Ký ức của tôi ngày còn bé, không có bao nhiêu sách vở, chỉ có những trưa hè nắng nóng, len lút trốn bà chạy nhông nhông ngoài đường chơi với lũ trẻ hàng xóm. Hồi đó trước cửa nhà tôi có một cây trứng cá. Tôi không biết nó ở đó từ khi nào, nhưng tôi vẫn luôn nhớ cái dáng nghiêng nghiêng của nó dựa vào cái quán nhỏ của bà tôi. Cây trứng cá đó chính là địa điểm cư trú của chúng tôi mỗi buổi trưa hè nắng gắt. Cây lúc nào cũng có quả, quả nào quả nấy căng mọng tròn đầy. Tôi thích những trái trứng cá đỏ, cứ cho vào miệng cắn phập một cái, vỏ quả bể ra, chất thịt ngọt sẽ tan vào đầu lưỡi. Tôi còn nhớ hồi đó lũ nhóc chúng tôi ham ăn trứng cá đến nỗi ngày nào cũng vắt vẻo trên cây giành nhau từng trái đo đỏ, có những quả mới hơi ươm vàng chúng tôi còn không buông tha. Cho đến khi có một đứa nhóc nào đó méc với tôi rằng ăn quả trứng cá đỏ sẽ bị ung thư. Mặc dù tôi chẳng biết ung thư là gì, nhưng tôi biết nó là một thứ rất đáng sợ, từ đó tôi không ăn trứng cá đỏ nữa. Tôi chỉ ăn những quả trứng cá có quả màu xanh và ruột hơi mềm mà thôi. Nhưng thói quen vắt vẻo trên một chạc cây trứng cá thì tôi vẫn không bỏ được. Tôi thích nằm trên cây, đu đưa đón từng cơn gió nhỏ vuốt ve vào khuôn mặt. Chạc cây trứng cá già đó, chính là cái võng đưa tôi vào giấc ngủ trưa hè.

Thời đó con nít bọn tôi ít đồ để chơi, nên chúng tôi toàn tự bày trò để phá. Nhà tôi có một cái vỏ chăn mỏng hình hoa hồng màu đỏ. Cả đám con nít chui vào trong cái vỏ chăn đó, sau đó lồng vào quạt, bật quạt lên thì vỏ chăn phồng to thành một cái lều. Chúng tôi cứ ngồi trong cái lều đó, rồi hú hí kể cho nhau nghe hàng trăm thứ chuyện. Chủ đề của bọn con nít chúng tôi cực kỳ phong phú, từ chuyện cây nhãn nhà bác Mai sắp có quả, đến cây xoài, cây mận nhà bác Thìn trái thật to. Chẳng hiểu sao những câu chuyện như vậy lại có thể thu hút chúng tôi đến thế, chúng tôi có thể ngồi cả ngày để lảm nhảm về hoa cỏ cây lá, về thế giới xung quanh, rồi cũng có thể bật cười khúc khích chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt. Thế giới của con nít, rộng lớn và lạc quan hơn của người lớn rất nhiều.

Sự hấp dẫn của những trái nhãn khi đến mùa khiến đám con nít xóm tôi rôm rả hẳn lên. Tối đó chúng tôi lên kế hoạch trộm nhãn trên vườn của ngân hàng gần nhà tôi. Thực ra không phải vì chúng tôi nghèo đói nên đi ăn trộm. Chỉ cần chúng tôi nói một câu, ba mẹ chúng tôi sắn sàng mua cả rổ về cho lũ nhóc ăn đến nóng phát ban luôn, nhưng chúng tôi không thích. Người ta có nói mà, của chùa ngon hơn của nhà. Với lại, lén lén lút lút rồi gặt hái được thành quả cũng hưng phấn lắm thay.

Tôi cùng thằng Bờm và thằng Hải đúng sáu giờ hẹn nhau ngay đầu xóm, chúng tôi phân công nhiệm vụ. Tôi cầm bì bóng, theo đuôi hai thằng. Hai thằng đó có nhiệm vụ đột nhập và trèo cây. Hồi đó trên ngân hàng có bác Châu làm bảo vệ, bác rất khó tính, hay quát mắng chúng tôi nên lũ con nít xóm này ai cũng sợ bác. Chỉ cần nhìn thấy khuôn mặt đầy nếp nhăn vạn năm không đổi của bác, lũ chúng tôi đã nhớn nhác chạy dài. Thế nên đối tượng cảnh giác duy nhất của biệt đội trộm nhãn chúng tôi chính là bác.

Ngân hàng rất rộng, có hai dãy nhà lớn được xây theo kiểu chữ L. Tối đến, những cái đèn lớn được bật dọc theo bức tường xanh đã loang lổ sơn tróc, trên bờ tường đó, từng đám từng đám bướm ma bám dày đặc trên tường. Hồi đó tôi rất sợ bướm, nguyên nhân cũng bắt nguồn từ những con bướm ma này. Chúng to hơn hai bàn tay tôi ghép lại, có màu nâu, và trên đôi cánh lúc nào cũng dập dờn có hình hoa văn như những con mắt lớn. Chúng bám ở đó, khoe những cái đôi mắt nâu đáng sợ, như đang nhìn chằm chằm vào đám con nít chúng tôi. Các chị xóm tôi hay kể rằng, ngày xưa ngân hàng chính là bệnh viện. Ở dưới nền đất chúng tôi đang đứng là nơi chôn cất những người xấu số, còn những con bướm ma đó chính là linh hồn của họ còn đang khắc khoải nơi trần gian. Có một thời gian tôi sợ đến mức không dám nhấc nửa bước chân vào sau cánh cổng lớn của ngân hàng. Nhưng mùa nhãn đến còn hấp dẫn hơn cả những nỗi sợ bóng ma chập chờn đó.

Để đến được khu vườn, chúng tôi phải vượt qua bức tường đầy bướm ma trú ngụ. Tôi nín thở bám áo thằng Bờm, lon ton đưa chân ngắn chạy một mạch theo nó cùng Hải. Tôi sợ vã cả mồ hôi. Cảm giác như ba mét đó là ba mét dài nhất trong cuộc đời tôi. Trong đầu tôi hỗn loạn hàng ngàn ý nghĩ, chỉ cần tôi chậm chân một chút, cả đám bướm ma với những đôi mắt đen nâu đó sẽ bám chặt vào người tôi không buông. Ý nghĩ đó khiến cả người tôi lạnh toát.

Chúng tôi lần theo bờ tường dò dẫm từng bước trong bóng tối, vừa phải canh chừng bác Châu, vừa phải xác định vị trí cây nhãn dưới ánh sáng mờ nhạt của trăng đêm khiến chúng tôi càng thêm căng thẳng. Cây nhãn nằm sát cạnh một cái nhà vệ sinh cũ để hoang. Ba chúng tôi luồn ra phía sau nhà vệ sinh để đến gần cành nhãn thấp nhất. Bỗng “Soạt” một cái, một bóng đen lao xuống trước mặt tôi, tôi tái mặt, hét lên:

“Á… ”

Thằng Bờm nhanh tay bịt chặt miệng tôi lại, tôi gấp đến muốn khóc. Nó từ từ bỏ tay xuống, đưa ngón trỏ lên môi suỵt khẽ một cái, rồi thì thầm:

“Chỉ là con mèo thôi.”

Tôi mếu máo gật gật cái đầu nhỏ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy nó đáng tin như vậy, dù nó bằng tuổi tôi, và học sau tôi một lớp. Có lẽ đó là lần đầu tiên trong đời, tôi dựa dẫm vào một đứa con trai sàng tuổi tôi, và cũng là lần đầu tiên tôi cảm thấy rõ ràng nhất sự khác biệt giữa con trai và con gái. Tôi cứ thế bám chặt vào vạt áo của nó, nhìn bóng lưng nho nhỏ của thằng nhóc mà lòng cũng thấy an tâm lạ.

Tôi dọ dẫm từng bước sau lưng thằng Bờm, mồ hôi cũng từng giọt từng giọt ướt đẫm lưng áo. Thằng Hải đi sau lưng tôi nên tôi cũng không rõ nó thế nào. Thấy nó mãi không có động tĩnh gì, tôi lầm bầm hối thúc.

“Đi mau đi mày.”

Nó vẫn im thim thít. Một bàn tay lạnh toát chộp lên vai tôi.

“Đi đâu mà đi.” Chất giọng chầm chậm, lành lạnh đó vang lên trong bóng tối, chắc chắn không phải là giọng the thé của thằng Hải. Tôi như muốn ngừng thở, hét cũng không hét ra hơi. Tôi từ từ xoay cái cổ cứng ngắc lại nhìn, bắt gặp khuôn mặt như sắp khóc của thằng Hải. Mặt nó trắng bệch hơn ma, đáng sợ hơn cả bóng con mèo đen vụt qua trước mặt tôi lúc nãy. Tôi la lên thất thanh rồi giật tay thằng Bờm dông thẳng. Hôm sau thằng Hải bị một trận đòn roi nhớ đời, còn tôi thì không bao giờ thích ăn nhãn nữa.

Ngày bé tôi rất ngốc, ngốc đến độ không biết đếm số, không biết xem đồng hồ. Người thầy đầu tiên của tôi lại là Duy – một cậu nhóc hàng xóm bằng tuổi với tôi. Lúc đó, tôi đã nghĩ cậu ấy là người thông minh nhất trên thế giới này. Cậu ấy đếm rất nhanh, cộng cũng nhanh, trừ cũng nhanh. Tôi thì chỉ biết nhăn nhó đếm từng ngón tay, đếm hết tay rồi lại xoay qua đếm ngón chân. Đếm xong còn lẫn lộn linh tinh. Cậu ấy nhìn tôi cười đầy coi thường, tôi rất xấu hổ. Nhưng có lúc cậu ta lại tỏ ra tử tế bất thường. Cậu ấy chỉ tôi xem đồng hồ kim. Tôi thích thú nhìn chiếc đồng hồ xinh đẹp trên tay cậu ấy. Cậu ấy là chỉ tôi xem giờ kém. Tôi lại máy móc học thuộc theo, vì tôi không hiểu tại sao khi kim ngắn gần đến số ba, kim dài chỉ vào số chín lại là 3 giờ kém 15. Đến khi tôi học cấp hai, tôi vẫn rất ghét đồng hồ kim, vậy nên suốt quãng thời gian đó cho đến cuối năm cấp ba, một đứa con gái như tôi lại gắn liền với một chiếc đồng hồ điện tử to gần bằng cổ tay khẳng khiu của mình.

Duy cũng là người dạy tôi biết hát. Nhưng tôi lại không phải là đứa có năng khiếu với âm nhạc. Tôi luôn luôn hát lệch tông và thậm chí không nhớ nổi lời bài hát quá dài. Thật đau lòng khi phải thừa nhận rằng, đến giờ phút này, khi đã là một đoàn viên thanh niên ưu tú, tôi vẫn luôn hát nhép Đoàn ca. Thằng nhóc phát điên lên khi có một đứa bạn như tôi. Lâu lâu chúng tôi nổi hứng lên song ca, nó hát đoạn đầu, tôi hát đoạn sau, nhưng đến khi tôi hát được đến câu thứ hai thì nó đã thở dài ngao ngán, phẩy tay: “Thôi bỏ đi.” Tôi cũng không nghĩ gì nhiều, chỉ là ngừng la eo éo lại và lon ton chạy theo sau lưng nó. Đến năm tôi học lớp chín, hát nhạc vẫn là môn học mà tôi ghét nhất. Tôi học nhạc kém tới mức mà khi thi đọc nhạc, tôi hát nguyên bài vẫn thua điểm con bạn tôi hát được hai câu. Lần đầu tôi gian lận trong thi cử cũng là môn nhạc. Tôi đưa luôn tờ giấy thi cho con bạn tôi để nó viết từ khóa nhạc tới nốt đen, nốt trắng (gọi thế đúng không nhỉ?), còn tôi thì ngồi khểnh chân chờ kim đồng hồ chạm mốc. May mắn thay, năm đó là năm cuối cùng tôi phải học môn học thần thánh liên quan mật thiết tới năng khiếu đó.

Duy có rất nhiều trò nghịch ngợm để chúng tôi chơi cùng nhau. Nó còn dẫn tôi ra đường nhìn xe cộ qua lại, sau đó nó chỉ vào một cái ô tô chở gỗ to đùng, nó bảo xe đó giống chiếc xe trong phim “Mười tám bánh xe công lý”. Tôi cũng gật gù tán thưởng, mặc dù tôi chẳng hề biết chiếc xe trong bộ phim đó trông như thế nào. Hồi đó nhà nó mới xây, nên bên hông nhà chất đầy gạch cùng gỗ. Nó vác từng viên gạch, xếp thành một cái nền sạch sẽ, sau đó gác thêm vài viên chồng lên nhau, bao kín xung quanh. Nó bảo với tôi đó là ô tô của nó. Hai đứa hí hửng leo lên ngồi. Nó lái xe, còn tôi ngồi hóng. Rốt cuộc thì chiếc ô tô đó cứ chạy bon bon trên đường lớn… trong trí tưởng tưởng của chúng tôi. Nhà Duy có một cái vườn rất lớn ngay bên hông nhà, nhưng trong vườn đó chỉ toàn cỏ là cỏ, chỉ có duy nhất một cây xoài nhỏ đứng giữa vườn. Có hôm hai bọn tôi đi nhặt những miếng gỗ lớn dựng thành một ngôi nhà. Đáng lẽ đó phải là nhà trên cây, nhưng vì khả năng có hạn, cuối cùng nó chỉ có thể là một ngôi nhà nhỏ dựa bên gốc cây xoài mà thôi. Tối hôm đó tôi bị ngứa khắp người vì vụn gỗ.

Thằng nhóc có thể được coi là bạn thân nối khố của tôi. Vì hai đứa ở gần nhà, cùng đi chơi, cùng đi học suốt những năm tháng trẻ thơ đó. Nhưng nó chỉ là bạn ở nhà của tôi mà thôi. Đi học tôi còn cả tá bạn khác để chơi, vậy nên tôi liền quẳng nó ra sau đầu. Đến hồi tôi xem lại tấm hình chúng tôi chụp vào cuối năm lớp năm, tôi mới ngộ ra một chân lý là thằng nhóc đẹp trai đứng ngoài cùng bên trái của lớp tôi là nó. Duy học cùng tôi năm lớp năm, mãi đến năm nhất đại học tôi mới phát hiện ra sự thật này.

Năm cấp hai chúng tôi học chung trường nhưng không chung lớp. Hồi đó trường tôi có yêu cầu học sinh phải đeo bảng tên bằng một miếng mica nhỏ màu tím trên ngực áo trái. Tên của Duy có một chữ đệm là Nhị. Xui xẻo sao cho thằng nhóc, tấm mica của nó bị in tên là Trần Thị Khánh Duy. Cậu nhóc đẹp trai đó bị trêu đùa cho đến hết những năm cấp hai đầy nắng gió.

Duy có một người chị, chị hơn cậu hai tuổi, tên là Hằng. Chị Hằng rất khéo tay, chị hay may đồ búp bê và thiết kế rất nhiều kiểu đẹp mắt. Tôi rất ngưỡng mộ chị nên mỗi khi đến chơi với Duy, tôi lại theo chị may đồ búp bê. Có ngày đi chợ cùng mẹ, tôi đòi mẹ mua cho một con búp bê như của chị Hằng. Sau đó tôi học may, học cắt. Con gái và búp bê có lẽ là tuổi thơ không chỉ của riêng tôi. Ngày đó tôi cũng từng đem theo mơ ước làm thiết kế thời trang. Tiếc rằng ước mơ ngày bé chỉ như lời nói đùa gió thổi bay, càng lớn càng khiến lời nói đùa đó trở nên mơ hồ vô vọng.

Chị Hằng làm gì cũng khéo, chị cũng rất đẹp. Mãi đến sau này chị vẫn là thần tượng trong lòng tôi. Năm tôi học lớp tám, chị lên lớp mười. Chị học trường chuyên ở trên thành phố nên một năm chị chỉ về nhà lúc hè và tết. Mỗi lần chị về, tôi đều bám theo chân chị, để được nghe chị kể chuyện về thành phố của những cơn mưa. Chị kể chuyện rất hay, nghe cứ như một bộ phim về tuổi trẻ. Có giang hồ, có đánh nhau, có tình bạn, tình yêu… Nếu ai đó bảo rằng chị nói xạo, tôi sẵn lòng gân cổ lên cãi thay cho chị, bởi tôi biết chị nói thật, biết chị kể chuyện thật. Có thể bạn cũng nghi ngờ tôi, nhưng thực sự, ở nơi tôi sống, cái từ “giang hồ”, “dặt dẹo” vốn không hề xa lạ. Tưởng chừng một con người cá tính như chị, có lẽ sẽ sẽ có một tuổi trẻ sôi nổi không kém, thế nhưng sau khi tốt nghiệp đại học, chị lại là cô gái đầu tiên trong cái xóm tràn đầy học thức của tôi lên xe hoa. Cô gái ngày ấy, giờ đã là một bà mẹ sắc sảo, ngọt ngào.

Cạnh nhà tôi còn có chị Ngân bằng tuổi với chị Hằng. Tôi đã được chị ấy giải thích cặn kẽ nguồn gốc ý nghĩa của cái tên. Chị ấy hỏi tôi:

“Mày có biết Ngân có nghĩa là gì không?”

Tôi lắc đầu.

“Ngân nghĩa là tiền.”

“Dạ, thì sao ạ?”

“Nghĩa là vì ba tao thích nhiều tiền, nên ba tao đặt tên tao là Ngân.”

Tôi cũng gật gù theo vì cảm thấy hợp lý. Sau này nhà chị ấy có thêm hai bé trai sinh đôi bằng tuổi em trai tôi, hai đứa đó cũng được đặt tên là Ngân, một là Hoàng Ngân, một là Hoàn Ngân. Còn lý do vì sao lại thế thì cứ coi như tôi… không biết gì hết đi.

Tôi rất ít chơi với các chị. Nhưng một khi đã chơi cùng rồi thì toàn chơi trò… người lớn. Bởi vì các chị lớn hơn tôi, nên tư tưởng cũng đi nhanh hơn một bước. Hồi đó tôi còn chẳng biết thế nào là thích, thế nào là khác biệt nam nữ. Tôi chỉ biết đứa nào tôi muốn chơi cùng, và đứa nào vừa nhìn mặt đã thấy ghét mà thôi. Minh là con trai của một bác làm cùng cơ quan với ba mẹ tôi. Mỗi khi ba nó đi làm, nó hay được chở sang nhà tôi chơi. Hai đứa con nít cứ bày ra đủ thứ trên trời để nghịch. Cho đến khi chúng tôi chơi cùng các chị lớn. Các chị ấy bảo tôi với thằng nhóc đó là một cặp. Bảo chúng tôi thích nhau vì lúc nào chúng tôi cũng đi cùng nhau. Rồi sau đó là thảm họa khi mấy chị bảo thằng nhóc thơm vào má tôi đi. Thật tình hồi đó tôi chẳng hiểu gì về việc tiếp xúc thân mật giữa hai người khác giới. Nhưng tôi cũng cảm thấy có chút gì đó không đúng. Tại sao tôi lại phải cho thằng nhóc đó chét nước miếng vào mặt tôi. Tôi không chịu làm. Mấy chị bảo sẽ không cho tôi chơi cùng nữa. Rốt cuộc tôi với thằng nhóc phải lén lút núp sau cánh cửa để thơm nhau. Mặc dù tôi còn chả nhớ cái thơm đó có được thực hiện hay không nữa, nhưng nếu làm rồi, quả thật tôi nên đau lòng vì đã mất luôn nụ hôn đầu đời một cách lãng nhách như thế.

Xin lỗi mối tình đầu của em, xin lỗi luôn cả chồng tương lai của em. Em thực vô tội mà!

Tính tôi làm gì cũng tỉ mỉ và cẩn thận nên ngày bé tôi rất ít khi tự mình té. Những vết sẹo trên người tôi hầu hết là do... dòng đời xô đẩy. Lúc các chị xóm tôi bắt đầu đủ tuổi để đi xe đạp, thì việc cần làm đầu tiên chính là tập lái xe. Nhà tôi ở ngay chân dốc. Nên mấy chị hay dắt xe lên đầu dốc, rồi từ trên đó thả xuống, đến lúc phanh xe lại thì dùng… chân. Bởi vậy, đám con nít chúng tôi, ai ai cũng có hai ba đôi dép bị mòn dẹt cả đế. Ấy vậy mà hầu như không có ai bị té. Cho đến khi chị Ngân hùng hổ thét lên là muốn tập chở. Và tôi tất nhiên trở thành nạn nhân đầu tiên của chị. Tôi leo lên yên sau của chiếc xe mini Nhật màu hồng tím của chị mà lòng cứ thon thót. Đến lúc xe xổ xuống dốc, gió thổi vù vù kéo tóc tôi dạt hết về hai bên tai, tôi mới mơ hồ hưởng thụ cái cảm giác như là đang bay đó thì tôi được… bay thật. Xe lao xuống dốc, và tôi phanh xe bằng mặt. Hôm đó tôi thay cái răng đầu tiên trong đời.

Bà tôi bảo, thay răng hàm trên thì ném răng xuống gầm giường, thay răng hàm dưới thì quăng răng lên mái nhà, như thế răng với mau mọc. Vậy nên tôi đi ra đường, tìm chiếc răng mới rụng của mình, để ném xuống gầm giường nhà tôi, vì tôi rất sợ cái cảm giác gió lùa vào trong miệng.

Lúc còn bé tôi luôn mong mình có thể mau lớn. Lớn rồi thì sẽ không cần thay răng nữa. Lớn rồi thì không cần đi học nữa. Cao hơn một chút có thể dễ dàng chạm tay vào thế giới ngoài kia. Thế nhưng khi lớn lên rồi, lại nhận ra rằng, làm người lớn khiến ta càng xa rời với những ước niệm ta hằng mong thời thơ trẻ. Đúng là lớn thì không cần thay răng nữa, cũng không cần đi học nữa, nhưng cũng vì thế mà người ta cứ phải vương vấn nỗi nhớ xa xăm về những bóng áo trắng chiều chiều tan học. Nhiều người luôn có những nỗi ám ảnh về tuổi thơ. Cũng có hàng ngàn người muốn được một lần đặt chân lên chuyến tàu trở về quá khứ. Cuộc sống sau này chèn ép và áp lực quá nhiều, người ta chỉ muốn lại được sống vô tư như thuở ban đầu.

Bởi vì đã từng có, nên mới nhớ mong. Bởi vì đã từng sống, nên mới mong quay về.

Giống như trong bài hát “Nhân lúc bạn còn trẻ” của Hoa Thần Vũ đã có câu:

“Bạn phải biết nguyên nhân tại sao lại có người ngưỡng mộ bạn

Là vì họ cũng từng trải qua thời thanh xuân như bạn.

Bạn phải hiểu lý do tại sao lại có người ghen tị với bạn.

Chính là vì họ không thể giữ lại tuổi xuân.”

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play