Quá đỏ đèn một chút thì
xuồng chúng tôi về đến nhà. Má nuôi tôi nghe giầm khua dưới bến, cầm đèn bước
ra, con Luốc chưa kịp phóng lên bờ, tôi đã bô bô khoe với má nuôi tôi:
- Mật nhiều lắm má ơi, ra đây mà khiêng.
Má
nuôi tôi ừ, một tiếng, soi đèn ngó xuống xuồng. Chúng tôi ì ạch khiêng hai gùi
mật và thúng sáp ong lên nhà rồi, mà vẫn không thấy bà tỏ vẻ gì quan tâm đến
kết quả chuyến thu hoạch của tía con chúng tôi lắm. Tôi tiu nghỉu ngồi xuống
chõng, bao nhiêu câu sắp sửa kể cho má nuôi tôi nghe về chuyện đi lấy mật lý
thú ngày hôm nay tan biến đi đâu mất cả.
- Chú Võ Tòng có đến tìm ông đấy - má nuôi
tôi nói với tía nuôi tôi - Chú không chờ được, đã về từ chập tối. Có chuyện gì
vậy ông?
- Nào có gặp chú đâu mà
biết?
- Ắt có chuyện gì quan trọng. Cứ thấy bộ mặt
của chú thì tôi đoán như vậy. Tôi gạn hỏi mấy lần, chú cứ ậm à âm ừ. Cha chả,
chú nhặt được ở đâu một cái quần tây, ống ngắn ngủn mặc chí tới nửa ống chân
lại còn đeo lưỡi lê nữa chứ
Tía nuôi tôi cười khà khà, gật gù:
- Hôm nọ tưởng chú nói đùa, hóa ra thật! Bà
thấy chú có mang súng ống gì không?
- Có. Chú dặn tôi, hễ ông về thì bảo ông lên
nhà chú chơi. Ắt có việc gì đấy. Khổ quá, cứ dặn đi dặn lại mãi. Tôi hỏi có
chuyện gì hệ lắm không thì chú lại bảo chẳng có việc gì.
- Có thể là...
- Việc gì thế ông?
- Tôi đã biết đâu. Để gặp
chú xem đã..
- Thôi mặc các ông. Tôi chẳng hơi đâu...
Chuyện gì cũng bô lô ba la nói hết với mọi người, mà vợ con trong nhà hỏi đến
cứ ậm à ậm ừ...
Má nuôi tôi bấy giờ mới quay sang hỏi thằng
Cò về vết ong đốt. Bà nướng một củ gừng, bảo nó nhai nuốt và trùm mền lại cho
nó ra mồ hôi.
- May mà không gặp ong lỗ, thằng An nhớ coi
chừng dưới chân dưới cẳng đấy.
- Con biết rồi - tôi đáp.
- Đạp nhầm tổ ong lỗ, nó đốt cho một vết thì
thấy tám ông trời? Mày cười ư? Nó đốt trâu còn phải rống, chạy cong đuôi đãy
con ạ.
Tía nuôi tôi bảo má nuôi tôi:
- Bà liệu thổi nắm cơm bây giờ đi. Nghỉ ngơi
một chốc khoảng nửa đêm tôi đi đấy. Chà mật còn nhiều lắm... Đi sớm một chút,
ghé qua nhà chú Võ Tòng xem có chuyện gì.
- Sáng mai hẵng đi, tía à? - thằng Cò đã trùm
mền kít mít còn hé thò đầu ra, nói lắp bắp.
- Sốt rồi phải không - Tía nuôi tôi hỏi - Con
ở nhà thôi. Ngày mai chưa đi được đâu. Để thằng An đi với tía thôi?
Khuya đêm đó, hai tía con tôi bơi xuồng ra
đi, Thằng Cò phải ở nhà nên nó bèn kiếm cớ gỡ. Nó cứ rịt con Luốc lại không cho
theo tôi: nó bảo không cho nó đi thì phải để con Luốc ở nhà choi với nó cho có
bạn!
Xuồng ra tới sông, tôi hỏi tía nuôi tôi:
- Không đi lối cũ sao, tía?
- Lên nhà Võ Tòng đã. Rồi cũng có kênh đi tắt
ra chỗ lấy mật hôm qua. Kênh rạch chằng chịt trong rừng, đi lối nào chẳng được.
Chúng tôi lặng lẽ bơi xuồng đi rất lâu. Tới
đã thấm mệt và bắt đầu buồn ngủ. Tía nuôi tôi nghe tôi ngáp, bảo tôi cứ ngủ đi,
để một mình ông bơi cũng được. Tôi vừa đặt giầm lên xuồng, chưa kịp chui vào nó
thì đôi mắt đã díp lại rồi.
Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi
tôi mở mắt rá, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi
đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú
Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, giụi mắt trông lên. ánh lửa bếp từ trong một
ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang
dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con
vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng
nói: thằng bé của anh nó lên đấy!"
- Vào đây An! - tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng
lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt veo trên một thanh xà ngang, nhe răng
dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai
người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà-ràng lửa cháy riu riu, trên cà-ràng
bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.
Chai rượu đã vơi và một đĩa thịt khô nướng
còn bày trên nền đất ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ vắt
chéo lên nhau.
- Ngồi xuống đây, chú em! - Chú Võ Tòng đứng
dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa..
Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới,
nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần linh Pháp có những sáu túi). Bên
hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi
tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp
chú lần đầu tiên ởbờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc
nhiên hơi buồn cười thế nào ấy.
Tía nuôi tôi ngó tôi, cười
cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra..
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho
đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to
nhất đặt vào tay tôi.
Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét
ché.,. ét..., ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp
muối sả nướng thơm phúc cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều.
Trên vách lều đóng đầy mồ hóng đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi
cái treo lủng láng cạnh những đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân
dọc xâu từng đôi một, gác trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày
từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh
xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi ục ục. trên bếp cà -ràng, khiến tôi
có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ
ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kỳ loài nguời mới tìm ra lửa
vậy.
***
Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy
năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng
đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có.
Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một
buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một
cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người,
cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một
nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con
ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm
từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt
cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái
dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng"
hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng
trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai.
Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng
cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến
bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ,
tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một
mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba-toong đánh
lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng
ông bà... thì số mày tới rồi! " Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên
địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát
dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu.
Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay
chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe
tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt
thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh.
Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống
hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất
vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự
quả quyết rằng chính gã đã mang tên Võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu
tội.
Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên
người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu
vết trong những năm gã Ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang
hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng
mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào
nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng.
Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng
giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay
không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...
Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía
nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật
thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe tưng... tưng " rồi lại đặt xuống.
Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm,
trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này,
thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng,
vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm,
động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy.
Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm
sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe
động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng
trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung
tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra.
May sao cái thây thằng râu xồm còn nằm thẳng cẳng để, đợi tôi đến lột hộ bộ
quần áo ka-ki... Hê... hê... hê! Khi lọt lòng mẹ, nó chui ra như thế nào thì
chết như thế ấy... cho được thủy chung như nhất? Tôi chỉ lấy cái quần để che
chỗ xấu xa của con người thôi, anh Hai à. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi
biếu cho anh em lính đằng mình.
Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha
đượm một nói buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu
riu mà không khỏi bùi ngùi.
- Chú em cầm hộlọ muối chỗ vách kia đưa giùm
qua chút! - chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi.
Khi tôi cầm lọ muối lên thì thấy chú đã ngồi
xổm xuống cạnh bếp, tay mở nắp vung trên nồi ra. Trong nồi một thứ thuốc gì
đang sôi cuồn cuộn, đen nhánh và dẻo quánh như nhựa tráng đường, tỏa lên một
làn khói mỏng xanh xanh, mùi hăng hắc. Võ Tòng không quay lại, chỉ với tay nhón
lấy mấy hạt muối trong lọ tôi cầm đến. Chú bỏ một hạt muối vào món thuốc đen
nhánh đang sôi, hạt muối nổ tách một tiếng bắn ngay ra khỏi nồi.
- Được rồi đấy? - chú Võ Tòng nói xong, bỏ
nốt những hạt muối còn lại vào nồi, rồi xoa tay đứng dậy.
Tiếng nổ lách tách bắn xa giòn tan chung
quanh nồi thuốc. Bây giờ chú mới đến bên vách rút ra một bó tên tre đã vót sẵn,
cầm từng chiếc tên nhúng đầu nhọn vào nồi thuốc vừa xoay lăn, cho thuốc quấn
nhiều lớp vào đầu mũi tên. Xong một chiếc, chú xếp ra trên cái nong. Và chú
tiếp tục cầm một chiếc tên khác, đua lên nheo mắt ngắm, nắn nắn lại cho thật
ngay trước khi nhúng vào nồi thuốc để làm lại như lần trước. Tôi đứng xem người
thợ săn áo thuốc tẩm thuốc độc vào đầu tên một cách say sưa, đến nỗi không dám
thở mạnh.
Vào khoảng cuối canh năm thì ngót năm mươi
mũi tên tre đã tẩm thuốc xong và lớp áo ngoài đầu tiên cũng vừa khô mặt. Nắn
thấy không còn dính tay, chú Võ Tòng chọn ra hai muối chiếc giắt vào một bao
tên làm bằng ống nứa khô.
- Chỉ sầy da một tí, đủ chết ngay anh Hai ạ?
Nhưng thuốc này có thể uống được. Đau bụng quằn quại, nuốt vào một tí là khỏi
ngay lập tức đấy. Đau mấy cũng khỏi?
Tôi nghe mà phát lạnh xương sống. Tôi không
thể nín được buột miệng nói:
- Lỡ trong mồm, trong dạ dày, hay trong ruột
bị lở loét gì mà nuốt vào thì bỏ mạng, chú ạ?
Võ Tòng chăm chú nhìn tôi một lúc, rồi còn
lớn:
- Chú em nói ngẫm cũng đúng. Nhưng mà.. những
người nghèo, những người không ăn bậy, ít khi đau mồm và đau dạ dầy lắm?
Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài
tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây
chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:
- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây
thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ
những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều
tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy
hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà
tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ
tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.
- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để
bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con
vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi.
Tía nuôi tôi dập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:
- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
- Có gì đâu anh Hai. Vì
nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên
bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang
theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng,
muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn
một thôi dài.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT