“Rồi
sau thầy trò chúng tôi đào thấy một mặt ván, Sir Magnus thấy không có
dấu hiệu gì trên đó mới sai tôi bẩy ván lên. Tôi kinh sợ lắm nhưng Sir
Magnus nói cho tôi vững tâm rằng không việc gì mà sợ, vì con chó không
tỏ vẻ gì là lo sợ cả.
“Ngài tìm một khe ván ghép, lách mũi cuốc vào đó rồi hết sức ấn xuống.
Để có rộng chỗ, ngài bảo tôi lên khỏi huyệt. Mấy mồi lửa nến được kín
gió nên cháy thẳng ngọn, trong khi ấy gió bao vây quấn lấy người tôi dồn lăn những tiếng cành gẫy và bụi cây xào xạc. Sau cùng Sir Magnus nậy
lên được một tấm ván. Một hơi gió tù hãm hôi thối ở dưới hố xông ùa lên
khiến tôi quay đầu đi và làm tắt những mồi nến.
“Tôi mê mẩn tâm thần đi mất một lát. Bỗng nhiên tiếng hét lên của Sir Magnus làm tôi tỉnh lại:
- Nó đến đấy! Nó đến đấy! Cút ngay, Satan nhân danh Cha và Con Thánh
Thần! Phải coi cừng đấy, Jack! Đứng vào chỗ đất thánh kia, mau!
“Tiếng thét lớn của ngài đưa từ dưới huyệt lên, the thé chẳng kém gì
tiếng kêu của đàn bà. Con chó bắt đầu rền rít. Thốt nhiên thoát ra một
thứ tiếng kêu không phải là cười, không phải là khóc, không phải tiếng
người, không phải là thú, hay tiếng quỷ quái mà là có đủ thứ các thứ
tiếng kia. Thoắt một bước, tôi nhảy vào giữa chỗ đất phép, nắm lấy quai
đèn và đứng lặng ở đó, mấy nhánh tỏi lăm lẳm trong taỵ Tiếng gầm quái gở kia vẫn từ dưới huyệt đưa lên, lẫn với tiếng con chó cứ rít. Rồi tôi
thấy Sir Magnus lên khỏi huyệt trước một tia sáng của ngọn đèn., ngài
quay mình lại vung cái gậy lớn cứ nhè nhè phía sau mà phang. Ngài đứng
được một lúc thì quỵ xuống, ngã gục trên đám đất thánh, ngay bên cạnh
tôi, tôi lại vạch một hình ngũ giác nữa quanh hai thầy trò tôi; trong
khi ấy thì ngài thở cho lại sức. Rồi hai thầy trò mỗi người ngồi cạnh
một phía đèn, ánh sáng chiếu lên hai bộ mặt kỳ dị và kinh khiếp. Sir
Magnus thì nước mắt tầm tã, quần áo rách mướp, máu me nhễ nhại, bàn tay
với cánh tay đầy những vết thương. Ngài hầm hầm lẩm bẩm nói:
- Nó chạy mất rồi! Ta không biết nó hình thù thế nào, cũng không biết nó đến như thế nào. Chỉ thấy như sự gì tiến lại gần ngay khi mồi nến vụt
tắt, rồi trong vừng tối tăm hung đỏ, ta cứ như người nhắm mắt mà chống
cự, cào cấu vung lên. Thế rồi ta trông thấy ánh sáng đèn.
- Bẩm, thế còn con chó thì sao?
- Thì nó cũng chống cự như ta.
“Tôi nhìn ra thì thấy con chó tội nghiệp ấy nằm ở phíc trước mặt tôi; nó chết rồi, mình bị xé nát trông rất kinh sợ. Đầu con chó gần như bị rứt
đứt. Thấy cảnh tượng ấy, Sir Magnus thở ngắn than dài mãi rằng con chó
bị hại chỉ vì đã trung thành với chủ. Ngài kéo con vật lại chỗ hai người chúng tôi để thi thể của nó không bị phạm đến nữa. Rồi ngài lại vẽ lại
cái hình ngũ giác mà nét vạch hơi bị xóa nhòa…”
- Hay đấy! (Lời Oliver) cử chỉ kia đủ để chứng rằng Magnus chưa hẳn đã quá hư hỏng. Phải thế không, miss Bartendale?
