Tôi hỏi Vân Hương: “Ngươi có nhớ người thân không?”
Vân Hương cười buồn. “Mẹ nô tỳ mất sớm, cha lấy vợ khác nên gửi nô tỳ đến
Tạ phủ làm công. Nô tỳ một năm mới về nhà một lần, cha không quan tâm,
mẹ kế và em trai nhỏ giả vờ không nhận ra. Mỗi lần như vậy, nô tỳ lại
nghĩ thà quay về Tạ phủ. Ít ra các bà và các tỷ muội trong bếp đều tốt
với nô tỳ.” Nàng ta dừng lại một lát, rồi thêm vào một câu: “ Tiểu thư
là tốt với nô tỳ nhất.”
Tôi cười, vuốt tóc nàng ta. “Ta vẫn nhớ
ngươi lớn hơn ta nửa tuổi, mấy hôm nữa cũng tròn mười tám rồi. Lúc đó ta sẽ làm một tiệc mừng long trọng, rồi bỏ nô tịch cho ngươi. Sau này
ngươi có thể đứng ngang ngồi cùng với ta.”
Tôi kéo tay nàng ta, mặt hướng về phía mộ của Tạ Chiêu Anh, nói: “Nhị ca,
muội một mình ở nơi đất khách làm khách lạ, may mà có Vân Hương chăm sóc chu đáo, khiến muội bớt cô đơn. Ca ở trên trời có linh thiêng thì phù
hộ cho cả muội ấy nhé!”
“Được rồi!” Tôi cười to. “Chúng ta là tỷ muội tốt, sao lại phải khách khí như vậy?”
Vân Hương lau nước mắt, gật đầu rõ mạnh. “Vâng…”
Quay trở về, tôi nhờ Tôn tiên sinh báo việc này lên cho Tiêu Huyên biết.
Ngay hôm đó Tiêu vương gia có hồi đáp, đồng ý và mười phần tán thành
quyết định của tôi, tiệc sinh nhật của Vân Hương sẽ do huynh ấy tổ chức.
Vân Hương hầu hạ người khác hơn mười năm trời, bây giờ lại được người khác
hầu hạ thì khó mà thích nghi ngay được. Nàng ta đã từng thấy cách thức
chung nên không đến nỗi tay chân lập cập, nhưng mọi việc trước đây của
nàng ta bây giờ đều do A Kiều làm hết cả, nàng ta không có việc gì làm
thì người ngợm bứt rứt, rõ ràng không phải là kiểu người thích ngồi yên
một chỗ.
Tôi vốn định gọi nàng ta đến phòng chế thuốc giúp việc
cho tôi, nhưng nàng ta bảo, biệt viện có một vị đầu bếp già thâm tàng
bất lộ trước đây đã thử tay nghề nấu các món ăn hằng ngày của nàng ta,
muốn truyền nghề cho nàng ta, nàng ta bèn chính thức bái sư.
Tôi không còn cách nào khác, đành phải để nàng ta đi học nấu ăn, chuyển sang bồi dưỡng Phẩm Lan để trợ giúp cho tôi.
Từ ngày đó trở đi, việc ăn uống của chúng tôi được cải thiện rõ rệt. Mỗi
bữa ăn được bắt đầu bằng món khai vị tinh tế, ngon miệng, đến món chính
thì thịnh soạn, phong phú, rồi canh hầm đậm đà và điểm tâm ngọt ngào.
Mỗi bữa mỗi món, mỗi ngày một thực đơn, liên tục đến nửa tháng không
trùng lặp. Ăn uống như vậy chưa đến một tháng, tôi béo tròn xoe, may mà
thân hình Tạ Chiêu Hoa vốn nhỏ bé thấp gầy, vẫn còn không gian để bổ
sung mỡ thịt.
Vân Hương được thăng cấp từ nha hoàn lên chủ nhân,
tuy vẫn còn thói quen giúp đỡ tôi nhưng nha hoàn chính của tôi đổi sang
một cô bé mười lăm tuổi tên gọi Đồng Nhi. Đồng Nhi vốn là tiểu bộc áo
xanh trong Yến vương phủ, nhanh nhẹn hoạt bát lại giỏi việc, tôi rất
thích.
Đêm Trừ tịch, cả nhà quây quần vui vẻ đón năm mới. Không
hề thấy Tiêu Huyên có tăm hơi động tĩnh gì, chắc là có chương trình với
tiểu thư Liễu Minh Châu. Không hiểu Liễu tiểu thư có phá hỏng khung cảnh bằng cách nhìn pháo hoa đầy trời mà rớt lệ khóc ròng, cảm thán sao
những khoảnh khắc đẹp trên đời lại qua nhanh quá đỗi? Nhưng biết đâu
Tiêu Huyên thích kiểu đó thì sao? Chẳng phải Tần Phỉ Hoa cũng rất dễ cảm thương bi ai sầu khổ đấy sao, huynh ấy cũng rất thích mà.
Tôi,
Vân Hương và cả Giác Minh cùng đón năm mới. Vì trời rét nên tôi kiến
nghị ăn lẩu, Vân Hương liền hầm một nồi xương qua đêm, chuẩn bị một bàn
toàn món ngon.
Vì Phẩm Lan theo Tôn tiên sinh về quê ăn Tết nên
Giác Minh có chút buồn. Đồng Nhi bèn hát một khúc cho cậu nghe. Cậu bé
háo sắc thấy tỷ tỷ xinh đẹp cố làm cho cậu vui, lập tức quẳng cả phiền
não lẫn Phẩm Lan đi tám nghìn dặm, nắm tay tỷ tỷ chơi đùa.
Vì
toàn là đàn bà con gái và trẻ con nên ăn uống rất tự do. Nối lẩu thơm
nồng sôi sùng sục, thịt dê tươi ngon, phù trúc mềm mại, nấm hương nần
nẫn, măng trúc non giòn… Mọi người say sưa ăn uống đến toát mồ hôi mà
vẫn muốn ăn thêm.
Cơm no rượu say xong, mấy đứa con gái bắt đầu chủ đề muôn thuở, tán chuyện phiếm của thiên hạ.
Bắt đầu là chuyện Liễu tiểu thư gần đây mắc bệnh đau dạ dày gì đó, ngày nào cũng thấy ôm bụng, nhăn nhó măt mày, chắc hẳn đây là nàng Đông Thi đầu
tiên của thời đại này. Vị huyện chủ này cứ ba ngày một cữ bệnh nhẹ, năm
ngày một cữ bệnh nặng, muôn màu muôn vẻ không bệnh nào trùng với bệnh
nào, lại còn khởi xướng trào lưu mới trong thành Tây Dao, đàn bà con gái trang điểm theo kiểu mày chau, mặt trát phấn trắng bệch như người chết, rồi vẽ hai hàng lông mày thành hình chữ bát.
Buôn chuyện về Liễu tiểu thư xong, lại bàn sang cuộc sống của thái tử và các bà vợ trong
kinh thành. Hình như phúc phận của thái tử Liêu Tịch không dễ hưởng như
người ngoài tưởng tượng. Thái tử phi Tần Phỉ Hoa hằng ngày cư xử với
chồng không mặn mà gì, như bát mì quên không cho muối vậy, Tạ Chiêu Kha
tiểu thư thì lạnh lùng như băng tuyết, cao ngạo xa cách như một tảng
băng trơn. Tiêu Lịch không chạm đến Tạ Chiêu Kha được, lại không thể ra
tay với Tần Phỉ Hoa, nhìn thấy mà không ăn được, đó mới là nỗi khổ lớn
nhất trên đời.
Tôi nhớ đến đêm giao thừa năm ngoái ở nhà họ Tạ,
cả nhà ngồi quây quần quanh bàn, Tạ thái phó vui vẻ, dễ chịu hiếm có,
đại tẩu không chanh chua như ngày thường, còn Tạ Chiêu Kha vẫn là thiễu
nữ khuê các chưa chồng, là kim chi ngọc diệp nhà họ Tạ. Còn nhớ hôm đó
tôi đích thân xuống bếp làm món cá sốt giấm Tây Hồ, Tạ Chiêu Kha ăn rất
ngon miệng, khen tôi rằng: “Tứ muội nấu ăn giỏi, không biết sau này
chàng trai nào tốt số được hưởng.”
Chớp mắt đã một năm trôi qua,
tôi mai danh ẩn tính đi theo Tiêu Huyên tha hương xa lắc, còn Tạ Chiêu
Kha tôn quý đã làm thiếp của người ta.
Haizz, tuy mọi người đều
cho rằng được làm thiếp của thái tử là ân sủng lớn như trời, nhưng tôi
biết Tạ Chiêu Kha tâm cao khí ngạo, sao dễ phục tùng? Tuy nàng ta từng
có mưu mô tính toán với tôi, nhưng xét cho cùng nàng ta cũng là một
người con gái đáng thương, không thể tự mình làm chủ vận mệnh của mình.
Xinh đẹp như thế nhưng cũng không tránh được số phận, tôi so với nàng ta vẫn còn may mắn hơn nhiều.
Còn Tiêu Huyên lúc đó thì sao? Khi đó huynh ấy vẫn tên là Tạ Chiêu Anh, ngồi uống rượu với đại ca và Tạ thái
phó. Tạ phu nhân âu yếm nhìn huynh ấy, nhắc tiểu thư Bạch Nhạn Nhi gắp
thức ăn cho huynh ấy. Tiêu Huyên nghe Tạ Chiêu Kha nói vậy, bèn trêu
tôi: “Tứ muội thích được gả cho người thế nào? Ca ca sẽ giúp muội để ý
cho”, rồi lại nói: “Nhưng cái tính hồ đồ, nóng nảy của muội phải thay
đổi đi, không thì ai dám lấy muội…”
“… đến người thứ năm rồi, sau này còn ai dám thành thân với hắn nữa!”
Tôi chỉ nghe thấy đoạn sau, liền sực tỉnh, quay sang đám Vân Hương đang thẽ thọt to nhỏ. “Mọi người đang nói đến ai vậy?”
Đám Vân Hương dừng chuyện, nhìn sang tôi: “Còn nói ai nữa, đương nhiên là
tân hoàng đế của Ly Quốc rồi, vừa có hoàng hậu qua đời.”
Tô cười: “Phi tử của hoàng đế có tận mấy chục, thậm chí cả trăm người, hoàng hậu chết thì kiếm người khác thế vào.”
Vân Hương vội vàng nói: “Tiểu thư không biết chứ, hoàng đế khi trước cũng chỉ có một vợ đó thôi.”
Hoàng đế kiểu gì mà chỉ có một vợ, ông ta làm hoàng đế để làm gì chứ?
Bọn họ kể lại cho tôi nghe, thì ra khi tân hoàng đế mới lên ngôi chưa đầy
một năm của Ly Quốc còn là thái tử, có một phi một thiếp. Nhà mẹ đẻ của
hai bà vợ này là hai phe đối lập nhau trong triều đình, hằng ngày thường hay nhổ nước miếng vào nhau mỗi buổi chầu triều sớm. Đảng phái đấu đá
đâu dễ xử lý, nhưng loạn quá khiến người cầm quyền không quản nữa thì
không được, cho nên nữ hoàng đương thời muốn dùng cách cùng chung một
chồng để hòa giải mâu thuẫn giữa hai nhà. Nào ngờ cả hai nhà đều không
biết điều, hai bà vợ người này ngứa mắt người kia, người kia lại khó
chịu người nọ. Vợ lớn tự cao tự đại, vợ bé cũng chẳng chịu thua, hôm này người này moi móc chuyện người kia, ngày mai người kia lại kiếm chuyện
chơi lại, ba ngày cãi nhau trận nhỏ, năm ngày cãi nhau trận lớn, tháng
nào cũng khóc lóc về nhà mẹ đẻ một lần. Thái tử không thể nào chịu đựng
nổi, lại không thể trả lại như món hàng đã mua mà không vừa ý, đành đi
công cán ở vùng đất khác.
Thái tử cũng không ngốc lắm, trước khi
đi sợ các bà vợ không ngán ai tiếp tục diễn vở Lục quốc đại phong tướng, bèn đưa vợ bé đang mang thai đến biệt viện để nghỉ dưỡng. Nào ngờ thái
tử phi tức tối điên cuồng, ngang nhiên khiêu chiến với hiến pháp của bản quốc, mua chuộc người bỏ thuốc độc phá cái thai trong bụng trắc phi đi. Trắc phi mất đứa bé thì phát điên, lồng lên cầm dao đâm chết thái tử
phi rồi tự vẫn. Cả nước râm ran, hai nhà đành phải từ quan, lại đỡ cho
nữ hoàng phải lao tâm khổ tứ nghĩ cách làm suy yếu thế lực của họ.
Thái tử ở bên ngoài biết được tin tức, chắc hẳn cũng thở phào một hơi, thầm
cảm thấy mình may mắn. Nữ hoàng hổ thẹn với con trai, lại tận tụy đi
tuyển con gái của một nhà thư hương về làm thái tử phi. Lần này chỉ có
một vợ, gia đình không còn mâu thuẫn, vợ mới tính tình mười phần hiền
dịu, lại nhẹ nhàng yểu điệu, lúc nào cũng có thể bay đi cùng gió trăng.
Thế nhưng vị thái tử phi tài nữ học nhiều biết rộng, tài trí hơn người
này lại giống kiểu nhân vật nữ thanh niên trong văn học họ Lâm tên Đại
Ngọc, đều có tướng mạo khuynh quốc khuynh thành, đa sầu mà cũng đa bệnh. Sau khi được gả cho thái tử thì không thấy sinh con mà chỉ sinh bệnh,
bệnh từ đỉnh đầu đến gót chân không thiếu chỗ nào, đến Liễu Minh Châu
tiểu thư cũng không thể bì được với nàng. Vị thái tử phi thứ hai này cứ
bệnh tật liên miên như vậy hơn một năm trời, mình hạc xương mai không
chống cự nổi, cuối cùng bay về thiên đường.
Không biết thái tử
điện hạ lần này có thở phào nhẹ nhõm được nữa không, nhưng tôi trộm
nghĩ, bất luận đàn ông ở thời đại nào, thuộc giai cấp nào mà vợ chết
liên tục đến ba bận đều không phải là chuyện lành. Nghe nói nữ hoàng mời đại sư đến phán mệnh cho con trai, kết quả là thái tử đại ca mệnh cứng
như kim cương, nữ nhân khắp thiên hạ không ai xứng đôi.
Nữ hoàng
không tin con trai yêu của mình phải cô độc suốt đời, lại tìm từ trong
nhà các đại thần một vị nghe nói cũng có mệnh cứng để tác hợp. Nhưng lần này không dám lập danh chính phi, chỉ nạp làm trắc thất.
Vị nữ
bạch hổ này tuy không mang bệnh nhưng vốn đã có người trong mộng, xuất
giá xong thì vẫn không chịu cắt đứt dây tơ với tình lang, cho nên cắm
cho thái tử cái sừng dài mười dặm. Hoàng trưởng tôn ra đời chưa được bao lâu thì chuyện gặp gỡ riêng tư với tình lang bị lộ, bởi vì lo lắng sẽ
làm liên lụy đến người nhà nên hai người cùng tự tuẫn, làm đôi Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài. Thái tử ôm con trai vẫn còn đang khóc oa oa trong tã lót, dở cười dở mếu.
Lần này thì nữ hoàng hoàn toàn tuyệt vọng,
không ép con trai lấy vợ nữa, ông trời bắt con mình phải độc thân thì
đành chấp nhận vậy.
Không lâu sau thì nữ hoàng thăng thiên, thái
tử tức vị. Một nước không thể không có vua, một cung không thể vô chủ,
quần thần nước mắt nước mũi ròng ròng dâng tấu thỉnh cầu hoàng thượng
phong một hoàng hậu lên giữ Trung cung. Tân hoàng đế bị bọn họ gây phiền phát bực, quyết định thử ván cuối cùng, thận trọng cưới khuê nữ của
Vương thái tể về.
Vương hoàng hậu khỏe mạnh kiện khang, tình sử
trong sạch, hoàng đế chỉ có một mình nàng là vợ nên cũng không phải ghen tuông với ai. Ngay cả hoàng đế bấy giờ cũng nghĩ, lần này chắc sẽ không có vấn đề gì nữa. Nhưng ông trời luôn làm trái ý người, Thượng đế lại
cứ thích đối nghịch. Tháng trước kinh đô Ly Quốc có tuyết lớn, Vương
hoàng hậu ngủ trưa dậy bỗng nhiên nổi hứng đi ngự hoa viên xem tuyết,
kết quả đi được nửa đường, không cẩn thận ngã lên một phiến băng trơn,
kêu một tiếng rồi rớt xuống hồ nước. Vương nữ sĩ sau khi được cứu lên
thì sốt cao, thuốc thang vô ích, có lẽ đã chuyển thành viêm phổi, ở thời đại chưa có peniciline này thì chỉ vài ngày sau là qua đời.
Hoàng đế ngồi cạnh di thể của thê tử suốt một đêm, ngày hôm sau, vừa kiên
định vừa thận trọng tuyên bố với đám đại thần và nô bộc đang quỳ trước
mặt rằng đã có thái tử, đời này không lập hậu nữa, nếu ai dám cản việc
này thì tự khăn gói về quê. Các đại thần sợ hãi dập đầu tuân lệnh, cũng
hiểu ra rằng vị hoàng đế trẻ trung này không hiền lành như họ vẫn tưởng.
Câu chuyện đến đây là hết. Tôi nghe xong cứ cười mãi, lại cảm thấy thương
cho vị hoàng đế này. Bất luận có tình cảm hay không, nhìn thấy năm người phụ nữ trong đời mình chết đi, cũng là một chuyện rất khó khăn. Sinh
mệnh khó lường, người thân mất đi, vị hoàng đế xa lạ trẻ trung này ngồi
một mình trên ngai vàng uy nghiêm cao vời kia chắc hẳn cảm thấy rất cô
độc.
Chúng tôi ríu rít nô đùa đến rất khuya, Giác Minh ban đầu
nằn nì đòi thức đón Giao thừa, cuối cùng không trụ nổi ngủ thiếp đi. Đám Vân Hương bèn bế cậu bé về phòng.
Tôi không muốn ở mãi trong phòng bí bách, liền kéo cửa ra ngoài đi dạo một mình.
Có tuyết rơi lúc chập tối nên trong viện vẫn bị phủ một lớp tuyết mỏng.
Tôi kéo gấu váy, giẫm chân lên tuyết, để lại một vệt dấu giày. Trên cành cây treo nhiều đèn lồng đỏ dịp lễ tết, lúc này rung rinh trong gió, ánh lửa yếu ớt. Phía xa có tiếng pháo nổ vọng đến, càng lúc càng to, thỉnh
thoảng lại có bông pháo hoa nở ra trong không trung vô cùng rực rỡ,
khiến bầu trời đêm được nhuộm vẻ diễm lệ kỳ ảo.
Cả thế giới chìm
đắm trong sự hưng phấn, hoan lạc đón giờ phút Giao thừa sắp đến, càng
làm tăng thêm vẻ vắng lặng, lạnh lẽo của tòa viện nhỏ nơi chúng tôi ở.
Tôi đứng giữa màn tuyết trắng, cảm thấy nỗi cô đơn như một cơn gió lạnh
lẽo tràn ngập khắp cơ thể, không khỏi rùng mình.
Dù sao cũng đang ở chốn tha hương.
“Tại sao lại mặt ủ mày chau như vậy?” Một giọng nói quen thuộc vang lên làm tôi giật mình sợ hãi.
Tôi quay lại nhìn, thấy ở cổng viện, Tiêu Huyên đang mỉm cười đứng đó.
Màn đêm tối thẫm, ánh tuyết mờ mờ, gương mặt huynh ấy là thật hay ảo, rất không rõ ràng.
Tiêu Huyên chầm chậm bước đến, nhìn tôi, không nói gì. Hai chúng tôi cứ thế
nhìn nhau rất lâu, cuối cùng tôi cất tiếng trước: “Cung hỷ phát tài!”
Tiêu Huyên bật cười. “Phải chúc muội phát tài mới đúng.”
Tôi nhướn mày. “Gì cơ? Chẳng lẽ vương gia không lì xì hồng bao cho tiểu nữ sao?”
Tiêu Huyên rút một phong bao đỏ ra đưa cho tôi thật. “Này, cầm lấy!”
Tôi thấy tiền liền sáng mắt, cười hi hi nhận lấy, mồm miệng liến thoắng:
“Nhị ca năm mới mạnh khỏe vui vẻ muốn gì được nấy, vạn sự như ý tỉ sự
như mơ...”
Tiêu Huyên bỗng nói: “Chúng ta chắc phải đến ba tháng lẻ tám ngày không gặp rồi đấy nhỉ?”
Tôi ngạc nhiên. “Thật sao, lâu đến thế kia ư?”
Tôi nhàn rỗi thế này ngày ngày đếm lịch mới phải nhẽ, huynh ấy một ngày lo trăm nghìn công việc, nhớ từng ngày lẻ để làm gì?
“Ba tháng lẻ tám ngày, vừa vặn là chín mươi chín, nếu ca gấp chín mươi chín con hạc giấy, sẽ có rất nhiều ước nguyện trở thành hiện thực.”
Tiêu Huyên cười, hỏi: “Ví dụ như?”
Tôi nói không cần nghĩ: “Ví dụ như bệnh đau đầu, thương hàn của Liễu tiểu thư sẽ nhanh chóng khỏi hẳn.”
Nói chưa dứt lời tôi đã hối hận muốn cắn lưỡi, vì tôi nhìn thấy trên mặt
Tiêu Huyên có một vẻ đắc ý, sung sướng, tự mãn, như thể người thợ săn
nhìn thấy con mồi của mình tự nhảy vào bẫy vậy.
Huynh ấy rất phấn khởi. “Hóa ra là vì lý do đó nên muội mới không đến vương phủ.”
Tôi liến thoắng lấp liếm: “Đúng rồi, nơi ở của bệnh nhân nặng nề uế khí,
muội đang trẻ trung phơi phới sao phải đi chuốc bệnh vào người! Vương
gia phải cẩn thận, có những bệnh rất dễ lây nhiễm, ca phải gánh vác đại
nghiệp quang phục Đông Tề, đừng để trước lúc thực hiện được lại ngã
bệnh.”
Tiêu Huyên càng nghe tôi trù ẻo lại càng thích thú, tiến
gần lại mấy bước. “Ca sao phải sợ nhiễm bệnh, nàng lo dưỡng bệnh, ca lo
việc của mình, cũng có gặp đâu.”
Không hiểu tại sao trong lòng
tôi lại cảm thấy vui mừng, vội vàng nén lại nhưng cái miệng vẫn có ý
thức riêng của nó, lép ba lép bép: “Ồ thế à? Vương gia là chủ nhà mà
không chu đáo gì cả! Người ta tiểu thư một mình bệnh tật nơi quê người,
là lúc thấy cô đơn trống vắng nhất, ca nỡ nào nhìn thấy mà lờ đi, không
đến an ủi người ta vài câu?”
Tiêu Huyên nhìn tôi chăm chú, cười
lạnh lùng. “Nói nghe có lý! Muội đột nhiên hiểu chuyện như vậy, xem ra
Tống Tử Kính dạy dỗ rất chu đáo.”
Tôi tức giận phồng mang trợn mắt, nhưng vẫn nở nụ cười yêu kiều, đáp: “Phải rồi, Tử Kính ca dạy muội nhiều điều lắm.”
Tuy ánh sáng lờ mờ nhưng tôi vẫn nhìn thấy đôi mắt Tiêu Huyên trở nên sâu
hơn, một luồng khí lạnh tỏa ra từ người huynh ấy khiến tôi không kìm
được rùng mình, khẽ lùi lại sau một bước. Cũng may ánh mắt lạnh lẽo như
băng tuyết nghìn năm chỉ lóe lên rồi vụt tắt, huynh ấy cười nhăn nhó,
khổ sở. “Hai chúng ta làm sao vậy? Khó khăn lắm mới được gặp nhau, mới
nói ba câu đã rút kiếm vung gươm thế này...”
Tôi ừ hử. “Chuyện
này trách muội liệu có phải nhẽ không? Câu chuyện là do ca tự nói ra
trước mà. Ca tưởng muội trong đêm giao thừa mà muốn nói những chuyện
nhăng cuội này sao!”
Tiêu Huyên cười rất gian xảo. “Đơn thuốc
muội kê cho Liễu tiểu thư ca xem rồi, giá phải trả cao quá, ca không lo
nổi, muội còn có linh đan thần dược nào khác không?”
Tôi cũng
cười ranh mãnh, lắc lư cái đầu. “Cái gì? Cuối cùng cũng không chịu được
phải tiễn khách rồi à? Người ta là mỹ nhân kiểu diễm lại còn chủ động
dâng tận cửa. Ca lớn tuổi thế này rồi, không có nữ nhân bên cạnh cũng
không tốt, về góc độ y học mà nói, muội kiến nghị ca nên có cách giải
tỏa phù hợp...”.
Tiêu Huyên kéo tôi thật mạnh đến trước mặt. Theo quán tính, tôi ập vào người huynh ấy, sự tiếp xúc cơ thể và hơi thở
nóng hổi cùng lúc ùa đến. Tim tôi lập tức đình công, cả người căng cứng
như một khúc gỗ.
Huynh ấy định làm gì?
Huynh ấy chỉ cười. Hơi thở phả vào mặt tôi, như thể có điện khiến mặt tôi tê dại, đầu óc choáng váng, đông đặc lại.
Trong ánh sáng mờ ảo, huynh ấy cười gian xảo, ma mãnh đầy vẻ đắc ý, bàn tay
giữ trên éo tôi buông lỏng ra một chút, trở thành ôm lấy tôi.
Tôi định thần, nheo mắt cười, rồi đột nhiên thò tay điểm mạnh vào huyệt tê
trên cánh tay huynh ấy. Huynh ấy giật mình buông tay, tôi lập tức lách
người ra.
“Muội...” Tiêu Huyên vừa ngạc nhiên vừa bực. “Quả là Tống Tử Kính đã dạy muội rất nhiều điều!”
Tôi đắc ý cười. “Muội chính là cao đồ của huynh ấy!”
Thật ra tôi chỉ học qua loa cách điểm huyệt, tay ấn không đủ lực, hiệu quả
không cao. Lần này nếu không phải là Tiêu Huyên sơ suất, bất cẩn thì tôi đâu có dễ dàng thoát thân như vậy!
Tiêu Huyên ngán ngẩm lắc đầu. “Thôi được rồi, nói chuyện chính nhé! Qua Tết sắp xếp thời gian đến,
bất luận muội dùng cách nào, chỉ cần làm cho Liễu Minh Châu quay về
thành Xích Thủy thì ta sẽ đáp ứng mọi điều kiện của muội.”
Tôi
cười nhăn nhở. “Bất luận dùng cách nào ư? Thế thì chỉ cần muội gọi mang
ngựa đến, ca đóng gói nàng ta quẳng lên xe ngựa là được.”
Tiêu Huyên lườm tôi. “Nàng ta dính như keo da trâu, đụng vào là không gỡ tay ra được, càng ít phiền hà càng tốt.”
Tôi nói: “Ca thử nghĩ kĩ xem, cưới nàng ta, ca chiếm được cả dải Xích Thủy. Được cả vợ được cả binh, làm ăn mua bán vậy lãi to còn gì!”
Tôi định nói nhiều khi không phải do huynh ấy quyết định không bán là được, nhưng lời đến môi rồi lại nuốt xuống, bởi vì, đêm Giao thừa rồi, đúng
thời điểm đánh dấu đông đi xuân đến, phải nói những lời tốt đẹp mới phải đạo.
“Muội đi khám cho nàng ta chứ gì?” Tôi nói. “Có ca hợp tác, tống nàng ta đi không khó, muội đóng vai ác một lần là được. Nhưng
mà... ca đến chỉ vì chuyện này thôi sao?”
Tiêu Huyên cười cười, giọng nhẹ nhàng âu yếm: “Thật ra ta muốn đến gặp muội.”
Tôi chỉ cảm thấy lồng ngực bên trái như bị một vật gì va phải, nhưng vẫn cứng đầu nói: “Ô, chẳng phải ca chưa gặp muội.”
Tiêu Huyên đứng yên, chỉ nhìn tôi, cười. “Tiểu Hoa, muội khác quá.”
Khoảnh khắc đó, tiếng trống chiêng vang lên, pháo dây nổ giòn giã. Những tiếng động ồn ã cùng lúc nổi lên từ khắp nơi bao phủ lấy hai chúng tôi. Trên
bầu trời hiện ra những bông pháo hoa rực rỡ sắc màu, tiếng nhạc vui mừng vọng khắp đường lớn ngõ nhỏ trong thành Tây Dao.
Có thể những
vùng khác của Đông Tề vẫn đang phải chống chọi với đói rét, có thể có
người trong thời khắc này vẫn còn thương vong bởi bạo chính và cơ hàn,
nhưng ở nơi đây, tại tòa thành phồn hoa này, bà con an cư lạc nghiệp và
đang hưởng thụ thái bình yên vui quý giá.
Tôi mỉm cười, ngước
nhìn bầu trời đầy pháo hoa, hít thở mùi khói pháo thoang thoảng. Bất
giác quay đầu nhìn sang Tiêu Huyên, thấy huynh ấy đang chăm chú nhìn
tôi, cũng mỉm cười, khóe mắt sáng lấp lánh.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT