Quần hùng hể hả xuống núi, hẹn tái ngộ vào dịp Trùng Cửu sang năm. Nam Hải Tiên Ông và Hạo Thiên mỗi người một ý nhưng đều cay đắng như nhau, vô cùng căm hận cái kẻ đã gài hỏa dược.

Tây Môn Giới vui vẻ bảo Tư Đồ Sảng :

- Không ngờ Đại hội võ lâm lại kết thúc một cách hay ho như vậy!

Mong sao Tần Cốc Lý và Nam Hải Tiên Ông đều chết cả để giang hồ được thanh bình! Và nếu đúng thế thì sang năm ngươi phải ra tranh cứ đấy! Lúc ấy, chỉ mới ba thành Khô Mộc thần công ngươi cũng đủ sức đả bại Lăng Song Tường rồi!

Tư Đồ Sảng nhận ra vẻ cao hứng phi thường của Tích Dịch Quỷ đối với sự cố vừa qua, và dường như lão rất thiết tha với việc chàng lên ngôi Minh chủ chứ chẳng nói đùa.

Cơ trí Tư Đồ Sảng ngày càng tiến bộ nên thoáng hoài nghi Tây Môn Giới là người đã đặt thuốc nổ, diệt trừ hai cường địch kia để dọn đường cho chàng sau này. Nhưng chàng không dám khẳng định vì Tích Dịch Quỷ chẳng biết gì về hóa dược và chính lão đã khăng khăng từ chối, không cho Phi Tuyết, Phi Hồng về Hàm Dương tảo mộ. Hơn nữa, lẽ nào chỉ sau một tháng cận kề, lão lại yêu thương chàng đến thế!

Tư Đồ Sảng hoang mang hỏi sang chuyện khác :

- Đại thúc! Nay Tần Cốc Lý đã bị trọng thương, chúng ta có nên cho Tuyết muội và Hồng muội theo về Hàm Dương hay không!

Tây Môn Giới mỉm cười :

- Tất nhiên rồi, họ Tần sắp chết, sức đâu mà nghĩ đến việc giết người nữa. Chúng ta sẽ quay vê Hàm Dương.

Tư Đồ Sảng càng tin lão vô can. Chàng sực nhớ đến hai thủ hạ liền hỏi :

- Bẩm đại thúc! Không hay hai gã Mộ Hào và Phi Hoan đi đâu chẳng thấy?

Tây Môn Giới nghiêm nghị đáp :

- Lão phu lo cho tính mạng Lý đại ca nên đã bảo hai gã ấy đi núi Cửu Tuấn trước rồi!

Tư Đồ Sảng rất yêu mến chủ quán Lý Tứ, xem như ông ngoại, nên cảm động nói :

- Đại thúc quả là người chu đáo! Nay Lý Thúc công đã già yếu không người phụng dưỡng! Tiểu điệt chẳng an tâm chút nào cả!

Tây Môn Giới nói ngay :

- Lão phu cũng định lần này rước luôn Lý đại ca về Thúy Phong cốc cho hai ả họ Lăng hầu hạ! Trước sau gì kẻ thù của ngươi cũng tìm đến núi Cửu Tuấn, e rằng cái mạng già của Lý đại ca khó an toàn!

Hai người xuống núi, về đến Thúy Phong cốc cuối canh hai. Cả nhà mừng rỡ đón chào, xúm lại để nghe kể chuyện Đại hội! Kết cục lưỡng bại câu thương của hai kẻ gian hùng là Nam Hải Tiên Ông và Mân Xuyên Bá Đao đã khiến mọi người khoan khoái cười vang.

Táo Gia Cát Bùi Thế Trực lén nhìn Tây Môn Giới với ánh mắt là lạ song chẳng nói gì cả. Đêm ấy, sau cơn ân ái, hai mỹ nhân mãn nguyện chìm vào giấc ngủ, không biết rằng phu quân vẫn trằn trọc. Tư Đồ Sảng thương nhớ song thân và áy náy vì mình võ nghệ chẳng bằng cừu nhân nên không sao chợp mắt được.

Chàng nhẹ nhàng kéo tấm chăn đơn đắp lên thân thể trắng trẻo của Phi Tuyết rồi rời phòng. Chàng chậm rãi đi ra vườn hoa lớn giữa sơn cốc, ngồi xuống chiếc đôn đá mà ngắm vầng trăng Hạ huyền tháng chín.

Lát sau, tiếng ho khúc khắc phát ra từ căn tiểu xá mé Tây hoa viên đã khiến Tư Đồ Sảng quay lại nhìn. Qua song cứa, chàng phát hiện Tây Môn Giới đang ngồi uống rượu một mình cạnh dĩa đèn dầu lù mù.

Chàng lập tức cảm nhận được nỗi cô đơn cùng cực của lão ta, lòng dào dạt xót thương.

Tư Đồ Sảng quên ngay nỗi buồn riêng, tiến vế hướng ấy, đứng ngoài song cửa mà gọi :

- Tây Môn đại thúc! Tiểu điệt xin được hầu người vài chung.

Tây Môn Giới ngước lên, ánh mắt rạng rỡ niềm vui. Lão cười khà khà bảo :

- Sảng nhi đấy ư! Lão phu tưởng ngươi đã ngon giấc trong vòng tay của hai con nha đầu kia rồi chứ! Mau vào đây uống với lão phu, cửa không cài then!

Tư Đồ Sảng kính cẩn tuân mệnh, đẩy cửa chính mà vào. Chàng nốc cạn chung rượu rồi hỏi :

- Trời đã sang canh tư, vì sao Đại thúc không ngủ mà lại độc ẩm thế này?

Tây Môn Giới thở dài u uất :

- Lão phu một đời cô độc, thê tứ chẳng có, nửa đêm tỉnh giấc là bị nỗi tịch mịch vây quanh, nghĩ đến hậu vận mà không sao ngủ lâu được nữa, đành mượn chén rượu giải sầu!

Tư Đồ Sảng lặng người trước tâm sự của lão trộm già và bỗng khát khao được làm người an ủi lão. Chàng ấp úng vòng tay nói :

- Tây Môn Đại thúc! Tiểu điệt mồ côi cả song thân, thiếu thốn sự giáo huấn của trưởng bối! Vì vậy, tiểu điệt khấu đầu xin được gọi Đại thúc là nghĩa phụ, mong đại thúc thành toàn cho!

Tây Môn Giới nhìn chàng trân trối, lệ mừng ứa ra từ khoé mắt nhăn nheo. Lão hiền hòa hỏi lại :

- Sảng nhi làm như thế vì tự nguyện hay được người khác mớm ý cho?

Tư Đồ đảng ngơ ngác biện bạch :

- Đây là lòng thành của tiểu điệt chớ nào có ai xúi bẩy!

Vẻ mặt trung thực, thuần phát của chàng đã nói lên tất cả. Tây môn Giới hài lòng gật đầu :

- Thế thì được! Lão phu đồng ý nhận người làm nghĩa tử!

Tư Đồ Sảng mừng rỡ rời ghế quì sụp xuống lạy chín lạy, miệng gọi :

- Can gia!

Tây Môn Giới cao hứng đỡ chàng lên, bảo ngồi vào ghế, cùng uống ba chén rượu mừng.

Tư Đồ Sảng tò mò hỏi :

- Can gia! Vì sao lúc nãy người lại hỏi hài nhi như thế!

Tây Môn Giới mỉm cười giải thích :

- Lão phu tưởng Táo Gia Cát đã biết lai lịch lão phu nên xui ngươi lạy làm cha nuôi. Dù ta rất yêu mến ngươi nhưng không thể nhận một kẻ thiếu lòng thành lâm con!

Tư Đồ Sảng ngớ người :

- Vậy chẳng lẽ lai lịch của Can gia còn nhiều điều bí ẩn?

Tây Môn Giới cười nhạt đáp :

- Đúng thế! Lão phu chính là Hội chủ Hắc Hiệp hội, một tổ chức Hắc Đạo đông đến hàng ngàn người, thế lực bao trùm hai tỉnh Hà Nam, Hà Bắc! Bọn ta đứng giữa chính tà, tuy là trộm cướp nhưng không hề lạm sát hay hà hiếp lương dân. Khi võ lâm nổi sóng, Hắc Hiệp hội luôn tùy cơ mà phù trì chính khí, tiêu diệt bọn ác ma!

Tư Đồ Sảng tỉnh ngộ ồ lên :

- Thì ra chính Can gia đã chủ sử việc gài hỏa dược ở lôi đài để giải trừ đại họa cho võ lâm!

Tây Môn Giới thản nhiên xác nhận :

- Đúng vậy! Lão phu tiên đoán tà ma sẽ thắng thế nên đã sớm cho thủ hạ gài thuốc nổ ở hai góc lôi đài, từ trước ngày khai mạc!

Lúc nói câu này gương mặt Tích Dịch Quỷ rạng ngời hào khí, đầy phong thái của một hiệp sĩ trừ gian diệt bạo.Tư Đồ Sảng vô cùng ngưỡng mộ, vái lão và nói :

- Can gia quả là bậc anh hùng hiếm có, làm việc nghĩa mà chẳng muốn ai biết được!

Tây Môn Giới sướng rơn trong bụng, trước lời khen ngợi chí tình của con nuôi, song lại giả vờ nghiêm giọng :

- Lai lịch của lão phu ngươi phải giữ gìn, dù cả với thê thiếp. Nhớ chưa!

Tư Đồ Sảng vội hứa thủ khẩu như bình! Tây Môn Giới hài lòng cười bảo :

- Trong thiên hạ chỉ có hai người biết được chân diện mục của lão phu. Ngươi sẽ là ngươi thứ ba!

Nói xong, lão đưa tay lên cẩn thận gỡ tấm da người mỏng manh, để lộ gương mặt cương nghị, quắc thước và trắng bệch vì quanh năm bị mặt nạ che phủ.

* * * * *

Sáng hôm sau, trong bữa điểm tâm, Tư Đồ Sảng trình bày việc mình nhận Tây Môn Giới làm nghĩa phụ. Cả nhà hoan hỉ chúc mừng và Phi Tuyết, Phi Hồng lại phải quì xuống nhận cha chồng!

Họ chẳng hề uổng công vì đã được Tây Môn Giới tặng cho hai viên Tố Nữ thần đan, có công dụng lưu giữ tuổi xuân, da dẻ luôn trắng muốt và tỏa mùi thơm thoang thoảng. Hai ả vui mừng khôn xiết, hết lời cảm tạ Can gia!

Xế trưa đoàn người khởi hành đi Hàm Dương, đến nơi đúng vào chiều ngày hai tháng mười.

Quán rượu của Lý Tứ tiêu điều hơn trước và chẳng có ma nào đến ăn nhậu cả. Bởi thế cho nên Lý quán chủ và hai gã tiểu nhị ngồi nhâm nhi với nhau.

Nghe tiếng ngựa xé dừng lại, họ mừng rỡ bước ra cửa đón chào. Chỉ mới một năm mà Lý Tứ trông già hẳn đi, râu tóc bạc trắng, lưng không còn thẳng nữa. Không phải vì Lý lão đã tám mươi mà chính bởi cái chết thê thảm của vợ chồng Tư Đồ Quát. Lý Tứ vẫn xem Võ Xuân Hoa là con gái mình và Tư Đồ Quát là chàng rể tâm đầu ý hợp. Mất họ, Lý Tứ buồn vô hạn, để mặc tuổi già theo rượu mà ập đến. Lão lại chẳng ngủ được khi nghĩ đến đứa cháu côi cút đang phiêu bạt giữa chốn giang hồ đầy sắt`máu để báo thù nhà.

Tư Đồ Sảng xúc động trước vẻ già nua, còm cõi của Lý Tứ, rời lưng ngựa chạy đến quỳ dưới chân lão mà gọi :

- Thúc công! Tiểu tôn đã về đây!

Lý Tứ hân hoan đỡ chàng lên và ôm chặt lấy. Lão ứa lệ mừng nhưng lại xô cháu ra và mắng yêu :

- Tiểu quỷ đáng ghét này, sao lại khóc như con nít thế kia. Lão phu vẫn còn sống chứ nào đã chết đâu!

Tư Đồ Sảng hổ thẹn, chưa kịp nói gì thì Tây Môn Giới đã lên tiếng :

- Lý đại ca! Tiểu đệ là Tây Môn Giới đây!

Tích Dịch Quỷ luôn mang mặt nạ nên phải tự giới thiệu. Nói xong, lão bước đến chống tay, quỳ một chân mà bái kiến. Lý Tứ hừ nhẹ và lạnh lùng bảo :

- Sao ngươi không chờ lão phu chết rồi hãy vế đưa đám! Phải chăng giờ đây ngươi đã là bá chủ một vùng nên không có thời gian về thăm lão phu!

Tây Môn Giới vẫn quỳ, dịu giọng biện minh :

- Tiểu đệ đã biết tội, mong đại ca lượng thứ! Tuy đã hơn năm không về vấn an được nhưng lòng này luôn canh cánh nhớ đến huynh trưởng.

Lý Tứ hài lòng xua tay :

- Thôi được! Có nhớ đến là tốt rối!Đứng lên đi!

Tây Môn Giới bình thân rồi thì đến lượt Phi Tuyết, Phi Hống. Hai ả chắp tay nghiêng mình, ỏn ẻn thưa :

- Tiểu tôn tức bái kiến thúc công!

Lý Tứ trợn mắt nhìn họ và bật cười ha hả :

- Sảng nhi giỏi thực! Ngươi làm thế nào mà lấy được cả hai con bé đẹp như tiên thế này?

Được khen, hai ả khoái chí chúm chím cười, mặt rạng rỡ như hoa Xuân. Và họ giật bắn mình, xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ khi nghe Lý lão nói tiếp :

- Chị em ngươi đều có tướng chân dài, eo nhỏ, e rằng cháu cưng của lão phu chẳng còn khí lực để báo thù nhà. Chà! Nguy hiểm thực!

Đã thế gã khỉ đột Triển Phi Hoan lại còn cười hô hố mà phụ họa :

- Thúc công dạy chí phải! Tiểu diệt nhận thấy nước da của công tử xanh xao hơn trước nhiều!

Tư Đồ Sảng cũng thẹn đỏ mặt, vội đánh trống lảng bằng cách giới thiệu Táo Gia Cát với Lý Tứ.

Sau đám giỗ vợ chồng Tư Đồ Quát, đoàn người rời núi Cửu Tuấn, lên đường trở lại Hà Nam. Chiều ngày mùng chín, họ có mặt ở Trường An, vào trọ trong Hưng Thái đại lữ điếm.

Do Tư Đồ Sảng hết lời năn nỉ nên Lý Tứ đã bằng lòng về Lạc Dương sống chung với vợ chồng chàng. Lý lão biết mình chẳng còn sống bao lâu lữa và muốn được ma chay tử tế, có em, có cháu để tang. Tròn một năm buồn khổ, bỏ bê việc luyện công, ngày ngày nhậu say khướt, Lý Tứ đã hoàn toàn suy sụp, bắt đầu lẩm cẩm, giở chết. Tuy nhiên, ngoài những câu nói thẳng thừng, khiến người khác đỏ mặt thì Lý lão rất dễ mến. Phi Tuyết, Phi Hồng luôn quấn quít bên lão để xoa bóp bộ xương già còm cõi và để được nghe lão kể về thời thơ ấu của Tư Đồ Sảng. Phi Tuyết còn trổ tài thần y, châm cứu và bốc thuốc bổ cho Lý lão uống.

Chính lão già lẩm cẩm này đã vạch mặt Tây Môn Giới. Tối mùng bốn, cả nhà đang ăn uống thì Lý Tứ bỗng hỏi :

- Này Tây Môn hiền đệ! Phải chăng ngươi đã chọn Sảng nhi làm người kế nhiệm cái chức hội chủ Hắc Hiệp hội?

Thanh danh của bang hội thần bí này đã được võ lâm truyền tụng suốt mấy chục năm nhưng không ai biết Tích Dịch Quỷ là hội chủ. Vì thế, giờ đây mọi người trố mắt kinh ngạc nhìn Tây Môn Giới. Tích Dịch Quỷ ngượng ngùng đáp :

- Bẩm đại ca! Tiểu đệ nào dám có ý ấy! Tiểu đệ chỉ muốn dùng thế lực Hắc Hiệp hội hỗ trợ cho Sảng nhi báo gia thù và dương danh thiên hạ. Nêu y trở thành Minh chủ võ lâm thì càng tốt.

Ba mươi mấy năm trước, Tây Môn Giới từng bị trọng thương sắp chết, được Lý Tứ mang về cứu chữa, chăm sóc suốt hai năm ròng, nên lão suốt đời tôn kính họ Lý, dẫu bị mắng chửi oan cũng không dám cãi.

Trong thâm tâm, đúng là Tây Môn Giới muốn giao cơ nghiệp Hắc Hiệp hội cho con nuôi song lại bị Lý Tứ phản đối nên chẳng dám thú nhận.

Nào ngờ, Lý lão gật gù nói tiếp :

- Thực ra, làm Minh chủ võ lâm là tốt, còn làm hội chủ Hắc Hiệp hội thì cũng chẳng xấu. Lão phu cho rằng ngươi có thể tùy nghi hành động.

Tây Môn Giới hân hoan vái dài :

- Cảm tạ đại ca đã thấu hiểu tâm tình của tiểu đệ.

Tương lai của Tư Đồ Sảng đã được xếp đặt ở Hàm Dương như thế đấy, giờ chúng ta trở lại Trường An để giống thời gian được liên tục.

Sau bữa cơm chiều trong Hưng Thái đại lữ điếm, Tư Đồ Sảng rủ Huyết Báo đến Mạc gia trang thăm Mạc lão thái và Mạc Chiêu Hương. Lúc này, họ đang đứng dưới mái hiên và không còn ai khác bên cạnh.

Huyết Báo thở dài não ruột, nhìn chàng trân trối và nghiêm nghị bảo :

- Mong công tử thành thật trá lời Liễu mỗ!

Tư Đồ Sảng nhíu mày đáp :

- Tất nhiên là thế! Liễu huynh cử hỏi đi.

Huyết Báo chậm rãi nói :

- Liễu mỗ muốn biết công tử có ái mộ tệ sư muội Mạc Chiêu Hương hay không?

Tư Đồ Sảng giật mình, suy nghĩ một lúc rồi đáp :

- Mạc cô nương nhan sắc phi phàm, lại có ơn cứu mạng, nên Sảng này cũng thầm yêu mến. Nhưng Chiêu Hương là ý trung nhân của Liễu huynh nên ta tuyệt đối chẳng dám nảy sinh tà ý. Liễu huynh cứ yên tâm!

Huyết Báo dở khóc dở cười nhăn nhó nói :

- Công tử quả là kẻ hồ đồ, ngốc nghếch nhất trên đời. Tại hạ với Mạc sư muội chẳng hề có tình ý gì với nhau cả. Hơn nữa, Chiêu Hương đã thầm yêu công tử và đã hy sinh danh tiết mà chăm sóc công tử suốt quãng đường từ Đông Quan đến Trường An.

Tư Đồ Sảng chết điếng người, ấp úng hỏi :

- Phải chăng ta đã mạo phạm đến Mạc cô nương?

Huyết Báo cười khẩy :

- Chẳng lẽ công tử không nhớ ai đã tắm rửa cho mình? Và hằng đêm công từ sờ soạng ngực ai mà gọi là mẹ! Dù cho công tử mê man, không ý thức được hành vi của mình thì Chiêu Hương cũng không còn trong trắng nữa.

Sảng hổ thẹn khôn xiết, thức ngộ rằng đấy là sự thực. Sau khi bình phục chàng vẫn nhớ đến giấc mơ êm đềm trong lúc bệnh hoạn. Hình bóng yêu kiều của Chiêu Hương hiện về rực rỡ vì chẳng còn ngăn cách.

Tư Đồ Sảng chợt hiểu mình đã yêu nàng thiết tha đến dường nào.

Chàng quyết định lấy Chiêu Hương làm vợ, dẫu cho Phi Tuyết, Phi Hồng phật ý.

Tư Đồ Sảng cố trấn tĩnh vái Huyết Báo và nói :

- Tiểu đệ quyết chẳng để Chiêu Hương phải chịu thiệt thòi. Mong Liễu sư huynh đứng ra làm báng nhân (ông mai), tác hợp cho mối lương duyên này.

Ánh mắt Huyết Báo dịu lại và gã thở dài :

- Công tử có trách nhiệm như thế là phải đạo. Tiếc rằng Mạc sư nương và Chiêu Hương đã bán nhà đi về Hà Bắc mất rồi. Tại hạ có hỏi thăm nhưng hàng xóm không ai biết địa chỉ mới của họ..

Tư Đồ Sảng lộ vẻ buồn rầu, than rằng :

- Hà Bắc đất rộng người đông, không có địa chỉ rõ ràng thì làm sao tìm được họ?

Chợt có người ở phía sau lên tiếng :

- Sảng nhi chớ lo! Trong vòng hai tháng người của Hắc Hiệp hội sẽ tìm ra con dâu thứ ba của lão phu.

* * * * *

Hơn mười ngày sau, bọn Tư Đồ Sảng về đến Thúy Phong cốc. Tây Môn Giới có đến bảy cơ ngơi trong thành Lạc Dương nhưng Lý Tứ không chịu đến đòi sống chung với cháu trai và cháu dâu. Vả lại, vợ chồng Tư Không cốc chủ hết lời mời mọc, không cho Lý Tứ hoặc bất cứ ai đi đâu cả. Họ đều đã già, sợ hãi nỗi cô đơn còn hơn cái chết.

Thế là Tây Môn Giới đành phải về ở Thúy Phong cốc. Đệ tử thân tín của lão đi về như mắc cửi, báo cáo sự vụ của hội cũng như tình hình võ lâm. Tây Môn Giới đặc biệt lưu tâm đến những kình địch của Tư Đồ Sảng như Hải Hoa bang, Kỳ Lân bang và Hạo Thiên cung. Một mặt, lão huy động mấy trăm thủ hạ Hà Bắc điều tra tung tích của mẹ con Mạc lão thái. Huyết Báo và Triển Phi Hoan cũng đã đi Bắc Kinh, tham gia tìm kiếm. Phi Hồng và Phi Tuyết không hề biết tâm sự của trượng phu, nhưng là ngươi đầu gối tay ấp nên chừng nửa tháng sau họ khám phá ra ẩn tình. Một hôm, Phi Hồng đến khuê phòng hỏi chị :

- Tỷ tỷ có nhận ra liều gì khác lạ ở tướng công hay không?

Phi Tuyết nhíu đôi mày liễu trầm ngâm :

- Nhị muội hỏi ta mới nhớ ra. Dạo này tướng công thường hay trằn trọc, và mất hẳn thói quen đặt bàn tay lên ngực ta khi ngủ. Có đêm ta trở giấc, nghe được tiếng thở dài não nuột của chàng. Lúc ấy ta tưởng chàng nhớ đến thù nhà chưa báo được nên không hỏi.

Phi Hồng mỉm cười :

- Tiểu muội cũng nhận ra điều ấy và còn tình cờ nghe tướng công than thở: “Chiêu Hương, ta quả có lỗi với nàng”.

Cơn ghen làm Phi Tuyết xây xẩm mặt mày, nàng trợn mắt nói :

- Té ra là là chàng tương tư con nha đầu họ Mạc. Chàng đã có hai chị em chúng ta sao lại còn đa mang thêm nữa làm gì!

Phi Hống dịu dàng can gián :

- Tỷ tỷ hãy bình tâm, khoan oán trách tướng công. Chàng được Mạc tiểu thư cứu mạng trước khi vào Hạo Thiên cung cứu chúng ta. Và sau đó chàng không hề nhắc đến Chiêu Hương một lần nào cả. Chỉ sau khi đi Hàm Dương tảo mộ vế tướng công mới sinh ra buồn rầu, dù ngoài mặt vẫn gượng vui. Thái độ của chàng không giống một kẻ đang mê hoa luyến sắc mà giống như người đang hối hận vậy. Tiểu muội đoán rằng trong thời gian thọ thương, tướng công đã mạo phạm ân nhân mà không hay biết, hờ hững với Chiêu Hương. Mạc tiểu thư vì việc ấy mà bán nhà rời khỏi Trường An. Có lẽ Huyết Báo đã kể lại ẩn tình khiến tướng công chìm đắm trong sự hối tiếc, tự dằn vặt mình mãi. Chàng lại sợ chúng ta buồn nên chẳng dám nói ra.

Phi Tuyết tỉnh ngộ thảng thốt nói :

- Thôi chết rồi! Tướng công từng kể cho ta nghe việc gia nương hiện về trong lúc chàng mê man bất tỉnh, nằm trên xe ngựa. Hay là chàng đã ôm ấp Chiêu Hương mà sờ soạng rồi cứ ngỡ mẫu thân!

Phi Hồng bật cười khúc khích :

- Chứ còn gì nữa! Chính vì thế mà tướng công hồ thẹn, bỏ hẳn tật xấu kia.

Phi Tuyết cũng phì cười, lát sau bảo em gái :

- Tuy ta không muốn thêm kẻ chung thuyền nhưng cũng chẳng thể để Mạc tiểu thư bị thiệt thòi. Xét ra, tướng công không có lỗi còn Chiêu Hương thật đáng thương! Ta sẽ cùng ngươi đến tra hỏi tướng công và khuyên chàng đi tìm Mạc cô nương.

Tuy tính hay ghen nhưng PhiTuyết lại là người cương trực, công bằng, có lòng nhân hậu. Nàng tự đặt mình vào hoàn cảnh Chiêu Hương và hiểu được nỗi khổ của nạn nhân. Dẫu là giang hồ nhi nữ thì cũng không thể vui sống khi đã trải qua cảnh ngộ éo le ấy.

Phi Hống vui vẻ tán thành, kéo bào tỷ về phòng mình. Bị hai ái thê nhìn thấu tâm can, Tư Đồ Sảng đành thú thực mọi việc. Chàng như người trùt được khối đá ngàn cân khi biết họ chấp nhận Chiêu Hương và còn khuyên chàng đi Hà Bắc tìm kiếm. Tất nhiên là với điều kiện phải đưa họ đi theo.

Tuy nhiên, Lý Tứ lại không chịu xa hai đứa cháu dâu nên sáng hôm sau Tư Đồ Sảng độc hành.

Tây Môn Giới bận sự vụ Hắc Hiệp hội nên không thể đi cùng. Lão bèn trao cho chàng tấm lệnh bài tuần sứ và dạy cách liên lạc với thủ hạ Hắc Hiệp hội trên lãnh thổ Hà Bắc. Lão còn tặng cho chàng ba tấm mặt nạ da người để sử dụng khi cần thiết, mặc dù ở phía bắc Hoàng Hà Tư Đồ Sảng không hề có kẻ thù.

Đã sang đầu tháng mười một, tuyết chưa rơi nhưng trời đã lạnh nhiều..Phi Hồng bắt trượng phu phải mặc áo ngự hàn bằng loại lông cừu thượng hạng màu đen tuyền. Chiếc áo choàng lông này đã che phủ túi da đựng Giáng Ma phủ. Cây búa cổ kính này khi xếp lại sẽ nằm gọn trong túi da lươn tròn trĩnh, đường kính độ hơn gang. Người ngoài không thể nào đoán ra vật bên trong lại là một cây rìu dài hơn ba xích và nặng đến hai chục cân.

Tư Đồ Sảng yêu mến di vật của mẫu thân nên lúc nào chàng mang theo mặc dù chàng rất giỏi kiếm pháp.

Do trọng lượng của Giáng Ma phủ mà thắt lưng của Tư Đồ Sảng cũng phải được may bằng da dầy, bọc lụa, có khóa móc trước bụng. Phi Tuyết cẩn thẩn nhét vào khúc cán rỗng của Giáng Ma phủ một cuộn ngân phiếu. Hái á đã vét của Hạo Thiên cung một số tài sản lên đến bốn chục vạn lượng vàng nên chẳng thể để lang quân thiếu thốn.

Nữ nhân vẫn dồi dào tình cảm, nhẹ phần đạo lý, nên chị em họ Lăng thản nhiên lấy luôn những thứ không phải của họ. Phi Tuyết cho rằng số dư là sự bồi thường thỏa đáng cho cái chết của sư phụ nàng, Y Độc Thần Quân. Rốt cuộc Lăng Song Tường phải sạt nghiệp, đành bán thân cho Tần Cốc Lý để có gạo nuôi quân.

Nhắc lại Tư Đồ Sảng một mình một ngựa ngược Bắc, cứ theo đường quan đạo Bắc Nam mà bôn hành, chẳng sợ lạc, chỉ mới ba đêm mà chàng đã nhớ hai ải thê vô hạn. Chàng quá quen với thân hình mỹ miều của họ và những trận ái ân nồng cháy nên giờ đây thao thức mãi. Dọc đường, kỹ viện, thanh lâu rất nhiều, vì là ngành kinh doanh được triều đình thu thuế, nhưng Tư Đồ Sảng chẳng bao giờ có ý định ghé vào.

Chàng thầm hổ thẹn cho cái tính háo sắc, đa dục của mình, chăm chú luyện Khô Mộc thần công, mỗi khi vào quán trọ.

Tư Đồ Sảng rất hiếu võ, dẫu đã có hai giai nhân bên cạnh vẫn không hề xao nhãng việc rèn luyện. Chàng đã tĩnh tọa mỗi tối liên tục từ giữa tháng tám đến nay. Tổng cộng thời gian chưa đầy ba tháng nên thành tựu còn rất nhỏ nhoi.

Xế trưa ngày rằm tháng mười một, Tư Đồ Sảng ghé thành An Dưỡng ăn trưa và tìm đến một cơ sở của Hắc Hiệp hội để hỏi thăm tình hình. Bọn đệ tử cung kính báo lại rằng đã điều tra ra việc một cỗ xe song mã do một nữ lang rất xinh đẹp cầm cương, đã rời An Dương đi lên hướng Bắc hồi đầu tháng chín. Có thể đấy chính là xe của mẹ con Mạc Chiêu Hương. Phần Liễu Mộ Hào và Triển Phi khoan thì cũng đã vượt An Dương hồi giữa tháng mười.

Tư Đồ Sảng tiếp tục đãng trình khi chiều sắp buông, thì đến sông Chương Hà. Bên kia sông chính là địa phận của tình Hà Bắc.

May thay, chàng sang kịp chuyến đò ngang cuối cùng, phi ngựa hướng về phía Từ Thành, cách bờ Bấc độ vài dặm. Do thành này nằm khá gần sông nên bến đò chẳng có quán xá nào ra hồn cả. Thường thì thương lái và lữ khách đểu ghé Từ Thành mà nghỉ ngơi cho an toàn và đầy đủ tiện nghi. Đám đệ tử Hắc Hiệp hội ở An Dương đã chỉ dẫn cho Tư Đồ Sảng như thế.

Đoạn đường đi đến Thành Từ rất vắng vẻ, hai bên là gò đỗi lổn nhổn, cây cối um tùm. Vùng đất này nầm ở chân cao nguyên sơn tây nên khá cằn cỗi, nhiều sỏi đá.

Tư Đồ Sảng chậm rãi cho ngựa đi nước kiệu để có thể chiêm ngưỡng rặng Thái Hoàng Sơn hùng vĩ ở hướng Tây. Mặt trời mùa đông yếu ớt gửi gấm những tia nắng nhợt nhạt cuối cùng lên những đám mây trắng đang lững lờ trên viền đinh núi.

Tư Đồ Sảng không vội nên bị những người khách đồng hành vượt qua. Họ là năm kỵ sĩ, gồm bốn hán tử trung niên mang đao và một chàng công tử tuổi độ mười chín đôi mươi, vai đeo kiếm. Chàng trai ấy có dáng người tầm thước, mặt hơi khô nhưng ánh mắt đầy vẻ uy nghiêm.

Cả bốn gã hán tử theo hầu cũng có diện mạo lạnh như tiền, mắt thường liếc nhanh với vẻ dò xét, nghi ngờ. Tư Đồ Sảng thấy vậy không thèm lưu ý đến nữa.

Lúc lên bờ, năm thớt ngựa lập tức phi nước đại như đang có chuyện cấp bách vậy. Phải chăng họ mang theo quá nhiều vàng bạc nên sợ cường đạo? Giờ này đò ngang ngưng hoạt động nên cả hai hướng Bắc Nam chẳng có ai đi tới cả. Con đường trở nên tịch mịch và đáng ngại.

Tuy đang say sưa với cảnh hoàng hôn buông trên núi Thái Hoàng nhưng đôi tai thính nhạy của Tư Đồ Sảng vẫn nghe được tiếng thép chạm nhau cũng như tiếng người quát tháo. Chàng hiểu ngay rằng năm ky sĩ ấy đã gặp phục binh.

Dù không biết họ là ai, Tư Đồ Sảng vẫn ra roi phóng như bay về phía trước để tương trợ. Chàng công tử kia còn quá trẻ, không thể là ác nhân được.

Túi da hươu được thiết kế rất khéo, Tư Đồ Sảng thọc tay vào là nắm được chuôi Giáng Ma phủ. Và chì thêm hai động tác nữa là cán búa vươn dài và mũi đoản kiếm ló ra.

Khi đến chiến địa, Tư Đồ Sảng phát hiện năm vị khách đồng thuyền đang bị vây chặt bởi một đội hắc y nhân bịt mặt đông đến ba bốn chục. Năm chiếc áo lông cừu trắng muốt của họ có chỗ bị nhuộm hồng bởi máu tưới. Tuy họ còn đứng vững, sát cánh nhau mà chiến đấu.

Song chắc chẳng còn cầm cự được bao lâu nữa. Đối thủ của họ vừa đông lại vừa tinh nhuệ, đao pháp lão luyện, tiến thoái nhịp nhàng.

Trước lực lượng mai phục hùng hậu ấy, Tư Đồ Sảng tự lượng không thể cứu cả năm nạn nhân, đành chọn hạ sách là cứu một mình chàng công tử. Những tính toán này xảy ra trong chớp mắt và Tư Đồ Sảng nhảy xuống đất, vỗ thật mạnh vào mông tuấn mã. Đấy chính là mệnh lệnh bảo nó đi trước. Con ngựa già rất hiểu ý chủ nhân, men theo vạt đất cạnh đường quan đạo mà vượt qua trận địa. Ngựa không người cưỡi nên bọn hắc y nhân chẳng chặn lại làm gì.

Phần Tư Đồ Sảng quát vang như sấm rồi đánh thốc vào hàng ngũ bọn áo đen, cố mở đường máu để tiến vào rốn trận mà cứu người.

Tiếng quát của chàng mang tác dụng làm phấn khích tinh thần năm kẻ đang bị vây hãm chứ thực ra không có lợi về mặt đấu pháp.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play