Luna nhìn chàng một vẻ lạnh lùng. Swanhild thì cau mày. Gođard lại đọc tiếp:
- Bẩm, bây giờ thì ta làm gì ạ? (Tôi vừa hỏi vừa soi mói nhìn vừng đêm đen tối trong đó kẻ thù có lẽ đang ngồi rình)
- Đợi cho trời sáng.
Ngài trả lời rồi đưa ngọn đèn cẩn thận chiếu sáng chung quanh. Đèn vẫn
sáng mãi đến lúc giải trời ban mai lờ mờ hiện sau vừng cây cối. Thầy trò tôi tưởng chừng như ngồi đó chờ đợi đã cả một đời người. Ngài bảo tôi:
- Jack ạ, thầy trò ta đi vào huyệt xem xét xem có những gì đi. Cái vật
xổng mất đêm vừa rồi không thể tác hại được khi có ánh sáng ban ngày
nữa. Nội hôm nay ta phải xong việc mới được.
“Thầy trò chúng tôi khai một ngôi mộ ra xem: dưới một tấm ván, một bộ
xương nằm an giấc trong bộ áo giáp, đầu quay về hướng tây. Bộ giáp bằng
da gò có đeo những khuy bằng sắt hay bằng sừng đập dẹt. Sir Magnus lúc
đánh nhau với con quái vật đã dẫm gẫy một xương đùi và đã rải rác ra
chung quanh những mảnh giáp chân và đôi giầy. Phía trên bộ giáp có một
cái mũ trụ bằng đồng dát vàng, trong mũ thò ra hai bím tóc lớn màu hung
nâu. Một cái khiên tròn mang dấu thập tự của tướng hiệu đậy lên bím tóc
tay trái, một thanh gươm lớn và to bản, đã hoen rỉ hết, thì đặt chéo đè
lên bím tóc tay phải. Ngang trên đùi, một cái búa chiến; giữa hai chân,
một cái cán tay gươm mạ vàng và chạm trổ, với một miếng đồng lớn đúc
theo hình một chiếc lá gẫy làm ba đoạn.
Sir Magnus mơ màng khẽ nói:
- Ta biết rằng ngày xưa đã có một thời các vị quí tộc vẫn mang bím tóc.
Tiếc thay! Con quái vật từ nay đã xổng, mà sự tai hại đã gây nên mất
rồi! Vậy ta có thể mang được thanh kiếm vàng rất đẹp này về, vì có những chữ khắc trên đó xem chừng ta đã biết quạ Phải đó là nhờ vong linh vị
tổ tiên của ta ở đây mách bảo ta chăng? Mà ta biết chắc chắn rằng ta
đang đứng trên sàn một chiếc hải thuyền, ta lai biết rằng cái hình tượng kia là một thứ hình ở đầu mũi. Jack ạ, tại sao ta lại biết được những
điều ấy nhỉ?
Oliver vội ngắt lời:
- Tôi cũng đã biết như thế.
Luna bảo chàng:
- Những ký ức tổ truyền ở ông cũng là những ký ức ở cụ Pháp sư đó.
Gođard nói:
- Bản đại lược của tôi đến đây là hết. Đoạn tiếp theo, tôi chỉ dò xét
qua loa thôi. Sir Magnus với Slinfold về sau lấy đất nghĩa trang phủ lên bộ xương khô rồi trả lên mặt ván sau khi đã đậy lại nguyên chỗ, rồi sau cùng lấp kín huyệt lại. Cụ Warlock nói cam quyết với người thợ giúp cụ
rằng cụ không trông thấy con quái vật một lúc nào, mà nhờ có điều ấy, cụ mới khỏi chết. Ngay sau việc này, Slinfold mất hẳn cái khiếu xem thiên
lý kinh và xin vào học nghề ở nhà một thầy lang. Hắn chắc rằng cụ Pháp
sư lấy con trai cụ làm con đồng và trong một phiên phụ đồng con quái vật thình lình hiện đến. Lòng hối hận đã để nó xổng đẩy Sir Magnus đến sự
quyên sinh. Bản cảo từ đây trở đi không thể nào đọc được nữa, thành thử
ta không biết Cukpeper kết luận ra sao. Đáng bực mình thực (vừa nói
chàng vừa xếp lại tập giấy)vì ông Culpeper này cũng chẳng cho ta biết
được điều gì lạ lắm.
