Hùng vội bịt miệng Thông lại từ phía sau, kéo anh nằm rạp xuống, ra dấu im lặng và anh chỉ tay lên nóc nhà ý nói chú ý bên trên hơn. Lúc này, Thông mới hiểu, cả tòa chánh điện này đang bị vật gì đó “bao phủ”, tiếng phì phó như nó đang thở vang động khắp nơi, có vẻ như xuất phát từ trên nóc, cho nên Thông có cảm giác nó thật gần là vì lẽ đó.

Lúc chiều Hùng đã dặn kỹ Thông về việc giữ im lặng. Lý do thì Thông phần nào hiểu được, quan niệm của người xưa khi gặp ma quỷ không được hét lên vì một là làm cho hồn phách bản thân bị dao động hai là tạo đường cho ma quỷ nhập tâm, vì người xưa nghĩ ma nhập vào người bằng cách qua đường miệng vào tim, từ đó chiếm thân xác. Còn thực ra trong giới “trồng lan” như hai người, không hét lên chỉ để bình tĩnh giải quyết vấn đề, tránh làm lộ địa điểm mà thôi, vì chuyện giành ngọc mà hạ thủ nhau cũng không phải hiếm. Nhưng lúc nãy khi Thông định hét lên, may mà Hùng bịt miệng Thông kịp lúc, không thì con quỷ bên ngoài bị kích động, có khi nó xổ vào thì chết cả nút! Thông trấn tĩnh lại, tay mò cây dao găm để dưới gối. Lúc này Hùng đã tỏ ra sẵn sàng chống trả bất cứ thế lực gì nhảy xổ vào hai người họ. 



Hùng bình thường là người ít nói, kể cả với bạn thân thì anh cũng rất kiệm lời, con người đó luôn làm cho ta yên tâm trong những lúc cấp bách, chính điểm đó làm Thông luôn kính nể Hùng như một người anh cả. Lúc này trước mắt anh không còn là người ít nói trầm lặng mà chính xác là một vị tướng soái sắp ra trận. Hông Hùng đeo một túi da nhỏ, bên trong là một vài dụng cụ đục đẽo, từ lúc nào cuộn dây thừng đã được khoác lên vai và tay thì đã cầm sẵn con dao găm. Thông lúc này đã bình tĩnh hơn, cũng chuẩn bị sẵn vật dụng quan trọng đem theo bên người, Hùng ra dấu bảo Thông lấy sợi dây đá mắt hổ ra đeo để tăng dương khí. 



Tòa chánh điện cứ chốc chốc lại kêu lên răng rắc, tiếng cào cửa vang lên ngày một lớn. Để ý kỹ vẫn nghe thấy tiếng mưa và gió, nhưng có vẻ như nó bị ngăn cách bởi một vật thể đang bao trùm tòa điện. Hùng chau mày, thứ quái nào có thể làm được chuỵên này. Hiện giờ không thể cứ ở mãi trong này được, suy đi tính lại cũng phải tìm đường ra ngoài, ít nhất để biết được thứ gì đang chầu chực sau cánh cửa. Việc đó dĩ nhiên hết sức nguy hiểm và thực tế thì Hùng chưa từng đối mặt với thế lực tâm linh nào ngoài mấy con ma vú dài hay ma trơi thường hù dọa nơi làng xa xôi hẻo lánh. Hùng và Thông dựa lưng nhau, nhất thời chưa có giải pháp thì bỗng nhiên tiếng kêu bên ngoài im bặt, kèm cả tiếng thở phì phò cũng đi đâu mất, tựa như cái thứ gì đang quấn chặt tòa chánh điện đang nhả nhẹ ra để nhử hai con mồi vậy. Tuy nhiên, tiếng thở vừa dứt, bên ngoài lại vang lên tiếng cười re ré của con nít. Hùng nghĩ phen này xong rồi, thà nghe ma khóc còn hơn gặp quỷ cười. Nửa đêm đi đường vắng thường sẽ nghe tiếng khóc, đó là ma. Ma thì thường hiện ra ở một điểm cụ thể, dụ người lại gần rồi doạ người ta sợ, hút bớt dương khí của họ để không bị vào cõi không được siêu thoát, hồn bay phách tán. Còn đi đêm gặp quỷ, chỉ nghe có tiếng cười, không biết từ đâu tới, cứ âm vang trong đầu ta, đó là quỷ ám tâm trí làm ta hoảng sợ, nó ăn luôn cả phần hồn phách ta trong chính ta chứ không như lũ ma vất vưởng. Tiếng cười vang lên càng lúc càng nhiều, ở khắp mọi nơi, từ trên nóc lẫn trước cửa...và ngay sau lưng Hùng. 



