Bên dưới những gốc cây, vài kỵ sĩ đã tìm đủ lá và cành cây khô để nhóm lửa cạnh những tảng đá bên sườn núi. Những người khác thì dựng lều hoặc treo áo choàng qua những cành cây thấp. Giant chui ngay vào lỗ trống trong cây sồi đã chết. “Đại nhân Snow, thích lâu đài của tôi không?”
“Trông ấm áp quá. Cậu biết Sam ở đâu không?”
“Tiếp tục đi theo hướng này. Nếu đi đến tận lều của hiệp sĩ Ottyn thì cậu đã đi quá xa,” Giant mỉm cười. “Trừ khi Sam cũng tìm được một cái cây như thế. Có nhiều cây ở đây lắm.”
Cuối cùng thì Ghost mới là kẻ tìm thấy Sam. Con sói vương lao đầu về phía trước như một mũi tên. Dưới một phiến đá nổi bần bật có tác dụng như một mái che mưa, Sam đang cho những con quạ ăn. Mỗi bước hắn đi giày đều phát ra tiếng kẽo kẹt âm hưởng. “Chân tôi ướt hết rồi,” hắn buồn bã, “khi xuống ngựa, tôi bước phải cái hố và nước ngập đến đầu gối.”
“Cởi giày ra và phơi tất đi. Tôi sẽ tìm củi khô. Nếu đất dưới đá không quá ẩm ướt thì chúng ta có thể nhóm lửa,” Jon đưa con thỏ cho Sam, “và chúng ta sẽ có một bữa ăn ngon.”
“Cậu không phải đến căn phòng đó cùng với đại nhân Mormont sao?”
“Không, nhưng cậu sẽ đến. Old Bear muốn cậu vẽ bản đồ cho ông ấy. Craster nói lão sẽ giúp chúng ta tìm Mance Rayder.”
“Ồ”, Sam không có vẻ gì hào hứng khi được gặp Craster dù điều có nghĩa là được ngồi bên ngọn lửa ấm áp.
“Ông nói là cứ ăn trước đi. Cậu cũng làm khô chân nữa,” Jon đi thu thập vật liệu đốt, nhặt những cành cây khô. Dù lựa chọn cẩn thận nhưng hắn vẫn phải mất thời gian khá lâu mới thấy có tia lửa xuất hiện. Hắn cởi chiếc áo choàng phơi lên tảng đá để ưa không hắt vào đống lửa, cuối cùng hắn cũng tạo cho hai người một khoảng trời ấm áp.
Khi hắn quỳ xuống làm thịt con thỏ thì Sam cởi giày ra hong khô. “Tôi nghĩ rêu đang mọc giữa ngón chân,” hắn di di đầu ngón chân và buồn bã thông báo, “con thỏ đó chắc chắn là ngon đấy. Giờ thì tôi chẳng còn sợ máu hay những thứ như vậy nữa,” hắn nhìn về phía xa. “À, chỉ còn sợ chút xíu…”
Jon xiên con thỏ rồi đặt nó lên bếp nướng. Con thỏ tuy bé nhỏ nhưng khi nấu chín nó có vị như một bữa tiệc hoàng gia. Những kỵ sĩ khác nhìn bọn chúng đầy ghen tị. Ngay cả Ghost cũng nhìn nó đầy đói khát, ánh lửa lóe lên trong đôi mắt màu đỏ của nó khi nó hít hít. “Mày đã ăn trước rồi mà,” Jon nhắc nó.
“Craster có độc ác như lời các kỵ sĩ không?” Sam hỏi. Con thỏ đã nướng gần chín nhưng mùi thơm bay ra thật tuyệt vời. “Lâu đài của ông ta thế nào?”
“Có một nóc nhà và một đống lửa giữa nhà,” Jon kể với Sam những gì hắn thấy và nghe trong lâu đài của Craster.
Khi câu chuyện kết thúc thì trời đã hoàn toàn tối và Sam đang liếm ngón tay. “Thịt thỏ thật ngon, nhưng giờ tôi muốn ăn chân cừu. Toàn bộ chân cừu, chỉ để cho tôi ăn, chấm nước sốt vị bạc hà và mật ong, có cả mùi đinh hương. Cậu có nhìn thấy cừu ở đây không?”
“Có chuồng cừu, nhưng không có cừu không đó.”