Luna đáp:
- Không, ông lầm. Những tài liệu không được việc cho ông Culpeper ba
trăm năm về trước lại rất có ích cho tôi ngày nay đó. Thôi, bây giờ tối
rồi, chắc những bọn tò mò đã không còn trên gò nữa. Vậy ai muốn đến
Thunder s Barrow tìm cho tôi phiến đá trên có khắc những cổ tự nào?
Gođard hỏi:
- Thế nào? Lấy đem về…
- Phải, lấy phiến đá mà lúc tìm thấy cụ Pháp sư đã bỏ quạ Ông không nhớ những lời cụ nói sao?
- Ông cụ nói rằng cái dấu Salomon không có trên phiến đá…
Nhưng vừa nói thế Gođard đã ngừng bặt: chàng chợt hiểu hết ý nghĩa của câu vừa rồi.
- Ừ nhỉ, tại sao ông cụ không nói ngay là phiến đá nhẵn mặt, mà lại nói thế nhỉ?
- Ấy đó! Là vì tuy không có cái dấu yểm phép nhưng mặt đá có khắc chữ.
Phiến đá hẳn có trong khoảng ta tìm tòi. Ông với Swanhild có thể tìm
thấy dễ lắm; còn ông Hammond sẽ giúp hai người mang về.
Mọi người liền lên xe hơi đi cùng với hai cái xẻng và một giờ sau phiến
đá đã đặt nằm trên mặt cỏ trên gò. Phiến đá bề dài cũng bằng một tấm bia mộ thường, nhưng dầy gấp đôi và bề ngang chỉ bằng một nửa. Luna đã đem
theo hai cái chổi quét sơn và một bản sao chép những chữ cổ trên thanh
gươm. Nàng quỳ xuống, chải sạch đất ở những chữ đục sâu trên mặt phiến
đá. Rồi nàng bắt đầu ra hiệu cho Swanhild và đưa mắt cho nàng ra vẻ đắc
thắng. Những chữ khắc kia thấy đúng in như những chữ trên đốc gươm.
Oliver hỏi:
- Có phải chính là cái cô vẫn ước ao tìm được đó không?
- Tôi chưa thể nói gì chắc chắn bây giờ được, ông Hammond ạ. Phiến đá
này ta không thể giao cho sở hỏa xa được. Vậy tôi lấy máy ảnh chụp rồi
gửi một bản cho giáo sư Meikellin theo chuyến xe lửa thứ nhất vào sáng
mai.
Oliver trách:
- Ô! Nhưng mà cô hứa ở lại đến chiều mai kia mà!
Nàng cười.
Thấy Gođard có vẻ hoài nghi, nàng hỏi:
- Ông thấy tôi cho việc tìm ra được phiến đá này quan trọng sao? Không
có một sự gắng công nào là vô ích hết, ông ạ. (Nàng nói thêm, vì thấy
đôi mắt Swanhild lóng lánh vẻ mừng rỡ) nhưng ta cũng nên coi chừng, chớ
nên hy vọng sớm quá. Ta còn có cả một ngàn năm bí mật nữa để khám phá
cho ra.
Đêm hôm đó, Gođard lại tìm trong tự điển đủ các tiếng bắt đầu có những
chữ C, G, O, Q, và S, thầm mong rằng lần trước đã bỏ sót mất cái tiếng ở câu vè. Nhưng công toi. Mà câu chuyện do Slinfold thuật lại thì càng
làm cho chàng không biết đường nào mà suy nghĩ nữa.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT