Suốt ngày trong lúc quay chiếc cối xay cà phê hoặc ngồi bện cỏ, Laura đều nhớ rằng Cap Garland và anh chàng Wilder em đang vượt những cánh đồng tuyết không in dấu vết đi kiếm lúa mì về cho thị trấn.

Chiều hôm đó, Laura cùng Mary ra sân sau hít thở không khí và cô kinh hãi thấy ở phía chân trời tây bắc xuất hiện một đường viền đen kịt báo hiệu bão tuyết đang tới. Trời không có mây nhưng cô vẫn ngờ vực nhìn ánh nắng. Nắng quá sáng và đồng cỏ ngập tuyết lấp lánh có vẻ đang đe dọa. Cô run rẩy.

Mary nói:

- Vào nhà đi, Laura. Nắng lạnh quá. Em có thấy mây không?

Laura trấn an:

- Không có mây. Nhưng em không thích thứ thời tiết này. Không khí có vẻ man rợ thế nào ấy.

Mary đáp:

- Không khí chỉ là không khí thôi. Chắc em muốn nói trời lạnh.

Laura gắt:

- Em không nói tới trời lạnh. Em muốn nói có vẻ man rợ.

Cả hai vào nhà bếp qua cửa gian chái.

Mẹ ngưng khâu vớ cho bố ngẩng lên nhìn. Mẹ nói:

- Các con vào mau thế. Các con nên hít thở nhiều không khí trong lành trước khi có cơn bão tiếp theo.

Bố bước vào. Mẹ gạt công việc lại, tới lấy ổ bánh mì nướng ra khỏi lò trong lúc Laura rót một ít xốt cá thu vào chén.

- Lại xốt cá. Tốt!

Bố nói trong lúc ngồi ăn. Trời lạnh và việc kéo cỏ nặng nề khiến bố đói bụng. Mắt bố sáng lên khi nhìn các thức ăn. Bố nói không ai có thể hơn nổi mẹ trong việc làm bánh và không có gì ngon hơn bánh mì chấm nước xốt cá thu. Bố coi món bánh mì thô và thứ bột lúa mì nghiền cùng với một miếng cá muối như một bữa tiệc.

Bố nói:

- Mấy cậu bé có một ngày thật tuyệt để đi xa. Anh nhìn thấy một con ngựa sa xuống phía đầm Big Slough nhưng họ đã đưa lên không có gì phiền phức.

- Liệu họ có trở về yên ổn không, bố?

Carrie rụt rè hỏi và bố nói:

- Không có lí do gì để không yên ổn nếu thời tiết này kéo dài.

Bố ra ngoài lo các việc thường lệ. Mặt trời đã lặn và ánh sáng trở nên mờ nhạt khi bố bước vào. Bố đi qua phòng trước nên tất cả biết là bố đã đảo qua phố để thu lượm tin tức. Vừa nhìn thấy bố, tất cả đã biết là có tin hay không.

Bố nói khi treo mũ áo lên đinh móc sau cửa ra vào:

- Lại có bão nữa rồi. Một đám mây đang kéo tới rất nhanh.

Mẹ hỏi bố:

- Họ về tới chưa?

Bố đáp:

- Chưa.

Mẹ lặng lẽ đu đưa chiếc ghế và tất cả ngồi im trong lúc bóng chiều chạng vạng tối dần. Grace đang ngủ trong lòng Mary. Những người khác kéo ghế lại gần lò bếp hơn nhưng vẫn im lặng như chỉ đợi tiếng chuyển động ken két của căn nhà cùng với tiếng gào hú của gió bão.

Bố đứng dậy thở dài:

- Hừ, nói lại tới đây.

Rồi thình lình bố giơ nắm tay xiết chặt về phía tây bắc. Bố hét lớn:

- Hú đi! Đập mi vỡ mặt! Hú! Tụi tao vẫn ở đây bình yên! Mi đừng hòng đụng đến tụi tao! Mi có hú hét mùa đông cũng không ăn nhằm gì tới tụi tao! Tụi tao sẽ bình yên ở đây tới khi mùa xuân đến!

Mẹ nói như dỗ dành:

- Charles, Charles! Chỉ là một trận bão thôi. Mình đã quen với chúng rồi.

Bố buông người xuống ghế. Một phút sau bố nói:

- Điên thật, Caroline. Trong một phút anh bỗng thấy gió như là một sinh vật đang cố đeo đuổi mình.

Mẹ tiếp tục dịu giọng dỗ dành:

- Đôi lúc nó cũng giống như thế.

- Anh sẽ không suy nghĩ nhiều như thế nếu anh có thể chơi đàn được.

Bố lẩm nhẩm nhìn xuống những bàn tay thô cứng nứt nẻ được soi sáng do những ánh lửa lọt qua kẽ lò bếp.

Trước đây, vào những lúc khó khăn, bố thường đàn cho mọi người nghe. Bây giờ, không ai có thể đem âm nhạc tới cho bố. Laura cố tự khích lệ bằng cách nhớ lại điều bố đã nói là tất cả đang ở đó bình yên. Nhưng cô rất muốn hỏi bố một điều. Lúc đó, đột nhiên cô nghĩ tới câu “Tất cả chúng ta đều ở đây” trong bản hợp xướng “Bài ca của những người tự do”.

Cô kêu lên:

- Mình có thể hát chứ!

Bố thật nhanh. Bố nói:

- Con bắt nhịp đúng đấy, Laura, nhưng hơi cao một chút. Cố xuống si giáng đi.

Laura bắt đầu trở lại. Trước tiên là bố rồi tất cả những người khác hát hòa theo:

Lúc Paul và Silas rơi vào ngục tối

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Kẻ cất tiếng ca, người đọc kinh cầu nguyện

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Chúng ta đang ở đây đông đủ

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Chúng ta đang ở đây đông đủ

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Nếu đức tin mà mua chuộc được

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Dù giàu sống và nghèo sẽ chết

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Lúc này Laura đang đứng cùng với Carrie và Grace thức dậy cũng rang sức hát theo:

- Chúng ta đang ở đây đông đủ

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Chúng ta đang ở đây đông đủ

Chẳng cần gì làm hại cho ai

Bố nói:

- Tốt lắm!

Rồi bố xướng âm một nốt thấp và bắt đầu:

Khúc xương cụt thành con thuyền trôi nổi

Thả lênh đênh trên mặt đất thênh thang

Gỗ từng đống ào ào lăn xô tới

Con thuyền xưa biến mất im lìm

- Nào bây giờ cùng hát:

Và tất cả đồng ca:

Đừng bao giờ buông ra lời giễu cợt

Đừng bao giờ lên tiếng nói quàng xiên

Đừng bao giờ buông ra lời giễu cợt

Đừng bao giờ lên tiếng nói quàng xiên

Khi tất cả ngưng hát, bão có vẻ dữ dội hơn.

Một lát sau, bố lại hát và tới những đoạn trang trọng bày tỏ sợ biết ơn, tất cả đều như cảm nhận thấy:

Vĩ đại thay đấng Chăn chiên Tối thượng

Vinh dự thay được lên tiếng cầu xin

Trong đất Chúa đầy lòng nhân hậu

Giữa thánh đường của Chúa thiêng liêng

Rồi mẹ bắt đầu:

Khi trở thành con chiên của Chúa

Những điện đài ngự giữa trời xanh

Chào giã biệt mọi khổ đau khiếp hãi

Và lau khô nước mắt, an lành

Phía ngoài, bão điên cuồng gào hú, quật ngã vào cửa sổ, vào những bức vách, nhưng tất cả an toàn trong nơi trú ẩn ngồi sát bên hơi ấm của lửa cỏ khô và tiếp tục hát.

Khi hơi ấm tàn trong lò thì đã quá giờ ngủ và do muốn tiết kiệm cỏ khô nên tất cả mò mẫm từ nhà bếp tối lạnh lên căn gác tối tăm hơn, lạnh lẽo hơn để tới giường nằm.

Dưới những lớp mền, Laura và Mary cùng đọc lời cầu nguyện. Rồi Mary thì thào:

- Laura. Laura cũng thì thào:

- Chi vậy?

- Em có cầu nguyện cho mấy người kia không?

Laura đáp:

- Có. Chị nghĩ là mình phải làm vậy hả?

Mary đáp:

- Không nên chỉ cầu xin cho riêng mình. Chị không nói về lúa mì. Chị chỉ xin hãy cho họ an toàn nếu đó là ý của Chúa.

Laura nói:

- Em nghĩ là phải như thế. Họ đang làm những điều tốt nhất. Và, bố cũng đã sống qua cơn bão ba ngày vào dịp Giáng sinh mà mình còn ở bên suối Plum.

Suốt những ngày bão tuyết đó không nói thêm gì về Cap Garland và anh chàng Wilder em. Nếu họ tìm được nơi ẩn trú thì họ có thể sống qua cơn bão. Nếu không, không thể làm gì cho họ được. Cho nên nói chuyện đó chẳng tốt gì.

Gió vẫn không ngừng và đập vào căn nhà cùng với tiếng gào thét la hú của bão khiến khó suy nghĩ nổi điều gì. Chỉ có thể ngồi chờ bão dứt. Suốt thời gian đó, họ nghiền bột, bện cỏ, giữ cho lửa luôn cháy trong lò bếp và xúm xít quanh đó để hơ những bàn tay tê cóng nứt nẻ, những bàn chân sưng vù, nhức buốt, ngứa ngáy trong khi nhai nuốt những miếng bánh làm bằng bột thô và đợi cơn bão dứt.

Qua ngày thứ ba rồi đêm thứ ba, bão vẫn không dứt. Buổi sáng thứ tư, bão vẫn nổi dữ dằn.

Bố nói khi từ chuồng ngựa bước vào:

- Không có dấu hiệu bão ngớt. Đây là cơn bão tồi tệ nhất.

Một lát sau, khi tất cả đang ăn những miếng bánh dành cho bữa sáng, mẹ cố trấn tĩnh và nói:

- Em hi vọng là mọi người trong thị trấn đều không sao.

Không có cách gì để biết rõ. Laura nghĩ tới những căn nhà chỉ nằm bên kia phố mà cũng không thể nhìn thấy. Không hiểu do đâu, cô nhớ tới bà Boast. Họ không thấy bà Boast từ mùa hè vừa qua và đã lâu không thấy ông Boast, kể từ khi ông ấy mang tới số bơ cuối cùng.

Cô nói:

- Nhưng mình cũng đã phải sống ở nhà trại.

Mẹ nhìn cô thắc mắc không biết cô đang nghĩ gì, nhưng không hỏi. Tất cả chỉ chờ tiếng ầm ĩ của bão ngưng lại.

Sáng hôm đó, mẹ thận trọng trút những hạt lúa mì cuối cùng vào cối xay cà phê. Chỉ còn vừa đủ để làm một ổ bánh mì nhỏ. Mẹ lấy muỗng cạo chén rồi với lấy mấy ngón tay, mẹ vét từng chút bột nhào cho vào chảo hấp.

Mẹ nói:

- Đây là đợt cuối cùng, Charles.

Bố nói với mẹ:

- Anh có thể kiếm thêm. Almanzo Wilder còn giữ một số hạt giống. Nếu băng qua nổi cơn bão thì anh có thể tới đó lấy.

Cuối ngày hôm đó, khi ổ bánh được đặt trên bàn thì những bức vách ngưng lay động. Tiếng gào hú đã tan biến và chỉ còn tiếng gió lùa dọc các hàng hiên. Bố đứng bật dậy, nói:

- Chắc là bão ngưng.

Bố mặc áo, đội mũ, choàng khăn nói với mẹ rằng bố chạy qua cửa hàng Fuller’s. Nhìn qua những lỗ hổng được cào trên lớp sương giá, Laura và Carrie thấy tiếng đang bay theo gió.

Mẹ ngả người trên ghế, thở ra một hơi dài:

- Phải cảm ơn sự yên tĩnh này thật nhiều.

Tuyết đang dồn lại. Một lát sau, Carrie nhìn thấy bầu trời và gọi Laura cùng nhìn. Cả hai ngắm khoảng trời màu xanh nhạt trên đỉnh đầu và ngắm ánh nắng ấm buổi chiều trên lớp tuyết đang bay là đà. Trận bão đã thực sự chấm dứt. Vùng trời phía tây bắc quang đãng.

Carrie nói:

- Em mong là Cap Garland và anh chàng Wilder em an toàn ở một nơi nào đó.

Laura cũng mong thế nhưng cô biết nói ra cũng chẳng làm được gì khác.

29. DẶM ĐƯỜNG CUỐI CÙNG

Almanzo nghĩ có lẽ đã vượt qua khoảnh hẹp của đầm Big Slough. Nhưng cậu không dám chắc là mình đang ở đâu. Cậu có thể nhìn thấy Prince và cỗ xe cồng kềnh đang di chuyển chậm chạp. Phía bên kia là bóng tối như một màn sương dày đặc bao trùm một thế giới màu trắng phẳng lì. Những vì sao lấp lánh xa ở một khoảng nào đó. Trước mặt cậu, cơn bão đen ngòm dâng lên thật mau trên nền trời và lặng lẽ xóa biến các vì sao.

Cậu kêu lớn với Cap:

- Có thấy là mình đã qua đầm Big Slough không?

Cậu quên là không cần phải hét lớn khi gió đã ngưng. Cap nói:

Almanzo nói:

- Mình đã không bị sa hố.

Cap nói:

- Nó đang đến rất nhanh.

Cậu muốn ám chỉ cơn bão đen ngòm đang dâng lên.

Chẳng có điều gì để nói về cơn bão đó cả. Almanzo lại khuyến khích Prince và mải miết bước. Cậu dậm mạnh bàn chân khi đi bộ nhưng khó cảm thấy sự va chạm. Chân cậu giống như bằng gỗ từ đầu gối trở xuống. Mỗi múi thịt trên người cậu đều kéo căng ra để chống với cái lạnh. Cậu không thể buông trùng sự gồng cứng làm đau quai hàm và nhức buốt ở trong người. Cậu đập mạnh hai bàn tay tê cóng vào nhau.

Prince kéo cỗ xe nặng nhọc hơn. Mặc dù tuyết dưới chân bằng phẳng nhưng đang lúc lên dốc. Các cậu đều không nhìn thấy chiếc hố mà hồi sáng Prince đã sập xuống, nhưng bằng cách nào đó, họ đã băng qua đầm.

Tuy nhiên, mọi thứ đều có vẻ lạnh lùng. Bóng tối pha trộn với ánh sao nhòa nhạt phản chiếu trên tuyết làm cho lối đi khác hẳn. Phía trước, trong bóng tối không có một vì sao nào để định hướng.

Almanzo gọi với lại:

- Chắc là mình qua đầm rồi!

Xe của Cap đến sát phía sau và một hồi sau Cap mới nói:

- Nhìn coi lối đi này!

Nhưng Prince vẫn kéo rụt rè, run rẩy không chỉ do mệt và lạnh mà còn do sợ tuyết dưới chân sụp xuống.

Almanzo nói lớn:

- Ồ, mình qua chắc rồi!

Lúc này cậu nói chắc chắn:

- Mình đang ở trên đất liền, ổn rồi!

Cap hét:

- Thị trấn ở đâu?

Almanzo đáp:

- Chắc mình đang ở gần thị trấn rồi.

Cap nói:

- Nó đang đến nhanh quá.

Almanzo biết thế. Cậu vỗ nhẹ hông Prince:

- Ráng lên, Prince! Ráng lên!

Nhưng Prince chỉ nhấn nhanh được một bước rồi lại thả bước nặng nề. Con ngựa đã mệt và không muốn chạy vào gió bão. Lúc này, cơn bão tràn lên cực nhanh gần như kín nửa bầu trời và bầu không khí sậm tối đang bị khuấy động.

Cap nói:

- Có tiếp tục lái xe đi hoặc là sẽ tiêu luôn.

Almanzo ghét đi tới nhưng cậu leo lên cỗ xe quấn dây cương quanh hai vai và đập Prince bằng những đầu dây.

- Ráng lên, Prince! Ráng lên!

Prince bước tới và kinh hoảng. Từ trước Almanzo chưa bao giờ đánh nó. Nó lao tới kéo chiếc ách cỏ và giật nẩy cỗ xe tới trước rồi xoải vó phóng nước kiệu xuống dốc. Cap cũng đánh con ngựa nâu hung. Nhưng cả hai đều không biết chắc thị trấn ở đâu.

Almanzo ráng sức dẫn đường. Khắp nơi trước mặt chỉ là bóng tối dầy đặc.

Almanzo hỏi:

- Nhìn thấy gì không?

Cap đáp:

- Cóc thấy gì. Mình dính chấu rồi.

Almanzo nói:

- Thị trấn không thể ở xa phía trước đâu.

Trong một thoáng cậu bỗng bắt gặp một tia sáng. Cậu nhìn về phía đó và lại không thấy gì trong cơn bão đen đặc. Rồi cậu lại nhìn thấy tia sáng, một tia sáng bừng lên và biến đi đột ngột. Cậu biết đúng là tia sáng chiếu ra từ một ô cửa sổ mở rồi đóng. Tới gần hơn, cậu nghĩ lúc này cậu đã nhìn thấy lờ mờ một ô cửa đọng sương giá và cậu hét lớn với Cap

- Thấy ánh đèn không? Tới luôn!

Các cậu đã đi hơi xa hơn về phía tây. Bây giờ, hướng thẳng về hướng bắc, Almanzo cảm thấy cậu biết đường chắc chắn. Prince cũng vậy, chạy háo hức hơn và con ngựa nâu hung xoải nước kiệu theo sau. Almanzo lại nhìn thấy một lần nữa ánh lửa lóe sáng qua đường phố và lúc này hình ô cửa sổ lờ mờ đã hiện rõ. Đó là cửa sổ ở cửa hàng Loftus’.

Khi họ tới trước ô cửa thì gió cuốn tới một đợt tuyết xoáy.

Almanzo nói với Cap:

- Tháo xe ra và chạy về đi. Tớ lo chỗ lúa mì cho.

Cap cởi dây và phóng lên con ngựa nâu hung. Almanzo hỏi qua cơn bão:

- Cậu thấy về nổi không?

Cap hô khi con ngựa phóng qua những lô đất trống để chạy về:

- Được không hả? Tớ làm được.

Almanzo chạy thình thịch vào cửa hàng ấm áp. Ông Loftus bật dậy khỏi chiếc ghế bên lò sưởi. Ở đó không có ai khác. Ông Loftus nói:

- Vậy là các cậu đã về được. Tôi cứ nghĩ là các cậu không về nổi.

Almanzo nói:

- Cap và tôi đã làm xong công việc được giao.

Ông Loftus hỏi:

- Tìm ra cái người trúng vụ mùa hả?

Almanzo đáp:

- Và đem về sáu chục gia lúa. Ông giúp tôi mang vào chứ?

Cả hai kéo lê những bao lúa vào chất đống sát vách. Bão đang thổi dữ dằn. Khi bao lúa cuối cùng được chất xong, Almanzo trao cho ông Loftus tờ biên nhận do ông Anderson kí và số tiền mua hàng còn dư lại.

- Ông đưa cho tôi tám chục đô-la để mua lúa mì và đây là số còn dư lại, chẵn năm đô-la.

Ông Loftus nhìn tờ biên nhận nói:

- Một đô-la hai mươi lăm xu một giạ. Đúng là cái giá tốt nhất mà các cậu làm được chứ?

Almanzo đáp lại:

- Bất kì lúc nào ông không ưng, tôi sẵn sàng mua lại từ tay ông với giá đó.

Ông chủ cửa hàng vội nói:

- Tôi không quay lại với chuyện giá cả đâu. Cậu tính tôi phải trả phí tổn chuyên chở bao nhiêu?

Almanzo nói và bước ra:

- Không đáng một đồng xu nhỏ.

Ông Loftus gọi với theo:

- Này, ngồi lại một chút cho ấm chứ?

- Và để cho ngựa của tôi đứng giữa trời bão sao?

Almanzo đóng sập cửa lại.

Cậu nắm cương ngựa cho nó đi ra đường phố dọc theo những cột buộc ngựa và những đường gờ cổng trước các cửa hàng. Lần theo bức vách dài của kho chứa thực phẩm, cả ha lết đi mệt nhọc về phía chuồng ngựa. Almanzo tháo ngựa và đưa vào trong ngăn chuồng yên tĩnh trước tiếng hí mừng rỡ của Lady. Cậu chặn cửa lại để cản gió rồi tháo một chiếc bao tay, thọc bàn tay phải vào nách làm ấm lại cho tới khi các ngón tay đủ mềm để thắp đèn.

Cậu cho Prince vào ngăn chuồng của nó, lấy nước cho nó, cho nó ăn rồi kì cọ và chải lông cho nó. Xong, cậu trải cỏ khô làm một nệm nằm sạch, dầy và mềm cho con ngựa đã mệt nhọc.

Cậu nói với Prince trong lúc nhẹ nhàng vỗ lên người nó:

- Bồ đã cứu được chỗ hạt giống rồi, bồ già.

Cậu khoác xô nước vào cánh tay và bước qua bão táp. Ngay tại phía ngoài cửa phòng sau, cậu vục đầy một xô tuyết. Khi cậu ngả nghiêng bước vào thì Royal đang đi từ kho thực phẩm trống rỗng lên phòng trước.

Royal nói:

- Ô, em đây rồi. Anh đang cố nhìn xuống phố coi có thấy em không, nhưng không thể nhìn xa quá nổi một bộ trong cơn bão này. Nghe nó hú kìa! May mắn là em đã về đúng lúc.

Almanzo nói với anh:

- Tụi em mang về sáu mươi giạ lúa mì.

- Em không giỡn chứ! Anh đã nghĩ đó là một cuộc đi săn ngỗng trời.

Royal bỏ thêm than vào lửa, tiếp:

- Em mua với giá bao nhiêu?

Almanzo kéo ủng ra:

- Một đô-la hai mươi lăm xu.

Royal huýt gió:

- Ui cha! Đó là giá thấp nhất mà em trả được hả?

- Đúng thế.

Almanzo đáp cụt ngủn trong lúc cởi những lớp vớ khỏi chân.

Lúc đó Royal mới nhận ra việc Almanzo đang làm và nhìn chiếc xô đầy tuyết. Anh kêu lên:

- Lấy tuyết làm gì đây?

Almanzo khịt khịt mũi:

- Anh nghĩ dùng làm gì? Để chà các bàn chân của em.

Các bàn chân cậu trắng bệch như hết máu và không còn cảm giác. Royal giúp cậu chà tuyết trong góc phòng lạnh nhất cho tới khi cậu bắt đầu thấy ngứa ngáy và cảm thấy dội lên cảm giác đau buốt. Quá mệt mỏi, đêm đó cậu lại không ngủ nổi do cơn đau bàn chân khiến phát sốt, nhưng cậu mừng vì đau buốt cũng có nghĩa là bàn chân không bị đe dọa liệt cứng.

Suốt mấy ngày đêm có bão, các bàn chân cậu sưng tấy và đau đớn đế nỗi cậu phải mượn ủng của Royal mỗi khi anh ta đi làm công việc thường lệ trở về. Nhưng khi trận bão chấm dứt vào cuối buổi chiều ngày thứ tư thì cậu đã có thể mang ủng của mình và đi xuống phố.

Thật dễ chịu khi bước ra ngoài trong cái lạnh mới, nhìn ánh nắng và chỉ nghe thấy tiếng gió lùa thẳng sau khi đã nghe quá lâu tiếng bão quay cuồng. Nhưng sức gió vẫn còn đủ mạnh để thổi bay một người và trước khi tới một tòa nhà lớn. Cậu lạnh tới mức mong cho gió thổi mình bay tới ngay cửa hàng Fuller’s.

Tại chỗ đang có một đám đông. Gần như mọi người đàn ông trong thị trấn đều có mặt và đang trò chuyện với vẻ giận dữ căng thẳng.

Almanzo lên tiếng:

- Xin chào. Có chuyện gì đây?

Ông Harthorn xoay quanh cậu:

- Này, cậu đã không hề tính phí tổn chuyên chở cho Loftus. Cap Garland đã nói ở đây, đúng không?

Cap cười với nét mặt rạng rỡ:

- Chào Wilder! Bồ đã bòn rút cho cái tay keo kiệt đó, tại sao lại không lấy tiền ? Tớ đã đủ điên để nói với ông ta là mình chỉ làm một công việc lấy vui. Lúc này, tớ muốn tính tiền ông ta bằng tất cả số ông ta gom được.

Almanzo hỏi :

- Có gì về chuyện đó? Không, tớ không tính một xu nhỏ. Ai bảo mình đi làm chuyện đó để lấy tiền?

Gerald Fuller nói với cậu:

- Loftus định giá ba đô-la một giạ lúa mì bán ra.

Tất cả lại bắt đầu bàn tán, nhưng bố đứng lên trên một chiếc thùng cạnh lò sưởi, cao và ốm. Mặt bố nhăn nhúm, gò má nhô cao trên bộ râu màu hung nhưng cặp mắt xanh lơ sáng quắc. Bố nói:

- Ngồi đây bàn tán thì chẳng đâu tới đâu. Tôi thấy hãy tới phân rõ phải trái với ông Loftus.

Một người khác lớn tiếng:

- Bây giờ còn nói năng gì! Đi tới, các bạn! Mình sẽ tự giải quyết số lúa mì đó.

Bố phản đối:

- Tôi nói là hãy phân phải trái với ông ta. Tôi đang nói về lẽ phải và công bằng.

Một người hô:

- Có lẽ anh phải đó. Nhưng tôi đang nói về cái gì để ăn và theo ý Chúa! Tôi sẽ không trở về gặp con cái tôi mà không có gì. Trong các anh có ai còn gì không ?

Nhiều người đồng tình hô:

- Không! Không!

Lúc đó Cap lên tiếng:

- Wilder và tôi có điều cần nói về chuyện này. Chúng tôi đã mang lúa mì về. Chúng tôi không mang lúa về để gây xáo trộn.

Gerald Fuller nói:

- Đúng vậy đó. Nhìn lại coi, các bạn, mình đâu có muốn gây ra một xáo trộn nào trong thị trấn.

Almanzo nói:

- Tôi không thấy có ý nghĩa gì trong việc tức giận điên cuồng.

Cậu còn toan nói tiếp, nhưng một người cắt ngang hỏi:

- Phải, do cậu còn thừa thãi thức ăn! Cả cậu lẫn ông Fuller. Tôi không về nhà tay không…

Cap cắt lời ông ta:

- Nhà ông còn bao nhiêu thức ăn, ông Ingalls?

Bố trả lời:

- Hết nhẵn rồi. Hôm qua chúng tôi đã nghiền số lúa mì cuối cùng và ăn hết vào sáng nay.

Almanzo nói:

- Các ông thấy đó! Hãy để ông Ingalls lo liệu việc này.

Bố đồng ý:

- Được, tôi xin dẫn đầu. Tất cả các bạn hãy đi theo để thấy Loftus nói sao.

Tất cả đạp trên tuyết bước thẳng hàng một đi theo bố. Khi mọi người bước vào cửa hàng thì ông Loftus lui về đứng sau quầy. Không ai nhìn thấy một hạt lúa nào. Loftus đã chuyển tất cả các bao lúa về phòng sau.

Bố nói với ông ta rằng mọi người nghĩ ông định giá bán quá cao. Loftus nói:

- Đây là chuyện kinh doanh. Tôi có lúa mì, phải không ? Tôi đã phải trả những đồng tiền khó nhọc để có nó.

Bố nói:

- Chúng tôi hiểu, một đô-la hai mươi lăm xu một giạ.

Ông Loftus nhắc lại:

- Đây là chuyện kinh doanh của tôi.

Một người kêu lên giận dữ:

- Tụi tui sẽ chỉ cho ông thấy chuyện kinh doanh đó là gì!

Ông Loftus trả lời:

- Các ông đã đụng chạm quá nhiều đến tài sản của tôi và tôi sẽ nhờ đến luật pháp nói chuyện với các ông.

Một số người bật cười một cách đe dọa. Nhưng Loftus không nhượng bộ. Ông ta đấm tay trên mặt quầy nói với họ:

- Số lúa mì đó là của tôi và tôi có quyền định giá. Tôi muốn như thế.

Bố đồng ý với ông ta:

- Đúng vậy, Loftus, ông có quyền. Đây là xứ sở tự do và mỗi người đều có quyền làm theo ý mình đối với tài sản của mình.

Bố quay về phía đám đông:

- Các bạn biết điều đó là thực tế.

Và bố nói tiếp:

- Nhưng đừng quên mỗi người chúng ta đều tự do và độc lập, Loftus. Mùa đông này sẽ không kéo dài mãi và có lẽ ông vẫn muốn tiếp tục buôn bán khi mùa đông đã qua đi.

Ông Loftus hỏi:

- Ông đe dọa tôi, phải không?

Bố đáp:

- Chuyện đó không cần thiết. Đó là một sự thực hiển nhiên. Nếu ông có quyền làm điều ông thích thì chúng tôi cũng có quyền làm điều chúng tôi thích. Hai phía đều tiến hành được. Lúc này, ông đã làm trước chúng tôi. Đó là việc kinh doanh của ông, như ông nói. Nhưng việc kinh doanh của ông tùy thuộc vào thiện chí của chúng tôi. Lúc này có lẽ ông không nhận ra điều đó, nhưng vào mùa hè tới, ông sẽ nhận ra.

Gerald Fuller nói:

- Đúng thế, Loftus. Anh cần cư xử một cách hiểu biết với mọi người hoặc là anh sẽ không kéo dài được việc buôn bán, không thể buôn bán được ở vùng này.

Người có giọng giận dữ nói:

- Chúng tôi không tới đây để nói bá vơ. Lúa mì đâu?

Ông Harthorn nói:

- Đừng có điên , Loftus.

Bố nói:

- Tiền không ra khỏi túi ông quá một ngày. Và những cậu bé kia không tính ông một xu nhỏ tiền chuyên chở. Hãy tính một mức lời vừa phải và ông sẽ thu tiền về chỉ trong một giờ.

Ông Loftus hỏi:

- Ông nói mức lời vừa phải là gì? Tôi không phải cố sức mua giá hạ và có quyền bán giá cao. Đó là buôn bán tốt.

Gerald Fuller nói:

- Tôi không nghĩ như thế. Buôn bán tốt là đối xử biết điều với mọi người.

Bố nói với Loftus:

- Chúng tôi không phản đối cái giá của ông, nếu Wilder và Garland ở đây đã đòi ông phí tổn chuyên chở xứng với cái công đi mua về.

Ông Loftus hỏi lại:

- Được, sao lại không? Tôi vẫn sẵn sàng trả một phí khoản chuyên chở hợp lí.

Cap Garland lên tuyết. Cậu không cười. Cậu nhìn bằng cái nhìn đã khiến một công nhân đường sắ phải lùi bước.

- Đừng hòng mua chuộc tụi tui bằng những đồng tiền ghê tởm của ông. Wilder và tôi không liều mạng để mưu lời bằng cách lột da những người đang đói ăn.

Almanzo cũng nổi nóng:

- Ông hãy cố ngẩng thẳng đầu lên mà nghe. Không thể nào có đủ tiền để trả cho một chuyến đi như thế. Chúng tôi không làm việc đó cho cá nhân ông và ông không thể trả tiền công chúng tôi về việc đó.

Ông Loftus nhìn từ Cap tới Almanzo rồi qua những khuôn mặt khác ở xung quanh. Tất cả đều tỏ rõ miệt thị ông ta. Ông có vẻ thấm đòn. Rồi ông ta nói:

- Tôi sẽ nói rõ điều mà tôi là, các bạn. Các bạn có thể mua lúa mì với cái giá mà tôi đã mua, một đô-la hai mươi lăm xu một giạ.

- Chúng tôi không phản đối việc ông thu một số lời vừa phải, Loftus.

Bố nói nhưng Loftus lắc đầu:

- Không, tôi bán đúng với cái giá đã mua.

Sự việc bất ngờ đến mức tróng lúc, không ai biết làm thế nào. Rồi bố đề nghị:

- Theo như ông đã nói thì chúng tôi gom hết lại chia tỉ lệ trên căn bản số người trong mỗi gia đình để kéo dài tới mùa xuân.

Tất cả đều theo cách đó. Số lúa có vẻ đủ cho mỗi gia đình kéo dài từ tám đến mười tuần. Một vài người còn có khoai tây và một số người còn có cả bánh qui. Một số người vẫn còn đường mía. Những người đó sẽ mua ít hơn. Almanzo không mua gì. Cap Garland mua nửa giạ còn bố mua một bao hai giạ.

Almanzo nhận thấy cậu đã không xốc nó lên vai như một người thường làm.

- Nó đúng là một gánh nặng để mang trên tay.

Almanzo tự nhủ và nhấc người lên đung đưa. Cậu đã mang nó qua phố vì trách nhiệm, nhưng một người không thích nhìn nhận rằng mình không thể mang nổi một trăm hai mươi lăm pao.

Rồi Almanzo nói với Cap:

- Tớ cá một điều xì-gà là sẽ đánh bại bồ trong một ván cờ.

Và cả hai cùng đi tới cửa hàng tạp phẩm. Bố đang bước vào nhà khi các cậu đi ngang qua trong lớp tuyết bay theo gió.

Laura nghe thấy tiếng cửa trước mở và đóng lại. Tất cả vẫn ngồi trong bóng tối và như một giấc mơ, mọi người nghe tiếng chân bố bước nặng nề dọc theo phòng trước rồi cửa bếp bật mở. Bố liệng cái khối nặng nề xuống nền nhà mạnh đến nỗi nền nhà như đau đớn nảy lên. Rồi bố đóng cửa bếp để chặn hơi lạnh ùa theo bố. Bố nói trong lúc thở khó khăn:

- Mấy cậu bé đã về rồi. Đây là một phần trong số lúa mì các cậu ấy đã mang về, Caroline.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play