có một từ có thể hình dung -

bệnh hoạn!

Di Phi là một tên cực kỳ bệnh hoạn!

Bây giờ, tên bệnh hoạn này lại nhìn trúng nàng, cố tình làm khó, gã muốn cái gì đây?

“Tiểu nữ…”, giọng nói của nàng vì phẫn nộ mà nén xuống rất thấp, nhưng vô cùng kiên định, “nhắc lại lần nữa, tiểu nữ phải quay về, bây giờ, ngay lập tức”.

Di Phi ngưng cười, thong thả bước xuống đất, bước chân chậm rãi, trầm ổn tiến về phía nàng, gã từng bước từng bước lại gần, Khương Trầm Ngư chỉ thấy một luồng áp lực vô hình đang ép về phía mình, hai chân bất giác muốn chạy trốn, nhưng lại không cam tâm tỏ ra yếu đuối trong lúc này, chỉ có thể véo lên đùi một cái thật mạnh, vắt hết sức lực để đứng yên.

Cuối cùng, khi Di Phi dừng lại trước mặt nàng, nàng đã hiểu được áp lực nặng nề đáng sợ đó từ đâu mà tới – vì – Di Phi không hề cười.

Từ lần đầu tiên nàng nhìn thấy thấy gã tới nay, gã luôn cười tươi rói, cười đểu cáng, cười phóng đãng, cười lưu manh, tóm lại luôn cười với bộ dạng cực kỳ đê tiện.

Nhưng mà, lúc này, gã không cười.

Ngũ quan gã cực kỳ tuấn tú, mày mắt mang ba phần độc ác, chỉ cần không cười, ba phần này sẽ khuếch đại thành mười hai phần, gã nhìn nàng chòng chọc, dán mắt vào nàng như một con rắn độc đang rình một con ếch.

“Nàng biết mình đang nói chuyện với ai không?”. Di Phi lạnh lùng hỏi: “Có cần ta nhắc nàng không?”.

Khương Trầm Ngư phản bác nhanh như chớp: “Thế thì đã sao? Tiểu nữ là sứ thần Bích quốc, dù ngài là hoàng tử Trình quốc, cũng không thể làm nhục tiểu nữ như thế!”.

“Làm nhục?”. Lông mày của Di Phi nhướng lên với một góc độ cực kỳ đặc biệt, ánh mắt sắc lẹm như một lưỡi kéo, những chỗ bị ánh nhìn lướt qua, Khương Trầm Ngư đều cảm thấy như y phục của mình bị cắt rách, đương lúc vừa xấu hổ vừa phẫn nộ, lại thấy gã bật cười.

Hai bờ môi mỏng quẹt đó hễ cong lên, vẻ nghiêm nghị trong nháy mắt đã nhạt bớt, gã đứng cách nàng một bước, lại biến thành một hoàng tử đáng ghét mà nàng quen thuộc, kéo dài chất giọng uể oải mà người khác không thể bắt chước được chậm rãi nói: “Nàng cảm thấy như thế là làm nhục? Lẽ nào… nàng vẫn là… xử nữ?”.

“Ngài!”.

“Cho nên không nhìn được nam giới trần truồng? Càng không nhìn được hình phạt trên cơ quan sinh dục đó?”.

“Ngài!”

“Chậc chậc chậc, nàng xem, mặt nàng đỏ lựng lên rồi…”.

Di Phi nói rồi đưa tay ra, đặt trên đầu nàng, “Chẳng nhẽ, sư huynh phong lưu của nàng vẫn chưa động đến người nàng? Hắn chê nàng à? Thực ra, nếu không có vết sẹo này, nàng đúng là một đại mỹ nhân đấy…”.

Bàn tay như rắn độc đó từ trên đỉnh đầu chầm chậm vuốt xuống, dọc theo mái tóc, những chỗ nó chạm phải, da thịt đều nổi gai gốc, nàng rất muốn chạy trốn, nhưng lại không cam tâm chạy trốn, nhưng không trốn lẽ nào để mặc gã sờ mó?

Mắt thấy bàn tay đó sắp rờ đến ngực, không thể nhịn nữa, Khương Trầm Ngư cuối cùng cũng bộc phát, hất tay gã ra, khi định bồi thêm một cái tát, lại bị gã tóm được tay, kéo nàng lại gần, tiếp tục cười nói: “Sao? Giận à? Thực ra, ta rất thích điệu bộ giận dữ của nàng, so với vẻ vờ vĩnh nghiêm chỉnh lúc bình thường của nàng còn thú vị hơn nhiều…”.

“Ngươi!”. Tay bị giữ chặt, nàng định giẫm lên chân gã, nhưng không ngờ Di Phi đoán được, dịch chân ra, Khương Trầm Ngư giẫm hụt, tức giận mắng: “Thả ta ra! Thả ta ra! Di Phi, ngươi dám đối xử với ta như thế à!”.

“Ha ha, ta có gì mà không dám chứ?”. Di Phi cười, cánh tay vô sỉ đó tiếp tục sờ soạng, Khương Trầm Ngư vừa tức vừa cuống, cúi đầu xuống cắn, Di Phi vội thả tay ra, gã dùng lực quá độ, ngón tay bứt đứt hoa tai của nàng, hạt châu rơi khỏi sợi dây, chỉ nghe “tõm” một tiếng, nó rơi xuống hồ nước.

Khương Trầm Ngư thét lên, không biết sức lực ở đâu ra, nàng đẩy Di Phi ra, nhào đến đầu thuyền, nhìn làn sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ, vô cùng sợ hãi.

Hạt châu!

Hạt châu của nàng!

Độc châu mà Chiêu Doãn ban cho nàng!

Đã bị rơi xuống hồ như thế!

Làm sao đây? Làm sao đây? Làm sao đây?

Di Phi thấy nàng lo lắng đến vậy, thản nhiên khoanh tay đứng một bên nói mát: “Sao vậy? Bông tai của nàng quan trọng lắm à? Thực ra ta cũng muốn hỏi nàng, tại sao nàng chỉ xỏ một lỗ tai, chỉ đeo một cái hoa tai?”.

Khương Trầm Ngư nhìn đăm đăm vào mặt hồ, không màn tới lời nói của gã. Di Phi lại tiếp: “Lo lắng như thế, lẽ nào là tín vật định tình hảo sư huynh tặng nàng? Ta thấy nó cũng chẳng đáng mấy tiền, bây giờ hắn là Đông Bích hầu, có rất nhiều tiền, bảo hắn mua cái khác là được”.

Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, toàn thân run lẩy bẩy.

Di Phi mân mê cằm, trầm ngâm nói: “Sao thế? Nàng thích chiếc bông tai ấy đến thế sao? Thế thì nhảy xuống mò đi. Cái hồ này là hồ được đào ra, không sâu chút nào đâu. Nàng mà bơi giỏi, không chừng có thể tìm lại được, ha ha ha…”.

Gã đoán chắc nàng sẽ không xuống mò, vì thế cao giọng cười hỉ hả. Nhưng đang cười gã đột nhiên dừng lại, mặt chợt biến sắc – trước mắt gã, Khương Trầm Ngư chầm chậm ngồi thẳng dậy, ánh mắt nàng thủy chung vẫn dán lên mặt hồ xanh biếc, sau đó đưa tay cởi cúc áo.

Một cúc, hai cúc, ba cúc.

Cởi hết cúc xong, vạt áo rẽ đôi, “soạt” một tiếng, dây đai dệt bằng tơ gai cũng bị ném xuống đất.

Khương Trầm Ngư cởi áo ngoài của nàng với một vẻ vô cảm.

Gió trên mặt hồ thổi tung mái tóc và chiếc áo đơn của nàng, nàng đứng trước mũi thuyền, tóc như mây, da như tuyết, thân hình yểu điệu dường như có thể bị thổi bay bất cứ lúc nào lại toát lên một sự kiên định, cương nghị khó tả thành l ời .

“Ùm” một tiếng, nàng nhảy xuống hồ.

Vẻ mặt Di Phi bỗng trở nên căng thẳng.

Sóng trên mặt hồ dần dần lan rộng, đáy mắt gã dường như cũng dậy sóng, gió trên mặt hồ thổi tung mái tóc và trường bào của gã, thiếu niên luôn tươi cười nham nhở không cười nữa.

Khương Trầm Ngư nhô đầu lên khỏi mặt nước.

Di Phi im lặng nhìn nàng.

Ánh mắt hai người giao nhau giữa không trung, hai bên không để lộ cảm xúc gì. Khương Trầm Ngư hít thật sâu, lại tiếp tục lặn xuống.

Sơn Thủy đi đến bên Di Phi, nhỏ giọng nói: “Tam điện hạ, có giúp nàng ta không?”.

Di Phi lắc đầu, thần sắc trong ánh mắt trầm lắng vài phần.

Từng trận gió thổi tới, tay áo gã phần phật tung bay về phía sau, còn gã cứ đứng như thế ở mũi thuyền, nhìn Khương Trầm Ngư hết lần này đến lần khác ngoi lên rồi lại ngụp xuống. Có thứ gì đó tan ra ở nơi sâu thẳm đáy mắt gã, rồi lại có thứ gì đó bắt đầu dần dần ngưng kết.

Gã bất động, không cười, không nói.

Chỉ tiếp tục nhìn.

Cho đến khi Khương Trầm Ngư lại lặn xuống lần nữa, rất lâu sau vẫn không ngoi lên.

Bọn tùy tùng bên cạnh đã ừng đun đường và dừng hình từ lâu, tập trung hết ở mũi thuyền, Tùng Trúc nói: “Bây giờ tuy là đầu hạ nhưng vì nước hồ này vốn dẫn từ nước suối của Lân U tuyền nên lạnh hơn nước bình thường rất nhiều, vị cô nương này lặn xuống lâu như thế, e là…”.

Sơn Thủy cũng phụ họa: “Cho dù nói thế nào, nàng ta cũng là sứ giả của Bích quốc…”.

Mặt hồ im lìm.

Gió không biết đã ngừng thổi từ khi nào. Thân thuyền bất động.

Vì thế, mặt hồ xanh ngăn ngắt nhìn giống như một tấm gương không hề có chút sinh khí nào.

Di Phi nhìn mãi nhìn mãi, đột nhiên quay người về khoang.

Sơn Thủy và Tùng Trúc đang thương xót cho Trầm Ngư, bỗng một giọng nói lạnh lẽo như nước hồ vẳng tới – “Cầm Tửu, cứu nàng ta lên”.

Ghi chú: (1) Huyệt nhãn: Trong phong thủy chỉ vị trí trung tâm, hoàng cực, là điểm ngưng kết sinh khí của địa điểm. Ở đây có thể hiểu là lòng suối.

(2) Tranh đường: Là loại kẹo làm từ đường đun nóng, sau đó dùng đường hóa lỏng còn nóng vẽ thành các hình thù, sau khi đường nguội, cứng lại sẽ có màu vàng đậm.

(3) Tào Xung (196 – 208) tự là Thương Thư, là con trai của Tào Tháo, nổi tiếng là thần đồng, được biết đến nhiều với câu chuyện cân voi. Vào thời Tam Quốc, Tôn Quyền vì muốn lấy lòng nước Ngụy đã gửi cho Tào Tháo một con voi làm quà. Vào thời ấy, ở phương Bắc, voi là loài vật hiếm cho nên khi con voi được gửi tới Kinh đô Hứa Xương, Tào Tháo dẫn văn võ bá quan cùng con trai Tào Xung tới xem. Tào Tháo chưa từng trông thấy con voi bao giờ nên coi đó là kỳ lạ. Con voi rất cao và to, chân của nó dày như chiếc cột nhà và người ta có thể ở dưới bụng của nó. Ông ta hiếu kỳ và muốn biết voi nặng bao nhiêu nên bảo với quần thần tìm cách đo trọng lượng của voi. Điều này khiến mọi người bối rối vì khó có thể tìm được một cái cân to để cân voi. Tào Xung lúc này mới sáu tuổi đã đề nghị được cân voi. Tào Tháo chấp thuận. Tất cả văn võ bá quan đi theo Tào Tháo ra bờ sông, nơi một chiếc thuyền lớn neo đậu ở đó. Tào Xung yêu cầu lính gác dẫn con voi lên trên thuyền. Khi chiếc thuyền đã thăng bằng, cậu bé vạch một vạch đánh dấu mức nước lên thân chiếc thuyền. Rồi cậu hạ lệnh đưa con voi ra khỏi chiếc thuyền. Lúc đó thuyền lại nổi lên như khi chưa có voi xuống. Sau đó cậu yêu cầu lính gác khuân những khối đá với nhiều kích cỡ lên trên thuyền, và chúng khiến chiếc thuyền chìm xuống mặt nước. Khi mực nước đã đến mức được đánh dấu trên thân thuyền, cậu ra lệnh cho lính gác ngừng khuân đá. Sau đó sai lính lần lượt cân số gạch đá này. Đến lúc này thì mọi người hiểu ra và khâm phục Tào Xung, Tào Tháo thì cảm thấy vô cùng hãnh diện vì người con thông minh của mình.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play