“Lão ta làm thế nào để nuôi quân của mình nhỉ?”
“Tôi không thấy có bất cứ người hầu hay quân nào của lão, chỉ có Craster và các bà vợ cùng một đứa con gái nhỏ. Tôi tự hỏi lão làm sao để giữ được nơi này. Cơ sở phòng vệ của lão chẳng có gì đáng nói, chỉ có có một bờ kè dựng lên bằng bùn. Được rồi, cậu nên đi đến căn nhà đó và vẽ bàn đồ đi. Mà cậu có thể tìm được đường không?”
“Có thể, nếu không bị ngã vào vũng bùn,” Sam đi lại đôi giày, thu thập giấy da và lông ngỗng rồi lao vào màn đêm, mưa phe phẩy trên chiếc áo choàng và chiếc mũ mềm của hắn.
Ghost cuộn tròn gác đầu lên chân mình và đi vào giấc ngủ bên ngọn lửa. Jon duỗi người nằm cạnh nó, vui vẻ tận hưởng sự ấm áp. Hắn vẫn còn lạnh và ướt nhưng giờ đã tốt hơn nhiều. Có lẽ đêm nay Old Bear sẽ biết được điều gì đó dẫn chúng ta tìm được Chú Benjen.
Khi tỉnh dậy, hắn thấy mình đang hít thở không khí lạnh lẽo của buổi sáng sớm. Vừa mới cử động đã thấy xương đau nhức. Ghost đã rời đi và lửa đã tàn. Jon vương sang bên cạnh lấy chiếc áo khoác treo ngoài tảng đá nhưng thấy nó vừa cứng vừa lạnh. Hắn trèo ra ngoài, đứng trước khu rừng tựa như pha lê. Ánh sáng màu hồng nhạt chiếu trên những cành cây, lá và đá. Mọi nhánh cỏ đều như được khắc từ ngọc bích, mỗi hạt nước như chuyển thành kim cương. Hoa và nấm như đang được mặc chiếc áo khoác bằng kính. Ngay cả bùn cũng chuyển sang màu nâu sáng. Trong màu xanh lấp lánh của rừng, những chiếc lều đen của các huynh đệ vẫn được bao bọc bởi tác phẩm điêu khắc bằng băng hoàn hảo.
Vậy là có phép màu ngoài Tường Thành. Hắn vô tình nhớ đến các chị em gái của mình, có lẽ vì hắn đã mơ thấy họ đêm qua. Sansa sẽ gọi điều này là phép màu, và những giọt nước mắt sẽ tràn đầy lên mắt cô bé, nhưng Sansa thì sẽ bật cười to, hét lên, rồi chạy đi như muốn chạm vào nó.
“Đại nhân Snow?” hắn nghe thấy tiếng gọi, mềm mại và nhẹ nhàng, và hắn quay lại.
Ngồi trên tảng đá che chở cho hắn suốt đêm qua là cô gái chăn thỏ, bọc trong chiếc áo choàng đen rộng như thể nó đang nuốt chửng lấy cô. Jon nhận ra ngay lập tức đó là chiếc áo choàng của Sam. Tại sao cô ta đang mặc chiếc áo choàng của Sam?
“Đại nhân, cậu béo đó nói rằng tôi có thể tìm thấy ngài ở đây,” cô gái nói.
“Chúng tôi đã ăn con thỏ, nếu đó là điều dẫn cô đến đây,” thừa nhận sự thực khiến hắn thực sự cảm thấy tội lỗi.
“Vị đại nhân Quạ, với con chim nói liên tục kia, đã đưa cho Craster một cây nỏ đáng giá hàng trăm con thỏ.” Cô gái lấy tay cuốn chặt quanh chiếc bụng hở. “Ngài là anh trai của đức vua? Điều đó có thật không?”
“Anh trai cùng Cha khác mẹ,” hắn thừa nhận. “Tôi là đứa con tư sinh của Ned Stark. Em trai Robb của tôi là Vua của Phương Bắc. Sao cô lại ở đây?”
“Cậu béo đó, người tên Sam, bảo tôi đến tìm ngài. Hắn đưa tôi áo choàng của mình để tránh mọi người phát hiện.”
“Craster sẽ không giận cô chứ?”
“Cha tôi uống quá nhiều rượu của Lord Crow đêm qua. Ông ta sẽ ngủ cả ngày hôm nay.” Hơi thở dồn dập của cô gái biến thành sương khi ra khỏi không khí. “Người ta nói đức vua sẽ chủ trì công bằng và bảo vệ kẻ yếu,” cô vừa nói vừa bắt đầu trèo xuống tảng đá. Mặt đá trơn trượt khiến cô gần như trượt ngã, may mắn Jon bắt được cô trước khi cô ngã xuống, và giúp cô trèo xuống an toàn. Cô gái quỳ xuống mặt đất lạnh cóng. “Đại nhân, tôi van ngài…”
“Đừng van tôi làm cái gì. Hãy quay lại căn nhà, cô không nên ở đây. Chúng tôi được lệnh không nói chuyện với những phụ nữ của Craster.”
“Ngài không phải nói bất cứ điều gì với tôi, đại nhân.
Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Chỉ cần mang tôi đi theo ngài, khi ngài rời đây. Đó là tất cả những gì tôi cần.”
Chỉ cần van xin ta vậy thôi ư, hắn thầm nghĩ, cứ như điều đó dễ dàng lắm ấy.
“Tôi sẽ… tôi sẽ là vợ ngài, nếu ngài thích. Cha tôi, ông ấy đã có mười chín người vợ rồi. Thiếu một người cũng sẽ không khiến ông ấy làm sao cả.”
“Các huynh đệ áo đen đã thề không bao giờ lấy vợ, cô không biết điều đó sao? Và nói gì thì nói chúng tôi là khách trong nhà của Cha cô.”
“Không phải ngài,” cô nói. “Tôi đã quan sát. Ngài chưa từng ăn gì của ông ấy, không ngủ bên đống lửa của ông ấy. Ông ấy không hề cho ngài hưởng quyền lợi của một vị khách, vì vậy ngài cũng không có bất kỳ nghĩa vụ gì với ông ấy. Vì đứa con này, tôi nhất định phải đi.”
“Tôi thậm chí chưa hề biết tên cô.”
“Gilly. Ông ấy gọi tôi như thế. Có nghĩa là hoa đinh hương.”
“Tên thật đẹp.” Hắn nhớ Sansa có lần khuyên rằng hắn nên nói câu đó bất cứ khi nào phụ nữ nói cho hắn tên của mình. Hắn không thể giúp gì được cô, nhưng có lẽ lời khen sẽ khiến cô vui hơn. “Gilly, Craster đã khiến cô sợ sao?”
“Không phải tôi, là đứa bé. Nếu là con gái thì không quá sợ. Nó sẽ trưởng thành và ông ấy sẽ cưới nó. Nhưng Nella nói nó có thể là con trai, bà ấy đã sinh sáu đứa con và biết những chuyện này. Ông ấy sẽ hiến những đứa con trai cho các chư thần. Lúc vị thần lạnh màu trắng đến thì ông ấy sẽ ra tay, và gần đây thần đó đến càng lúc càng thường xuyên hơn. Đó là lý do vì sao ông ấy bắt đầu hiến cừu, dù ông ấy thích vị thịt đó. Giờ thì cừu cũng hết, tiếp theo sẽ là chó… cô hạ ánh mắt và ôm chặt bụng hơn.
“Các chư thần nào?” Jon chợt nhớ ra họ không hề nhìn thấy bất kỳ thằng bé nào trong lâu đài của Craster, lính cũng không có, chỉ duy nhất Craster.
“Thần băng giá,” cô nói. “Người đến trong đêm. Những bóng trắng.”
Trong giây lát, Jon trở lại Tháp của Tổng tư lệnh. Một bàn tay cứng cỏi bò lên cẳng chân và khi hắn dùng kiếm dài hất nó ra thì nó lăn ra mặt đất, những ngón tay mở ra rồi đóng lại, điên cuồng lục lọi. Người chết đứng dậy, đôi mắt xanh phát sáng trên khuôn mặt sưng tấy, những tảng thịt thối rữa từ vết thương trên bụng nhưng tuyệt nhiên không có giọt máu nào.
“Màu mắt của chúng là gì?” hắn đặt câu hỏi.
“Màu xanh. Sáng như những ngôi sao xanh, và lạnh,” hắn nghĩ cô đã nhìn thấy chúng. Craster nói dối. “Ngài sẽ mang tôi đi chứ? Chỉ cần đến Tường Thành…”
“Chúng tôi không cưỡi ngựa về phía tường thành. Chúng tôi cưỡi ngựa về phía Bắc, đuổi theo Mance Rayder và bọn Người Lạ, những bóng trắng và những thứ đại loại như vậy. Chúng tôi đang tìm bọn chúng, Gilly. Con của cô cũng sẽ không an toàn nếu đi cùng chúng tôi.”
Nỗi sợ hãi hiển hiện rõ trên khuôn mặt cô. “Thế nhưng các ông cũng sẽ trở về chứ. Chờ ngài làm xong việc thì ngài sẽ quay lại đường này.”
“Có thể,” nếu chúng tôi còn sống, “nhưng như Old Bear, người mà các cô gọi là Lord Crow/ Đại nhân Quạ đó nói, tôi chỉ là người hầu của ông ấy. Tôi không thể quyết định chọn con đường mình đi.”
“Không.” Hắn có thể cảm nhận được nỗi sợ trong giọng cô. “Xin lỗi vì đã làm phiền, đại nhân, tôi chỉ… họ nói rằng đức vua bảo vệ người dân an toàn, và tôi nghĩ…” Bất chợt, cô chạy đi, chiếc áo choàng của Sam bay phần phật phía sau như đôi cánh đen khổng lồ.
Jon nhìn cô rời đi, tâm tình vui vẻ nhờ vẻ đẹp buổi sáng cũng đã tan biến, hắn cảm thấy bực bội, rủa Sam chết đến hai lần vì đã chỉ đường cho cô ta đến chỗ mình. Hắn nghĩ mình có thể làm được gì cho cô gái đó chứ? Chúng ta ở đây để chiến đấu với bọn người dã nhân, chứ không phải bảo vệ họ.
Lúc này đây, một đống người khác cũng nhộn nhịp chui ra khỏi chỗ ẩn nấp, ngáp ngắn ngáp dài và mệt mỏi duỗi lưng. Phép màu đã nhạt nhòa, ánh sáng phản chiếu từ băng ban đầu giờ chuyển sang ánh sáng mặt trời lên bình thường. Có ai đó đã nhóm lửa, hắn có thể ngửi thấy mùi khói phiêu đãng trên những ngọn cây, mùi thịt lợn muối xông khói. Jon cầm chiếc áo choàng lên, đập nó vào tảng đá cho vỡ băng kết cả đêm trên áo, rồi thu thập thanh Longclaw, đeo nó lên vai rồi đi thêm vài dặm, hắn tiểu trên một bụi cây đóng băng, nước tiểu phun trào trong khí lạnh, làm tan băng giá tại nơi nó đổ xuống. Sau cùng hắn buộc chặt dây quần và đi theo mùi thơm.
Grenn và Dywen đang ngồi cùng với các huynh đệ khác quanh bếp lửa. Hake đưa cho Jon một phần bánh mì đầy thịt hun khói cháy xem, cùng cá muối và mỡ ngan. Hắn cố gắng nuốt vào trong khi lắng nghe Dywen nói khoác về việc ở cùng với ba bà vợ của Craster suốt đêm qua.
“Cậu chẳng có ai cả,” Grenn nói, mặt vô cảm,“tôi thấy rồi.”
Dywen vươn tay đấm vào lưng bạn. “Cậu? Nhìn thấy? Cậu cũng mù như học sĩ Aemon, ngay cả gấu có khi cũng không nhìn thấy.”
“Gấu nào? Quanh đây có gấu sao?”
“Luôn có một con gấu.” Dolorous Edd phát biểu với giọng u buồn thường khi. “Khi ta còn nhỏ đã chứng khiến một con gấu giết chết anh trai mình. Sau đó nó đeo hàm răng của anh ấy quanh cổ và chúng cũng là hàm răng rất tốt, tốt hơn của ta. Ta rất phiền với hàm răng của mình.”
“Sam ngủ ở phòng khách tối qua sao?” Jon hỏi.
“Ta không gọi đó là ngủ. Mặt đất thì cứng, cả căn phòng có mùi khiến người ta phát ốm, và các huynh đệ thì gáy to khủng khiếp. Nói theo kiểu câu chuyện gấu thì gấu cũng không thể so sánh được với Brown Bernarr. Nhưng thực sự mà nói thì trong đó ấm áp. Vài con chó còn trèo lên người ta ngủ suốt đêm. Áo choàng của ta gần khô thì bị một con chó tè lên đó. Hay có thể là Brown Bernarr. Cậu có để ý thấy mưa ngừng rơi khi ta đã có một mái nhà để chui vào? Giờ thì ta đã ra ngoài và nó sẽ tiếp tục rơi.Các chư thần cũng như những con chó thích tè lên người ta.”
“Tốt hơn là tôi nên đi gặp đại nhân Mormont.” Jon nói.
Cơn mưa có thể đã tạnh, nhưng mặt sân vẫn ngập ngụa nước và bùn. Các huynh đệ áo đen đang dọn lại lều, cho ngựa ăn, nhai thịt bò muối. Đội lính trinh sát của Jarman Buckwell đang chỉnh sửa lại yên ngựa chuẩn bị rời đi.
“Jon,” Buckwell lên tiếng chào hắn. “Nhớ cầm chắc thanh kiếm con hoang đó của cậu. Chúng ta sẽ rất nhanh cần sử dụng đến nó.”
Trời đã sáng rõ nhưng phòng khách nhà Craster vẫn còn u ám. Bên trong phòng những ngọn đuốc thắp từ đêm qua đã sắp tắt hết mà ánh mặt trời hầu như vẫn chưa chiếu vào. Con quạ của đại nhân Mormont là người đầu tiên phát hiện ra hắn bước vào. Nó giương đôi cánh đen rộng lớn bay lên rồi hạ xuống đôi thanh Longclaw. “Ngô?” nó rỉa rỉa mái tóc Jon.
“Đừng để ý đến con chim hành khất gian xảo đó, Jon, ta vừa cho nó nửa phần thịt hun khói của mình xong.” Old Bear ngồi ngay trên ghế của Craster lên tiếng, ông đang ăn sáng cùng với các tướng quân khác: Bánh mì khô, thịt muối hun khói, lạp xưởng làm từ thịt cừu. Chiếc rìu mới của Craster nằm ngay trên bàn, biểu tượng khắc bằng vàng của nó lấp lánh dưới ánh đuốc. Người chủ mới của nó đang ngủ say như chết trên gác xép, nhưng những người phụ nữ thì đều đã dậy, bận rộn đi lại và phục vụ. “Ngày hôm nay thế nào?”
“Lạnh, nhưng mưa đã tạnh.”
“Rất tốt. Xem con ngựa của ta đã đóng yên và sẵn sàng chưa. Ta muốn chúng ta khởi hành trong một giờ nữa. Cậu đã ăn chưa? Craster đã cung cấp cho chúng ta thức ăn thông thường nhưng đầy đủ.”
Mình sẽ không ăn thức ăn của Craster, hắn đột nhiên quyết định. “Tôi đã ăn sáng cùng với mọi người,thưa đại nhân.” Jon hất con quạ ra khỏi thành Longclaw, con chim bay lại đậu trên vai của Mormont, nơi nó ỉa lên đó. “Mày đáng lẽ nên làm việc đó bên người Jon thay vì chỗ tao.” Old Bear oán hận. Con quạ kêu the thé như vẻ đáp ứng.
Hắn tìm thấy Sam sau căn nhà, đang đứng cùng với Gilli bên chuồng thỏ bị phá. Cô đang giúp hắn mặc lại chiếc áo choàng, nhưng khi nhìn thấy Jon thì quay mặt đi. Sam nhìn hắn đầy trách móc. “Tôi đã nghĩ cậu sẽ giúp cô ấy.”
“Và tôi làm thế nào để giúp cô ta?” Hắn cay nghiệt. “Mang cô ta đi cùng chúng ta, giấu cô ta vào trong áo choàng của cậu? Chúng ta được lệnh không…”
“Tôi biết,” Sam hổ thẹn, “nhưng cô ấy đang sợ hãi. Tôi biết nỗi sợ đó như thế nào, vì vậy tôi đã kể với cô ấy…” hắn đỏ mặt tía tai.
“Cái gì? Rằng chúng ta sẽ mang cô ta đi cùng?”
Mặt Sam càng đỏ hơn. “Trên đường về nhà,” hắn không dám nhìn thẳng vào mắt Jon. “Cô ấy sắp sinh con.”
“Sam, cậu có mất trí không thế? Chúng ta thậm chí còn không qua đây khi quay về. Và nếu có thể đi qua đây đi nữa, cậu nghĩa Old Bear sẽ cho phép cậu mang theo một trong những bà vợ của Craster sao?”
“Tôi nghĩ… có lẽ lúc đó tôi sẽ nghĩ ra cách nào đó.”
“Tôi không có thời gian cho việc này. Tôi phải đi coi đàn ngựa.” Jon nhanh chóng bỏ đi, vừa tức vừa vội. Trái tim Sam lớn hơn thân thể nhỏ bé của hắn, nhưng trong mắt Jon thì suy nghĩ của hắn cũng chỉ như Grenn mà thôi. Không thể nói chuyện và không thể tin tưởng. Vậy tại sao mình lại cảm thấy xấu hổ vậy?
Jon chuẩn bị thỏa đáng, đứng bên cạnh Mormont trong khi các huynh đệ trong Đội Tuần Đêm lần lượt đi qua những chiếc đầu lâu treo trên cổng của Craster. Họ sẽ đi theo con đường mòn săn bắn hướng về phương Bắc. Băng tan thành nước nhỏ giọt trên đầu giống như điệu nhảy chậm của những hạt mưa trên bản nhạc êm đềm. Phương Bắc thành trì, những dòng suối nhỏ tràn đầy nước, những cành cây trơ lá, may mà lúc trước đội trinh sát đã tìm ra được chỗ cạn đủ để họ vượt qua. Nước dâng cao đến bụng ngựa. Ghost bơi qua, sang đến đầu bên kia thì đám lông trắng của nó dính đầy thứ bùn màu nâu. Nó lắc mình và bùn cùng nước bay tứ tung khắp hướng. Mormont không nói gì nhưng con qua trên vai ông hét lên chói tai.
“Đại nhân.” Jon lặng lẽ khi bọn họ lại phải xâm nhập vào rừng lần nữa. “Craster không có cừu hay bất kỳ đứa con trai nào.”
Mormont không trả lời.
“Ở Winterfell, một trong những người hầu đã kể chuyện cho chúng tôi.” Jon tiếp tục. “Bà ấy thường kể rằng có những tên dã nhân thường hiến cho Người Lạ những đứa trẻ nửa người.”
“Chỉ là những câu chuyện cổ tích bên lò sưởi thôi. Craster trông có ít tính người hơn cậu không?”
Ít hơn hàng trăm lần. “Hắn đưa các con trai mình vào rừng.”
Một khoảng lặng kéo dài. Sau đó “Phải” và “Phải” con quạ thì thào, rồi vênh mặt “Phải, phải, phải.”
“Ngài đã biết?”
“Smallwood đã kể cho ta, từ lâu rồi. Tất cả các kỵ sĩ đều biết, dù rất ít người dám nói thẳng ra điều đó.”
“Chú của tôi có biết điều đó không?”
“Tất cả các kỵ sĩ,” Mormont lặp lại, “cậu nghĩ ta nên ngăn cản ông ta sao. Hay giết ông ta nếu cần thiết,” Old Bear thở dài. “Liệu đó có phải chỉ là cách hắn muốn nuôi con mình, ta rất muốn cử Yoren hay Conwys đến thu thập mấy thằng bé đó. Chúng ta có thể nuôi chúng thành huynh đệ áo đen và Đội Tuần sẽ mạnh hơn nhiều. Nhưng đám dã nhân tôn thờ các chư thần băng giá hơn cậu hay ta. Những thằng bé đó là đồ hiến của Craster. Cách thức thờ cúng của lão, nếu cậu muốn nói thế cũng được.”
Các bà vợ của lão chắc chắn có những cách thức thờ cúng khác, Jon nghĩ.
“Sao mà cậu biết những điều này?” Old Bear hỏi. “Từ một trong những bà vợ của Craster?”
“Vâng, thưa đại nhân.” Jon thừa nhận. “Nhưng tôi không thể nói sớm với ngài điều này. Cô ta sợ hãi và muốn tôi giúp đỡ.”
“Thế giới rộng lớn đầy những người cần giúp, Jon ạ. Có vài người tự tìm lấy can đảm để giúp chính mình. Ngay lúc này đây Craster vẫn đang ngồi phịch trên lầu, uống rượu như hũ chìm quên trời đất. Trong khi thanh rìu mới sắc lẻm của lão thì nằm ngay dưới nhà. Nếu là ta thì ta sẽ sử dụng nó ngay. ‘Lời cầu nguyện đã được đáp ứng’ và kết thúc mọi chuyện.”
Đúng vậy. Jon nghĩ đến Gilly. Cô và các chị em gái của cô. Họ có mười chín người, và Craster chỉ có duy nhất một mình, nhưng…
“Đối với chúng ta mà nói, Craster chết cũng không phải điều may mắn. Nếu chú của cậu còn sống, ông ấy nhất định sẽ nói lâu đài của Craster làm nên sự khác biệt giữa sự sống và cái chết của tất cả kỵ sĩ chúng ta.”
“Cha tôi…” hắn do dự.
“Tiếp đi Jon. Hãy nói những gì cậu muốn nói.”
“Cha tôi đã từng kể cho tôi nghe chuyện vài người đàn ông không đáng sống,” Jon nói. “Một người lính dưới trướng vốn tàn bạo hay phản bội không chỉ làm dơ bẩn chính mình mà còn làm dơ bẩn cả chủ của hắn.”
“Craster phục vụ cho chính hắn. Lão không có bất kỳ lời thề nào với chúng ta. Lão cũng không phải theo luật của chúng ta. Cậu có một trái tim cao quý, Jon, nhưng cậu phải học được một điều là chúng ta không thể sắp đặt lại thế giới này. Đó không phải là mục đích của chúng ta. Đội Tuần Đêm còn có những cuộc chiến khác cần phải tham dự.”
Những cuộc chiến khác. Phải, mình nhất định phải nhớ. “Jarman Buckwell nói rằng tôi có thể sớm phải sử dụng đến kiếm của mình.”
“Hắn nói vậy sao?” Mormont có vẻ không vui. “ Craster nói quá nhiều vào đêm qua, hoàn toàn xác định chính xác những gì ta đã lo lắng trước kia, khiến ta lo lắng mất ngủ cả đêm trên sàn nhà của lão. Mance Rayder đang tập hợp quân ở Frostfangs. Đó là lý do tại sao các ngôi làng đều trống không.Thông tin này giống với thông tin hiệp sĩ Denys Mallister thu thập được từ đám người dã nhân mà đội ông ấy bắt được ở Gorge, nhưng Craster đã thêm vào địa điểm chính xác bọn họ tập hợp, và tình huống càng ngày càng trở nên phức tạp.
“Lão đang lập một thành phố, hay một đội quân?”
“Đó chính là vấn đề then chốt. Có bao nhiêu dã nhân ở đó? Bao nhiêu người trong độ tuổi chiến đấu?” Không ai biết chính xác tình hình. Người Frostfangs rất độc ác, lạnh lùng, loại người hoang dã cứng rắn và lạnh lẽo. Bọn chúng không có cách nào nuôi một đám người số lượng lớn trong thời gian dài. Ta chỉ nhìn thấy mục đích duy nhất trong lần tập hợp quân lần này. Mance Rayder muốn đánh về phía Nam, tấn công bảy vương quốc.”
“Đám dã nhân đã từng tấn công đế quốc trước đây,” Jon đã nghe những câu chuyện của Vú Già và Học sĩ Luwin hồi còn ở Winterfell. “Raymun Redbeard đã xuất quân tiến miền Nam vào thời ông của ông tôi, và trước đó nữa là thời vua tên là Bael biệt danh The Bard.”
“Phải, và thời gian dài trước họ còn có Horded Lord và huynh đệ đế vương Gendel và Gorne, xa xưa nữa là Joramun, người đã tiến đánh Horn of Winter và đánh thức những người khổng lồ đội đất đứng dậy. Mỗi người bọn họ đều bị chặn đứng ở Tường Thành, hoặc bị sức mạnh của Winterfell đánh chặn… nhưng Đội Tuần Đêm giờ chỉ còn là cái bóng của thời hoàng kim, và ai có thể ngăn chặn bọn dã nhân ngoài chúng ta? Lãnh chúa thành Winterfell đã chết, và người thừa kế của ông ấy thì đang dùng sức mạnh của mình tấn công phương Nam đánh nhau với gia tộc Lannister. Bọn dã nhân đang có cơ hội ngàn năm có một. Ta biết rõ Mance Rayder, Jon. Lão là một kẻ vứt bỏ lời thề, phải… nhưng lão có cái nhìn sắc bén, hành động quyết đoán và là nhân tài.