Cả hai đâu lưng nhau, quay mặt sang hai bên trái phải của chánh điện, phía sau là bức tượng Phật nơi vừa phát ra tiếng cười the thé dễ sợ. Hùng vội lia đèn pin sang, tiếng cười vẫn tuôn ra một tràng không dứt, đèn chiếu đến vai của bức tượng thì thấy một con mèo, chính xác là con mèo đang quay đầu nó ra sau… Tiếng cười vẫn còn và cả hai đều biết con mèo là nơi tiếng cười phát ra âm thanh kinh dị đó. Đèn không đủ sáng để chiếu được cả thân hình nó, cái đầu bị che khuất, và hình như nó to lù lù. Đột nhiên nó quay ngoắt đầu lại, mặc dù cả hai đã cố sức bình tĩnh và tưởng tượng ra những thứ kinh khủng để chuẩn bị nhưng vẫn bị sốc trước cái cảnh gớm ghiếc họ đang nhìn. Nơi đáng ra là cái đầu con mèo thì lại là một cái đầu con nít cỡ bốn năm tuổi, phần cổ được may lại bằng chỉ đen rất bầy nhầy, cái đầu trọc lốc, hai mắt trắng dã như chính làn da của nó, miệng không thấy răng nhưng lại đỏ ối màu máu, máu từ đó cứ rỉ xuống từng giọt từng giọt. Từ trên vai bức tượng, con mèo… hay cái thứ quái vật đó phóng xuống một cách nhẹ nhàng và ngay sát chân của hai người họ.



Sát bên! Nó ngẩng cái đầu bầy nhầy và kinh tởm đó, cùng đôi mắt ghê người và nụ cười tà ma, dồn họ lui lại cửa chính! Một làn âm phong thổi thốc tới từ cửa chính, cả hai nhanh chóng đổi thế thủ, Thông đối diện với con quái vừa phóng xuống, đâu lưng với Hùng nhìn ra cửa. Trước mặt Hùng là cả bầy những cái đầu bầy nhầy đặt trên mình mèo đang đứng đầy ngoài sân, bám trên các cột, trên mái… cả trăm con quái vật như thế cùng cười rúc rích làm Hùng chẳng thể nào bình tâm nổi nữa, lưng anh ướt đẫm mồ hôi và anh biết Thông cũng đang chịu áp lực tương tự. Không biết có phải do không khí quá căng thẳng mà Hùng bị ảo giác hay không, dưới ánh đèn chập chờn, anh thấy những bức bích hoạ trên tường như quay mặt sang nhìn hai người bọn anh với những ánh mắt vô hồn, gương mặt không có chút cảm xúc, những bức vẽ hình quỷ mặt xanh đỏ đang nhe nanh như muốn chui ra khỏi bức tường để đến mà moi gan mổ bụng họ. Hùng khô cả họng. 

Đột nhiên, cả đám quái vật ấy bỗng rú lên lộ vẽ khá kinh hãi, chúng ngoác cái miệng ra rộng hoác, lởm chởm đầy nanh nhỏ và máu tanh, rồi quay đầu biết mất. Mọi việc xảy ra hết sức nhanh làm hai người họ không hiểu được đang xảy ra điều gì. Lúc này, vị sãi trẻ tuổi mới từ cửa chính bước vào, trên tay anh ta cầm một bát tro, lưng buộc theo một con dao đi rừng và một cái hộp gỗ, tay còn lại cầm một bó nhang lớn. Anh đi chậm rãi vừa đi vừa tụng niệm gì đó. Anh ta cắm nhang vào hai bên cửa chính, tay vẫn cầm bát tro đến trước mặt Hùng và Thông, hai người họ giờ vẫn còn thở dốc, tim đập loạn xạ nhưng mặt cắt không còn hột máu! 

Vị sãi hỏi Hùng: “Anh định tìm mộ tiên cá đúng không?”

Hùng lúc này bình tĩnh hơn chút, đáp: “Đúng vậy, tôi cũng không giấu, chúng tôi muốn tìm cọc kỳ nam chôn chung với nó!”. Vị sãi kia nói tiếp, giọng pha chút thất vọng: “làm gì còn cái mộ ấy nữa!”

Rồi anh ta đưa bát tro cho hai người, bão họ lấy một ít thoa vào mặt, anh ta sẽ giúp hai người tìm được khúc kỳ nam, tuy nhiên hai người họ phải giúp anh một chuyện, nhưng trước tiên, anh ấy kể lại căn nguyên mà có cái “Miểu Biết Hát” ma quỷ như vậy ở đây.

Anh ta tên Thạch Sinh, bố là người Khmer, mẹ là người Hoa di cư từ Chợ Lớn vào An Giang này. Năm mười ba tuổi đã đi theo thầy làm nghề “đập miểu” - tiếng lóng của dân trong nghề, gọi nôm na là đi trừ tà, diệt ma. Người sư phụ anh ta theo học họ Lý, cũng là gốc Hoa. Tuy nhiên, khi đến chùa này, cũng vì muốn tìm mộ tiên cá mà thầy anh ta mất mạng, do không ngờ trước được vốn dĩ dưới tháp mộ đó không phải chôn tiên cá, mà là ác linh kumanthong! Quay trở lại câu chuyện Võ Kỳ Hưng diệt quái tích Tà Pạ, quả là Quan trấn họ Lý có làm một ngôi mộ trấn yểm con quái kia, tuy nhiên vị trí chính xác của ngôi mộ ấy trong khu vực nào của đồi Tà Pạ không ai biết, qua nhiều lần loạn lạc, người xưa đã hoá thiên cổ, càng không đối chứng được. Tuy nhiên, trước khi có sự tích kia, vào thời kỳ Tây Sơn ở Việt Nam, sau nhiều trận đánh thua liên tiếp, thế lực Nguyễn Ánh rút dần về phía biển, tìm đường qua Xiêm. Lúc còn ở An Giang, có một viên tướng dưới trướng Nguyễn Ánh, tên là Trần Đương, nghe kể có lần ông định vượt sông, thì thấy một ông lão đang sắp đuối nước giữa dòng. Thấy vậy Trần Đương cho người vớt ông lão vào bờ, ông ta khư khư ôm một cái túi, bên trong là xác bốn đứa bé chừng năm tuổi đã co quắp lại. Thì ra đó là ông thầy luyện kumanthong, bị triều đình Chân Lạp truy sát thì ngã khỏi thuyền. Ông ta mới tâu lên Đương rằng, để trả ơn cứu mạng này, ông ta sẽ tạo cho ngài một lukkros - chính là bốn con kumanthong còn gọi là “Ma Con” trong thời gian ngài ở tại đây, bốn con này sẽ bảo vệ ông ta khỏi quân Tây Sơn. Bốn con đó là Phet Phum Ngan, Phet Sun, Phet Kong Độ, Phet Đặp. Để luyện được loại này phải hết sức tàn độc, móc mắt cắt lưỡi đứa trẻ rồi đổ thuỷ ngân vào khi nó còn giãy. Quả nhiên thời gian ẩn trốn tại vùng An Giang rất an toàn, bọn ma con kia hết sức tàn độc, nhờ vậy mà quân Tây Sơn không lần ra được tung tích. Tuy nhiên, sau đó nhận thấy thời cơ hợp quân với Nguyễn Ánh lúc đó ở Xiêm La, Trần Đương tìm đường ra biển để đến Xiêm. Lúc này không thể đem bọn ma con theo được, Xiêm cũng là vùng đất nhiều bùa ngãi, dân luyện kumanthong không ít, làm như vậy sẽ bị vua Xiêm nghi kỵ, tuy nhiên để lại cũng không yên, Đương ra lệnh hạ sát ông lão, mặc dù ma con lão luyện ra rất mạnh, nhưng trong lĩnh vực này không có hai chữ “giỏi nhất”, tìm được người cao tay hơn lão cũng không khó! Sau khi giết được lão, họ chôn chung với bốn con ma con, xác mèo, máu chó mực, máu gà, rồi nguỵ trang như một tháp mộ bình thường. Tuy nhiên oán giận của bọn ma con còn quá lớn, không có chủ quản nên tha hồ phá phách. Đợt ấy, vùng có một con hổ, do sinh sống gần bọn ma con nên càng ngày càng khát máu hơn, tàn sát sinh linh vô số. Hôm nọ trời đổ mưa lớn, con hổ bị sét đánh liền ba cái nên chết. Gần đấy có con tích lĩnh, vốn cũng chịu tà khí oán độc từ vùng đất này nên thường ưa ăn thịt hơn ăn cỏ cây, nó vô tình ăn phải khúc xương thừa Hổ Tuỷ từ xác con hổ, rồi lại nhờ đó mà hoá khổng lồ.

Kế sách trấn yểm của Kỳ Hưng bày cho quan trấn, vốn dĩ là muốn khắc chế bọn ma con, anh ta cảm nhận rõ ràng oán khí tuy nhiên trừ ma không phải là sở trường cho nên y đành trấn tạm ở đó, đợi ngày tìm được người đủ khả năng thì trừ hẳn. Tuy nhiên sau lần đó chẳng thấy anh ta quay lại, dân làng loạn lạc cũng ra đi tứ xứ hết, về phần vị quan trấn, nghe đồn đã về vùng sông Hậu mở làng lập ấp mới khi từ quan. Sau đó ngôi chùa mọc lên, vốn dĩ các sư sãi ở đây cũng biết mối nguy hại đó nên vẫn thường tụng niệm để áp chế phần nào quỷ khí tà ma. Tuy nhiên thời gian vẫn trôi, không ai trừ được cái mối hoạ ghê gớm này. Lần đó, Lý sư phụ, thầy của Thạch Sinh cũng vì tưởng lầm tháp mộ đó có xác tiên cá nên đã bị Phet Đặp - con ma con ác nhất, vật chết, cũng may trước khi ông ấy quy tiên cũng đã kịp bắt ấn, niệm chú, trấn bùa vào cái tháp mộ đó, khiến cho bọn ma con chỉ còn vài phần công lực. Đau buồn trước sự ra đi của sư phụ, Sinh quyết định tu tại chùa, vừa tu tập vừa nâng đạo hạnh, đợi ngày trả thù cho thầy. Các vị sư sãi trong chùa cũng hiểu điều đó, giúp đỡ Sinh rất nhiều, sáu vị sư huynh đồng tu trong các lần cố gắng trừ cũng bị vật chết. Đó là những gì xảy ra đầu những năm 2000.

Sau khi kể xong, Thạch Sinh ngồi im lặng, nhìn Hùng và Thông như mong đợi một câu hỏi gì đó. 

Hùng nói: “Vô đề chính luôn đi, anh cần bọn tôi giúp chyện gì?”

Sinh lạnh lùng đáp: “Trừ kumanthong với tôi!”

Hai người ngơ ngác, Thông nói thẳng: “Đại ca, hồi nãy đại cứu bọn em, ơn đó em không bao giờ quên, nhưng đi vào chỗ chết để trả ơn đại ca thì cho em xin khất qua kiếp sau!”

Hùng thì từ tốn hơn, anh hỏi lại: “Kumanthong đâu thể nói trừ là trừ được, anh với các sư huynh anh còn không đủ mạng cho nó vật, huống gì hai chúng tôi không có kinh nghiệm, bọn vong mèo hồi nãy còn lo chưa xong, làm sao trừ kumanthong tiếp anh được!”.

Thạch Sinh không hề tỏ vẻ chán nản, diễn giải ý định rõ ra cho bọn Hùng Thông: “Các anh hiểu lầm rồi, việc trừ kumanthong trong mộ thì chính tôi sẽ làm, tuy nhiên trong lúc tôi làm phép trong ấy, các anh bảo vệ tôi khỏi lũ quái bên ngoài! Bát tro đó chính là tro xá lợi, thoa vào má thì không còn bị ác linh quấy nhiễu, khi nãy nó tạo ảo giác hù doạ các anh mà thôi. Đúng là ở đây có nhiều miểu biết hát, tuy nhiên bọn nó không dám mò đến chính điện này! Các anh dùng tro này nhuốm máu, thoa lên lưỡi dao thì dù quỷ có hiện ra anh cũng chặt nó thành năm khúc cũng được! Các anh bảo vệ tôi khi tôi vào trong, trừ kumanthong rồi các anh mới lấy cọc kỳ nam được!”

Hùng và Thông thoáng nhìn nhau, tác dụng của loại tro này thì hai người đã thấy rồi, nhiệm vụ canh gác cùng lắm nếu Thạch Sinh có chết trong mộ, họ vẫn có thể bỏ chạy, còn nếu không chung xuồng với Thạch Sinh, e là khúc kỳ nam kia chắc đến chết họ chưa lấy được. 

Thông tỏ vẻ đồng ý, tuy nhiên Hùng xác nhận lại: “Làm sao anh chắc dưới đó có cọc kỳ nam?”

“Vì sư phụ tôi lấy lên rồi!” - vừa nói Sinh vừa mở chiếc hộp đem theo bên mình. 

Bên trong chiếc hộp gỗ đó đích thực là một khối kỳ nam hình dạng như một viên đạn, một đầu nhọn, đầu kia loe to ra, dài chừng ba tấc, cầm gọn trong tay, khối kỳ nam ánh lên vân màu đen tuyền, chính giữa tạc hình Phật toạ thiền, xung quanh Đức Phật chạm khắc các hộ pháp, La Hán đang đức chầu, nhìn hết sức tinh vi, lộ lên vẻ uy nghiêm thần thánh! Hùng lờ mờ hiểu ra, cọc kỳ nam này có tác dụng như cái then cài, nhốt bọn kumanthong ở dưới, nhưng Lý sư phụ nhầm mộ nên đã lấy cọc ra, làm bọn ma con lộng hành, giờ không thể ghim cây cọc vào nữa, chỉ còn cách quyết diệt một lần cho xong. Thạch Sinh đưa hẳn chiếc hộp và khúc kỳ nam cho Hùng rồi nói: “tôi tin anh sẽ giữ lời bảo vệ tôi, nếu tôi không xong, hai người hãy chạy thật xa là xong, phần này anh cứ nhận trước!”. Hùng tật ngạc nhiên, khúc kỳ nam này gần như vô giá, buồn miệng đưa ra bao nhiêu giá cũng được, ậy mà anh ta đưa Hùng như không, Hùng cũng cảm nhận được niềm tin của Sinh là anh sẽ không bỏ trốn cùng với khúc kỳ nam mà bỏ mặc mình. 



Hùng và Thông đồng ý, chuẩn bị đủ đồ cần thiết, cả ba lập tức rời chánh điện, trở lại khu nghĩa địa. Lúc này là 11h đêm, Sinh bảo nếu thuận lợi có thể xong trước 3h sáng. Lý do không thể làm việc này ban ngày được là vì vốn dĩ kumanthong không sợ ban ngày, mà phép trừ bọn nó dùng nhiều dương khí, ban ngày khí dương lại nhiều, dễ dẫn đến người làm phép bị càn hỏa nhập tâm thiêu đốt hồn phách mà chết, nên chỉ làm ban đêm để nhờ âm khí ban đêm cân bằng với dương khí bộc phát, như vậy mới đảm bảo được tính mạng, tuy là làm ban đêm thì ma quỷ dễ quấy nhiễu. Chính vì vậy, khi biết bọn Thông Hùng cũng có chút khí phách, Sinh quyết định trong đêm nay phải giải quyết xong mọi chuỵên. Đường ra khu nghĩa địa ban đêm khỏi phải bàn về độ âm u ma quái. Dưới đất lớp sương dày trắng đục bao phủ, trên đầu thì chỉ một màu đen, thỉnh thoảng có tiếng gì đấy đu trên cành cây phát ra âm thanh hết sức quái dị. Ba người lặng lẽ luồn cây mà đi, không ai nói với ai câu gì, ánh sáng của hai cái đèn pin mà Hùng và Thông cầm theo chỉ sáng đủ chừng mười bước chân, còn lại thi màn đêm nuốt chửng tất cả. Thạch Sinh cầm theo cái đèn bão leo lét. Dọc đường đi, khi băng qua các mộ tháp, Thông giật thót mấy phen khi cảm giác được các hình tượng thần Brahman bốn mặt tạc trên mộ dường như hiện lên một khuôn mặt gầy gò trắng bệch, hai mắt trợn trắng nhưng làm cho người ta cái cảm giác nó đang dõi theo từng bước chân. Thông ra dấu cho Hùng, anh cũng ra dấu lại là anh cũng thấy vậy, nhưng hãy im lặng mà đi tiếp! Có lúc đi ngang những ngôi mộ bằng, cỏ thấp che khuất từ ống quyển trở xuống, nhưng Thông chắc chắn rằng có cái gì đó như bàn tay, lạnh ngắt, thò ra từ bia mộ bám vào chân anh rồi kéo nhẹ. Ban đêm đường hơi khó đi, cho nên mất chừng hai mươi phút, cả bọn mới dừng trước con dốc “âm”, bên cạnh nó là chóp của cái mộ tháp vỡ một góc để lộ không gian tối đen sâu thẳm bên trong. 



Sinh xé một mảnh vải từ cà sa, quấn vào hai cây củi khô, lấy bùa kẹp giữa rồi dùng lửa của đèn bão anh đem theo đốt thành hai cây đuốc. Ánh sáng từ đuốc không phải màu vàng như lửa thường, ánh lửa này màu xanh lơ, chiếu sáng một màu ma quái lên khu mộ tháp. Sinh chỉ vào hai cây đuốc rồi nói:

“Cây bên trái là của tôi, cây bên phải là hai anh, nếu cây của tôi tắt lửa thì hai anh nên bỏ chạy ngay…”

“Vậy cây bên phải tắt thì sao?”-Thông hỏi lại.

Sinh nhìn hai người giây lát rồi nói: “Lúc đó chắc trời mà cứu được hai người!”

Giọng nói lạnh lùng lấp lửng làm Thông thấy hết sức khó chịu. Hùng giục Sinh tiến hành nhanh thôi, Sinh bảo anh ta cần khoảng một giờ. Trong một giờ đó, Hùng và Thông tuyệt đối không đi xa ánh lửa, không ngủ gục, không hét lên. Bọn Hùng gật đầu ra dấu đã hiểu. Sinh lấy trong hộp ra một sợi dây đỏ có vật gì đó như móng hổ quấn quanh bằng bùa rồi lấy dao rạch lòng bàn tay một đường nhỏ, sau đó thoa lên hình xăm Phục Ma Chú, kỳ lạ là hình xăm vừa gặp máu bỗng tươi mới hơn, chuyển dần sang màu đỏ rực. Trước khi chui vào cái lỗ hổng tối đen ấy, Sinh quay sang nhắc bọn Hùng lần cuối: “Đuốc bên trái tắt thì chạy đi ngay!” Thông nghĩ thầm trong bụng: “Không đợi ông nhắc đâu, làm như bọn tôi xuống đó cứu ông được vậy!” Dứt lời, Sinh chui tọt vào. Không gian im lặng đến đáng sợ. 



Hùng ra dấu cho Thông tập trung, thủ sẵn dao và nhớ để ý cây đuốc của họ. Khoảng vài phút trôi qua, khu rừng lặng gió, tĩnh mịch lạ thường, hai cây đuốc vẫn đều đều chiếu sáng một màu ma quái. Cả hai người thần kinh đến giờ mới giãn giãn ra được một chút, Thông quay sang đưa gói thuốc cho Hùng, cả hai kéo một hơi đầy sảng khoái, Hùng nghĩ anh và Thông lo lắng quá, trong tay có bát tro xá lợi, còn mang thêm dao phép, chắc chỉ có quỷ chúa mới làm hại họ được. Đang hút dở điếu, Hùng nghe tiếng sột soạt phía sau lưng Thông, cả hai tập trung tinh thần cảnh giác, anh lia đèn pin về hướng đấy, vẫn là cánh rừng bình thường…ngọai trừ hai cây khô đứng song song! Lúc nãy anh không thấy hai cái cây đấy. Càng nhìn, Hùng càng thấy nó giống cái chân. Anh nghĩ người nào có cặp chân này chắc phải cao đến sáu bảy mét. Rồi anh soi lên cao. Có một khúc gập giống đầu gối nhưng bẻ ngược về phía trước. Rồi anh soi theo hướng đầu gối, nó rất dài, một vậy gì đó nhăn nheo, khô khốc đang phát ra tiếng rên nho nhỏ phía sau bụi cây mà cặp chân dài, khô và nhăn nheo của nó thì bị bẻ ngược về trước. Lúc này Thông lắp bắp kế bên:

“Cây đuốc bên phải tắt rồi!”

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play