Sau khi hồn phi phách tán còn có thể thu thập lại hồn phách, suốt ngàn năm nay lần đầu tiên Tống Anh cảm thấy bản thân có phúc.

Quả thực đạo sĩ áo vàng kia gây ra thương tổn không thể cứu vãn cho nàng. Trong khoảnh khắc sau khi giết người, Tống Anh có phần hối hận. Nếu không cố chấp báo thù, lại tu luyện thêm chừng trăm năm, nàng có thể trở thành một quỷ tiên nho nhỏ. Có thể thấy bản thân lăn lộn lâu như vậy vẫn chỉ là người trần mắt thịt, không bỏ được ân oán tình thù.

Hoàng cung Biện Tấn châu báu vô số. Khối cốt ngọc mà hồn phách Tống Anh đang ở tạm bây giờ là một trong số đó. Ngọc có tính âm, lại thêm khối ngọc này là xương cốt của một tiên nữ hóa thành, âm khí thịnh vượng, rất thích hợp nuôi dưỡng hồn phách khô héo của Tống Anh.

Lúc thần thức Tống Anh quay lại suýt nữa bị đôi mắt ngập đầy tơ máu hù cho chết lần nữa. Trấn tĩnh nhìn lại, lòng nàng đau xót. Đây không phải Tiểu Trọng Trọng của nàng ư, sao lại sa sút đến mức này! Nhìn thấy nàng còn không ngừng rơi nước mắt, nào có chút uy nghi đế vương?

Năm đó trên núi, hai cha con Tống Anh cứu chính là tể tướng vương triều Biện Tấn, Tư Mã Tuân và con gái ông ta. Tư Mã Tuân là công thần của Biện triều, tự nhiên nhận ra thẻ bài Trọng Viêm đeo trên cổ là sở hữu đặc biệt của hoàng thất. Từ xưa hoàng thất đấu đá, không thiếu hoàng tử vừa ra đời liền chịu độc thủ. Tư Mã Tuân nhớ tới Huệ phi mười lăm năm trước bị nói là sinh ra quái thai, ban thưởng chết, lại thấy tướng mạo Trọng Viêm giống Huệ phi tới bảy tám phần, biết mình đã gặp được hoàng tử. Lúc ấy, Biện Tấn mục nát không chịu nổi, Tư Mã Tuân xưa nay chính trực, đắc tội gian thần đang nắm quyền, thiếu chút nữa rơi vào cảnh nhà tan cửa nát. Tư Mã Tuân nhận ra tình ý của Trọng Viêm dành cho Tống Anh bèn lấy công dụng của cốt ngọc dụ Trọng Viêm đồng ý xuống núi.

Đầu óc Trọng Viêm chỉ đặt trên khối cốt ngọc, mà dân chúng Biện Tấn đã chịu đủ cuộc sống thê thảm, nước sôi lửa bỏng rồi. Có câu “ai binh tất thắng”, bị áp bức mãi vùng lên tất giành thắng lợi, vương triều Biện Tấn mục nát nhanh chóng sụp đổ.

Năm đó? Không sai, từ lúc Tống Anh thành tro rồi quay về đã năm năm rồi. Bây giờ Biện Tấn ca múa mừng cảnh thái bình, dân chúng an cư lạc nghiệp.

Còn Trọng Viêm, cũng đã trưởng thành, là một đế vương trẻ tuổi nhìn xa trông rộng.

Hồn phách Tống Anh chưa tụ lại hoàn toàn, linh lực bây giờ không mạnh bằng lúc trước nữa, không thể rời khỏi cốt ngọc quá lâu.

Cửa bị đẩy ra nghe một tiếng “cạch”, có tiếng vâng dạ của một tiểu thái giám, sau đó Trọng Viêm bê một cái chén bạch ngọc đi vào, nhìn nàng bồng bềnh trong cốt ngọc, cười như đứa bé ngây thơ: “A Anh, ta quay lại rồi.”

Tống Anh ngơ ngẩn nhìn hắn. Vẻ non nớt thời niên thiếu đã từ trên người hắn rút đi, hắn cao lên không ít, bờ vai chắc rộng. Long bào vàng rực vừa khít thân hình cao gầy rắn chắc, hào quang chói mắt.

Hắn đi đến cạnh ao máu nuôi dưỡng cốt ngọc, đổ chén máu mới vào. Cổ tay trái hắn, sẹo cũ sẹo mới chồng chất, trong đó có một vết còn rất mới, rỉ máu thấm qua lớp vải trắng bao bên ngoài.

Chú ý thấy ánh mắt Tống Anh, Trọng Viêm giũ tay áo, che khuất vết thương gớm ghiếc.

Máu đế vương cực dương, cốt ngọc cực âm, âm dương hòa hợp sinh ra vạn vật. Năm năm nay, nhờ máu Trọng Viêm dung hợp với cốt ngọc, cộng thêm sư sãi các chùa miếu ở kinh thành ngày đêm triệu mời, hồn phách Tống Anh mới từ từ tụ tập trở lại.

Tống Anh nhìn cốt ngọc chậm rãi hút máu mới, chú ý gương mặt tái nhợt của Trọng Viêm, thở dài: “Năm đó cứu chàng chỉ vì báo ơn, hôm nay chàng lại dùng máu mình cứu ta, phần ân tình này phải trả thế nào đây?”

Trọng Viêm đáp rất tự nhiên: “Không cần gì khác, lấy thân báo đáp là được.”

Mười lăm tháng bảy, cửa âm phủ rộng mở. Ngày đó, Trọng Viêm dẫn Tống Anh lên núi Trường An. Đặt cốt ngọc trước mộ nàng, đợi đến nửa đêm lúc âm khí cực nặng, Tống Anh có đủ năng lực ra khỏi cốt ngọc, xuống địa phủ đầu thai.

Núi Trường An vẫn thế, chẳng qua hôm nay hắn một thân hoàng bào, chính khí quá mạnh, yêu ma quen biết ngày trước đều bị khí thế trên người hắn đè ép, không dám lại quá gần. Bọn chúng cũng như hắn, đều đến tiễn đưa Tống Anh một đoạn đường. Dù sao đi vào âm phủ, uống xong canh Mạnh Bà, qua cầu Nại Hà, gặp nhau lần nữa đã là người xa lạ.

Giờ tý gần đến, Tống Anh nhìn gương mặt tỉnh rụi của Trọng Viêm, lòng rầu rĩ. Nàng sắp đi rồi, thằng nhãi này không biết nói vài câu tình cảm hay sao?

“A Anh, nàng muốn nói gì?” Nhìn Tống Anh ngồi xếp bằng bên trong cốt ngọc, Trọng Viêm dịu dàng hỏi. Giọng hắn có chút khàn khàn của người đã trưởng thành, rất có sức hút, đôi mắt sâu thẳm mê người. Bị ánh mắt ấy nhìn, Tống Anh cảm thấy toàn thân như bị xé ra, vừa đau vừa xót.

Trọng Viêm sán lại gần, Tống Anh hơi căng thẳng nhìn hắn. Hắn ngồi cạnh nàng, nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc dài của nàng, “A Anh, có phải nàng không bỏ được ta không?”

Hắn chắc chắn như thế làm Tống Anh chán nản, lại không biết trả lời ra sao, liếc mắt quở hắn. Thằng nhãi này xuống nhân gian rồi, học ba cái thứ câu hồn đoạt phách gì đó, còn đem ra trình diễn trước mặt nàng, hoàn toàn quên béng lúc mình cởi truồng ỷ lại nàng cỡ nào.

“A Anh,” Trọng Viêm cẩn thận dang tay ra, ôm lấy thân thể mờ ảo của nàng, chỉ sợ sơ ý là nàng tiêu biến trong lòng mình, “Ta chờ nàng trở lại.”

Tống Anh khó xử cúi đầu.

Trọng Viêm nói: “A Anh, đưa tay cho ta.”

Tống Anh chìa tay, Trọng Viêm dè dặt nắm bàn tay hư hư thực thực: “Đợi nàng trở lại… nắm tay nhau, cùng nhau đến già.”

Đều nói ma quỷ không có nước mắt. Thế nhưng lúc ấy Tống Anh gục xuống vai Trọng Viêm, khóc đến rối tinh rối mù.

Giờ tý, cổng âm phủ mở rộng. Quỷ sai lưỡng lự hồi lâu, thấy Tống Anh cuối cùng cũng theo chân bọn họ quay về, thở phào, dùng xích khóa hồn xỏ tay nàng, hấp tấp dẫn nàng đi.

Có một chuyện, Trọng Viêm vẫn giữ trong lòng. Năm đó, lúc đạo sĩ áo vàng vung kiếm xông tới, hắn cảm giác được, song lúc đó hắn nghĩ, nếu Tống Anh bị thương, hắn có thể ở cạnh nàng thêm một thời gian nữa. Chỉ trong giây lát do dự phân vân ấy, thanh kiếm kia đã đâm vào người nàng, nàng cứ thế biến mất trước mắt hắn. Năm năm nay, hắn đau khổ, hối hận, lại chỉ biết chờ đợi, chờ nàng từ từ quay trở về.

Nhìn thân hình nàng tụ tập lại lần nữa, từ từ bay ra khỏi cốt ngọc, lờ đờ mở mắt ra, hắn quay người, nước mắt rơi lã chã.

Cuối cùng hắn cũng hiểu được, buông tay cũng là một cách yêu.

Hắn sẽ luôn đợi nàng, mặc cho đêm dài đằng đẵng, đời người đau khổ dằng dặc, cũng nhờ phần kỷ niệm này mà không đến mức tuyệt vọng.

Sau, sách sử Biện Tấn ghi lại: Sau khi đế kế vị, cần chính yêu dân, hậu cung trống không hai mươi năm. Đế nam tuần, gặp một cô gái, lập tức phong hậu. Tuy hậu xuất thân dân dã nhưng thông minh nhạy bén, độc sủng hậu cung. Tình cảm đế hậu sâu đậm, như chim liền cánh như cây liền cành, thành giai thoại trong dân gian.

Hai mươi năm sau.

Trung thu, trăng tròn. Tống Anh ngả vào lòng Trọng Viêm, hai người tình ý chân thành, nắm tay nhìn nhau.

“A Anh, sao nàng vẫn nhớ ta?”

Tống Anh cười đáp: “Trùng hợp thôi, Mạnh Bà mới nhậm chức là người quen cũ. Thiếp nói muốn đến dương gian tìm người, nàng ta đổ chén canh dành cho thiếp xuống cầu Nại Hà.” Nàng khe khẽ vuốt tóc mai đã hoa râm của Trọng Viêm, “Làm sao đây, chàng đã già như vậy rồi, làm sao chung sống đến già được. Biết trước thì đợi chàng chết rồi, chúng ta cùng nhau đi đầu thai.”

Cằm Trọng Viêm tì lên đầu nàng, dụi nhè nhẹ, hỏi nhỏ: “Không phải nàng vẫn đến à?”

Tống Anh than thở: “Bà già này sốt ruột, không chờ được bấy nhiêu năm để lên cầu Nại Hà!”

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play