Một vạn binh sĩ của Lưu Đĩnh đều là những tay khoẻ mạnh, tinh luyện. Chỉ vì băng rừng xẻ núi mở đường, chịu bao nỗi phong trần gian khổ, mười
người thì đã có đến năm bắt đầu phát bệnh. Nay được tin Đỗ tướng quân
chiếm được Hưng Kinh, sai quân tới đón vào thành nghỉ ngơi ít hôm, ai
nấy nhảy lên vì sung sướng. Nào binh khí nào giáp trụ, họ đều gói lại
vác vai, vui ca qua sông. Bọn lính Chiết Giang tới báo tin hôm trước, đi đầu dẫn lộ. Đoàn quân đi vừa được 20 dặm đường, phía sau bỗng có chiêng trống vang rầm. Rồi một chi quân đánh tới. Đây chính là chi quân của
Tam bối lặc nước Kim. Đĩnh hoảng hốt lo sợ. Trong chốc lát, đám lính
Chiết Giang biến đâu mất, không còn thấy một tên. May thay Đĩnh còn có
năm trăm tên thân binh chưa cởi bỏ giáp trụ, bèn hô quay ngay lại, bày
thành trận thế. Đĩnh quất ngựa tiến lên. Tam bối lặc tiếp chiến. Quân
Kiến Châu kéo tới mỗi lúc mỗi đông. Hậu đội quân Minh lại không kịp mặc
áo giáp, tình thế nguy cấp vô cùng!
Lưu Đĩnh biết gần đây có một
ngọn đồi tên gọi A Bố Đại Lý, có thể đóng quân được, bèn truyền lệnh cho ba quân tướng sĩ rút vội về đóng tại đỉnh đồi rồi sẽ nghênh địch. Quân
sĩ đi trước, Đĩnh đích thân áp hậu, vừa đánh vừa lui. Khi tới đồi A Bố
Đạt Lý, quân Minh tiến thẳng lên đỉnh.
Nhưng vừa tới sườn đồi
bỗng nghe từ trên đỉnh một tiếng pháo hiệu nổ vang rền. Tứ bối lặc cầm
đầu một cánh quân vừa hò hét vừa xông xuống. Quân Minh lúc đó tay chưa
lấy kịp vũ khí, mình chỉ mặc có nhuyễn giáp.
Từ trên đinh đồi,
tên đạn bắn xuống như mưa. Quân Minh tránh tên, té ngửa ra sau, lăn nhào xuống chân đồi thây lấp kín cả các hố hốc. Tướng sĩ chân tay của Đĩnh
chết đã mất quá nửa. Tình cảnh thật vô cùng bi đát. Trước đã không có
đường tiến, sau lại có truy binh, Đĩnh đành phải lượm lặt tàn quân chạy
vội về hướng tây.
Một dãy núi đằng trước. Hai ngọn chọc trời song song. Quãng giữa là một đường độc đạo ngoằn ngoèo như ruột dê. Đĩnh bèn hô quân xếp thành hàng một từ từ rút qua. Đĩnh đích thân đoạn hậu.
Nhưng khi đoàn quân của Đĩnh ra khỏi eo núi được một nửa, địch quân bỗng từ phía tây chia hai cánh giáp công. Bên trái có Đại bối lặc Đại Thiện, bên phải có Hỗ Nhĩ Hán cắt hẳn đoàn quân Minh ra hai đoạn.
Đại
bối lặc Đại Thiện vừa thấy Lưu Đĩnh, quất ngựa xông tới nghênh chiến!
Đĩnh thấy Thiện, đôi mắt bốc hoả, răng nghiến kèn kẹt, tay múa đại đao
chém tới. Hai tướng đại chiến ngay tại eo núi, một qua một lại, chẳng
mấy chốc đã năm, sáu chục hiệp không phân thắng bại. Thiện bỗng bỏ Đình
giữa lúc đang kịch chiến, chạy ra ngoài eo núi, Đĩnh tức giận đến cực
độ, giục ngựa đuổi theo, nhưng quân Kiến Châu đã bốn mặt xô tới vây kín
lại.
Đĩnh phóng ngựa xông đông phá tây, chạy qua chạy lại mong
thoát trùng vây, nhưng rút cục vô phương. Thủ hạ binh sĩ theo sát Đĩnh
thưa dần. Bốn mặt tên vẫn như cào cào phóng tới. Đĩnh múa tít cây đao
gạt tên, đồng thời ra sức tìm đường trốn chạy. Bỗng một mũi tên vụt tới
trúng ngay vào giữa mắt ngựa Đĩnh. Con ngựa đau quá cất đứng người lên
cao, miệng hí lên rầm rầm, quật ngã Đĩnh xuống đất. Quân Kiến Châu xô
tới bắt. Đĩnh nhanh tay, rút vội đao tự vẫn.
Đại bối lặc Đại
Thiện cắt thủ cấp Đĩnh rồi quay ngựa đem bản bộ binh mã tiến thẳng sang
miền Phú Sát. Bởi vì lúc đó Thiện đã được tin Khang Ứng Kiên đem một vạn quân Triều Tiên theo miền Phú Sát nam lộ kéo tới. Quân Triều Tiên mình
đều mặc áo giáp giấy, đầu đội mũ dây liễu. Thiện biết vậy, nẩy sinh một
kế, đợi tới nửa đêm, đích thân chỉ huy một ngàn kỵ binh, đem theo đồ dẫn hoả xông vào cửa trước trại địch mà khiêu chiến, còn cửa sau thì phóng
hoả đất trại. Đêm đó, gió đông nam lại thổi mạnh. Ngọn lửa bốc lên, xông vào doanh trại, chỉ trong nháy mắt đã cháy rực khắp nơi.
Quân
Triều Tiên áo giáp đều bắt lửa, chạy không thoát, bị chết cháy quá nửa.
Số còn lại đều nám mặt sém mày, vội chạy ra khỏi trại, lại bị phục binh
của Thiện bắt hết.
Ba cánh quân khác của Kiến Châu do Tam bối
lặc, Tứ bối lặc và Hỗ Nhĩ Hán chỉ huy lúc đó cũng đã kéo tới, thấy vậy,
liền bổ vây tứ phía, nhất loạt phóng tên vào.
Cuộc chiến kéo dài
từ nửa đêm đến mãi trưa hôm sau, một vạn quận Triều Tiên kẻ chết vì lửa
người chết vì tên, chỉ có Khang Ứng Kiên là người duy nhất chạy thoát mà thôi. Trong trận đánh này, quân Kiến Châu bắt được ngựa lừa, vũ khí
không thể kể xiết.
Hỗ Nhĩ Hán đem đoàn quân chiến thắng mở đường
đi trước, lại gặp một tiểu đội quân mã du kích Kiều Nhất Kỳ của Minh
Triều. Hai bên tiếp chiến. Kỳ đại bại, chạy trốn. Hán đuổi theo.
Khi đuổi tới chân núi Cố Lạp Khố, Hỗ thấy trên núi một dãy trại binh có cờ
Triều Tiên bay phất phới. Hán nghi ngờ, cho Nhất Kỳ chỉ là một tướng dụ
địch. Nên không dám tiến, sai người báo tin cho đại bối lặc cùng tam bối lặc biết. Chẳng bao lâu cả ba bối lặc đều đem quân tới nơi họp binh một chỗ.
Lại nói Đỗ nguyên soái Triều Tiên tên Khương Hoàng Lập được tin quân Minh thảm bại, bèn cất trống giấu cờ, sai thông sự quan tới
doanh trại quân Kiến Châu để xin đầu hàng và bày tỏ:
- Việc giúp
Minh triều vốn chẳng phải bản ý của quốc vương tôi. Chỉ vì ngày trước
quân Nhật Bản xâm lăng tiến vào chiếm cứ thành trì nên quốc vương tôi
phải nhờ tới quân Minh để đẩy lui quân Nhật. Nay Minh triều đưa thư tới
gọi quân nước tôi tới Khoan Điện, quốc vương tôi vì nghĩa chẳng tiện từ
chối. Bởi vậy quốc vương tôi sai một vạn quân đồn trú tại miền Phú Sát
thực ra bọn tôi chẳng biết phải đánh nhau với ai, mãi nay mới biết là
với quân Kiến Châu của các ngài. Bon tôi đâu dám xúc phạm tới oai hùm
của thượng quốc. Huống hồ một vạn quân binh của bọn tôi đã nhờ ơn thượng quốc giết cho bằng hết rồi. Do đó, nguyên soái nước tôi xin lập tức
đình chiến để mưu cầu hoà bình cho hai nước.
Đại bối lặc Đại
Thiện nghe xong, bèn cùng bọn Hỗ Nhĩ Hán thương nghị. Tứ bối lặc liền có chủ ý, sai thông sự quan đi theo người Triều Tiên trở về núi Cố Lạp
Khố, đặt điều kiện với Lập:
- Nếu các ngươi muốn xin hàng, hãy
giết hết bọn quân Minh còn lại trong trại, sau đó Đô nguyên soái Khương
Hoàng Lập phải đích thân đến trại ta xin hàng. Bọn ta lúc đó sẽ vì đức
hiếu sinh của trời đất mà tha cho các ngươi.
Thượng Hoàng Lập
nghe thông sự quan nói vậy, không còn cách nào khác, bèn hạ lệnh cho bắt hết quân Minh trong trại rồi lao từng tên một từ đỉnh núi xuống, tay
gãy chân què, máu me lênh láng, chết không kịp kêu. Quân sĩ Kiến Châu
cắt thủ cấp Kiều Nhất Kỳ rồi đem theo Đô nguyên soái, phó nguyên soái
của Triều Tiên về Hưng Kinh.
Về tới thủ đô Kiến Châu, Lập được vào yết kiến Anh Minh hoàng đế, vội bò rạp xuống đất, đập đầu kêu binh binh.
Anh Minh hoàng đế cho người nâng dậy, rồi bày rượu thịt ra ăn uống ở ngay
điện bên cạnh. Đồng thời truyền lệnh tiệc để ăn mừng thưởng công. Đế cho mời tất cả các quan viên lớn bé tòng chinh vào ngự hoa viên uống rượu.
Trong cung cấm, Đế cũng cho triệu tập các bà phi, các thái tử, công
chúa, các phúc tần, mở một tiệc linh đình.
Các phi hôm đó có bà
Phú Sát, bà Ô Lạp, bà Giác La, cùng các thứ phi. Bọn con cái thì có thái tử Đại Thiện, tam tử A Bá, tứ tử Thang Cổ Đại, ngũ tử Mãng Cổ Nhĩ Thái, lục tử Tháp Bái, thất tử A Bát Thái, bát tử Hoàng Thái Cực, cửu tử Ba
Nhĩ Thái, thập tử Đức Cách Loại, thập nhất tử Ba Bố Hải, thập nhị tử A
Tế Cách, thập tam tử Lai Nộ Bố, thập tứ tử Đa Nhĩ Cổn, thập ngũ tử Đa
Lạt, thập lục tử Phi Dương Cổ. Tất cả đều ngồi quây quần trong cùng một
chiếu rượu.
Anh Minh hoàng đế lúc đó vừa uống rượu vừa nghe ba vị Đại, Tam và Tứ bối lặc kể lại trận đánh, trong lòng rất lấy làm sung
sướng. Ông vốn yêu người con thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn nhất. Thấy Cổn
mặt mũi khôi ngô, tính tình nhu thuận, đầu óc lại thông minh, bọn các bà phi, các bà phúc tấn ở trong cung ai cũng đều ưa thích. Trong bữa tiệc
Cổn chẳng khác gì một con bướm đùa hoa, chạy tung tăng khắp nơi, khi thì ngồi vào lòng bà phi này một lát, khi lại tựa vào gối bà phúc tấn nọ
một chập.
Anh Minh hoàng đế uống rượu đến lúc quá hứng, bèn kéo Cổn vào lòng mình, lấy tay vuốt má Cổn mà hỏi:
- Mấy hôm nay con vẫn tập dượt cung tên đấy,chứ?
Cổn bĩu môi, nũng nịu đáp:
- Có chứ! Mấy hôm nay cứ độ canh tư là con trở dậy bắn cung đấy!
Vị sư phó ngồi gần tiếp lời:
- Cậu nhỏ tập chưa được tinh luyện. Còn phải cố gắng thêm nữa mới được.
Anh Minh hoàng đế mỉm cười nói:
- Chẳng cần cố làm gì! Chớ có dùng sức quá độ, e mệt con trẻ.
Giữa lúc hai cha con Đa Nhĩ Cổn trò chuyện với nhau, thì bà phi Ô Lạp lòng
sung sướng như mở cờ bởi vì bà thấy con mình được chồng cưng chiều hơn
hết. Bà vội rời khỏi ghế ngồi, uốn éo lưng ong, bước lại trước mặt nhà
vua rồi vừa cười vừa nói:
- Bệ hạ đừng coi nó là một thằng bé mười tuổi nữa nhé! Nó đã theo sư phó học làm thơ Hán rồi đấy!
Anh Minh hoàng đế nghe đoạn, giơ cao ngón tay cái nhấn mạnh vào không khí để tỏ dấu khen ngợi:
- Thằng bé hay quá!
Thấy cha khen, Đa Nhĩ Cổn muốn trổ tài bèn chạy đi lấy ngay giấy bút, viết bốn chữ: "Tây giao thí tiễn" (Thi bắn ngoài cánh đồng mé tây), rồi sau đó, viết luôn một bài thơ tứ tuyệt như sau:
"Rừng tây cờ gấm phất phơ bay.
Tên thép cung vàng rợp bóng cây.
Một phát bay ngang hơn tia chớp!
Nào ai giỏi bắn dám so tài?"
Thơ viết xong, Cổn liền dâng cho cha xem. Anh Minh hoàng đế cười khà khà, tỏ vẻ đắc chí, nói:
- Thật là uổng! Cha mày làm đến thiên tử một nước mà chẳng biết lấy một
chữ Hán này! Con của cha khá lắm! Mau dịch ra cho cha mày xem coi! Khà!
Khà! Khà!
Cổn bèn đem ý tứ trong thơ giảng giải cho cha nghe một
cách hoạt bát thông thạo. Cử toạ ngồi khắp điện, ai cũng đều phải vỗ tay khen giỏi!
Giữa lúc bà Ô Lạp hớn hở đắc ý về cậu con cưng của
mình thì bà Phú Sát lòng chua như dấm, bực tức đến không thể chịu nổi.
Bà đưa mắt nhìn hai cậu con mình. Mãng Cồ Nhĩ Thái được cha phong cho
làm Tam bối lặc, trong lòng rất lấy làm cảm kích nên chẳng dám phóng
túng bừa bãi. Duy chỉ có Đức Cách Loại không được cha phong cho làm bối
lặc, nên có lòng oán hận đã lâu. Nay thấy mẹ biểu đồng tình với mình,
nên lại càng vững chí, tính nhân dịp này mà xả bớt tức cho hả lòng phần
nào. Nhưng Loại nhìn quanh chăng thấy ai cố võ tự cảm thấy cô độc, lại
thôi không dám hé răng. Đúng lúc đó, Loại nghĩ ngay tới Tứ bối lặc là
Hoàng Thái Cực vì biết Cực không ưa Cổn. Loại bèn lẻn tới sau lưng Cực
kéo tay áo Cực, đưa mắt cho Cực. Cực quay lại thấy vậy cũng đưa mắt cho
Loại tỏ vẻ đồng tình.
Hoàng Thái Cực vốn là con trai bà Thái phi. Cực giỏi võ nghệ lại có bộ mặt xinh trai. Tuy vậy Cực vẫn không thể nào đọ được với Cổn vì Cổn bảnh trai nổi tiếng, các bà phi trong cung cấm,
ai mà chẳng khoái Cổn, Cực vì đó mà ghen tức.
Nay thấy Cổn vênh
váo làm bộ quá đáng, Cực đột nhiên cả giận. Cực cậy mình có chiến công,
chắc hẳn phụ hoàng cũng không nỡ rầy bèn nheo mũi khịt một tiếng rồi
nhếch mép cười nhạt.
- Đó bất quá chỉ là đồ trẻ nít cợt đùa! Nước đại Kim ta lấy việc tung hoành thiên hạ trên lưng ngựa mà thành nghiệp
lớn chứ đâu có cần tới cái đồ trẻ nít đó!
Mấy lời nói của Cực tuy rất quang minh chính đại nhưng đối với Anh Minh hoàng đế, ngài đã thấy
rõ được sự ghen tức giữa hai đứa con mình. Đế tự nhủ ghen tức chẳng phải là điều tốt, tính rầy la Cực. Khốn nỗi Cực cũng là cục cưng của ngài,
hơn nữa Cực lại chơi thân với khắp văn võ bá quan trong triều, đồng thời lại vừa mới lập được chiến công. Cho nên ngài thấy chẳng tiện thực hiện ý mình. Ai ngờ Cực vừa nói xong thì bên kia, Loại đã lên tiếng. Loại
vừa cười nhạt vừa nói giễu:
- Mấy câu thơ đó nghe đã quá quen mà! Sư phó ta cũng đã dậy ta từ lâu. Phải chăng mày đã chép lại trong sách
nào đó để đem lừa dối phụ hoàng?
Cổn vốn chỉ là một đứa trẻ nít.
Hắn nghe hai anh chém cụt hứng của mình, liền méo xệch mồm, oà lên khóc. Bà Ô Lạp vội vàng chạy lại kéo đi. Anh Minh hoàng đế tức quá, đôi mày
dựng ngược lên, quát Loại:
- Hai anh em mày khinh nó trẻ nít phải không. Chỉ một chuyện nhỏ đó mà chúng mày cũng không chịu nhường nhịn,
thử hỏi tương lai rồi đây sẽ ra sao?
Câu mắng của ông khiến bọn
thất tử ngồi trong điện câm miệng lặng thinh. Ông truyền lệnh chỉ đuổi
Loại ra khỏi cung và từ nay, phải có lệnh tuyên triệu mới được vào. Chỉ
đó truyền xong, các thái tử mặt người nào người nấy cũng xám ngoét, rồi
chả ai bảo ai, lần lượt rút êm ra khỏi cung cấm. Duy có Cực trong lòng
bất phục. Bởi vậy, Cực mua chuộc văn võ bá quan, kết bè lập đảng để thủ
thế. Đó là chuyện về sau.
Lại nói quan Kinh lược sứ nhà Minh là
Dương Cảo ở Thẩm Dương lần lượt được phi báo ba lộ quân mã đều bị tiêu
diệt thì hoảng hồn bạt vía, tay chân run lên bần bật. Một mặt ông viết
sớ tâu về triều cho Thần Tông hoàng đế rõ sự thể, một mặt truyền lệnh
cho Tổng binh Lý Như Bá đóng tại thành Thanh Hà lập tức rút quân về Thẩm Dương để bảo vệ thành trì.
Cuộc chiến tại Tát Nhĩ Hữ sơn này,
Minh triều chết mất cả thảy tám vạn tám ngàn năm trăm chín mươi tên quân và hơn ba trăm mười viên tướng. Quân Triều Tiên cũng bị chết cháy theo
mất đến hơn một vạn.
Một việc làm cho Cảo băn khoăn mãi chẳng
yên, đó là thi hài của người anh em kết nghĩa Lưu Đĩnh. Cảo bèn sai năm
mươi tên quân lẻn đến chân đồi A Bố Đạt Lý tìm xác Đĩnh đem về. Cảo lại
sai thợ mộc dùng gỗ mộc hương làm một cái đầu người lắp vào cổ cụt của
Đĩnh, mua sẵn một cỗ quan tài thượng hạng, khâm liệm rồi đích thân đưa
vê Bắc Kinh.
Vợ con Đĩnh trông thấy quan mộc, khóc đến chết đi
sống lại nhiều lần. May có Dương phu nhân vốn là chỗ thân tình đem lời
lẽ hơn thiệt khuyên giải nên họ cũng nguôi dần. Từ đó, con cái Lưu Đĩnh ở lại trong phủ Dương Cảo. Dương phu nhân đem con gái mình hứa gả cho Lưu công tử. Hai gia đình trở thành sui gia, và Lưu phu nhân cũng có chỗ
nương nhờ.
Minh triều từ khi bị một vổ chua cay, chết binh mất
tướng một cách tai hại, chỉ còn biết giữ quan ải, không dám can thiệp
đến chuyện quan ngoại nữa. Anh Minh hoàng đế bèn lợi dụng cơ hội tết đó
chiếm Khai Nguyên thành, phá Thiết Lĩnh thành, đánh bại quân Mông Cổ
Khách Nhĩ Khách, bắt sống tù trưởng Tể Trai. Đại tướng Hỗ Nhĩ Háp còn
tâu với Kim đế:
- Diệp Hách bộ chủ trước đã chối bỏ cuộc cầu hôn
của ta, nay lại giúp Minh triều để đánh bại ta. Cái hận ấy không thể
không báo. Xin bệ hạ xưống lệnh chinh phạt.
Anh Minh hoàng đế nói:
- Trẫm đâu có quên cái thù của Diệp Hách. Chỉ vì Diệp Hách bộ chủ vốn có
cái tình cậu cháu đối với Tứ bối lặc của ta. Nếu ta đem quân chinh phục, e khó coi về mặt bà con thân thích!
Đại bối lặc Đại Thiện lúc đó ngồi bên cạnh, vội đứng phắt dậy nói:
- Xưa nay thường nói: Vì đại nghĩa mà diệt thân tình. Chúng ta là những
người muốn tạo nghiệp lớn há lại quá lo lắng đến điều nhỏ nhặt đó ư?
Anh Minh hoàng đế nghe Thiện nói, gật đầu luôn mấy cái, bèn bảo:
- Ừ, nói thế cũng phải!
Thấy cha tán đồng ý kiến của anh, Tứ bối lặc liền xin cha cho làm tiên phong nguyên soái, đem một vạn người ngựa đi trước. Anh Minh hoàng đế đích
thân đem hai vạn quân lên đường theo sau; cái bối lặc đại thần cũng đều
có mật trong dinh để nghe lệnh điều động
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT