“Người hiền lành cũng sẽ phản kháng nếu bị ức hiếp;
Gỗ đàn hương cũng sẽ bùng cháy nếu bị cọ xát.”
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1277 – tức năm Đinh Sửu, Âm Hỏa theo lịch Tạng – tức niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bốn, nhà Nguyên.
Bát Tư Ba bốn mươi ba tuổi, Chân Kim ba mươi tư tuổi.
Trên đường đi, Chân Kim tỏ ra rất mực kính trọng, hết lòng săn sóc Bát Tư Ba. Còn đối với tôi, cậu ta giữ đúng lời hứa, lịch sự, phải phép, không khi nào thất lễ. Sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, đời sống sung túc, đủ đầy, có người hầu kẻ hạ và chưa bao giờ phải vất vả trên chặng đường gian lao, điệp trùng thế này nhưng cậu ta không hề than vãn. Dù địa hình núi cao đã khiến cậu ta bị đau đầu, chóng mặt nhưng cậu ta vẫn cắn răng chịu đựng. Lòng quyết tâm và sự bền bỉ của Chân Kim khiến tôi thực sự khâm phục.
Từ Lâm Thao về Sakya, chúng tôi đã di chuyển rất chậm vì sức khỏe của Bát Tư Ba không cho phép đi nhanh. Bởi vậy, đến tháng 6 năm 1275, chúng tôi mới đi được nửa chặng đường. Đúng lúc này, chúng tôi nhận được thư của bản khâm Sangtrum mới kế nhiệm. Bát Tư Ba đã nổi trận lôi đình sau khi đọc thư.
Trong suốt bảy, tám năm giữ chức bản khâm Sakya, Kunga Zangpo đã rất biết cách mua chuộc lòng người. Hắn hào phóng chia đất đai đoạt được từ các giáo phái khác cho những người lập công. Người ta dần quên đi xuất thân của Kunga Zangpo và ngày càng ủng hộ, tôn sùng hắn, nhất là thế hệ thanh niên của phái Sakya và đội quân võ tăng do đích thân Kunga Zangpo thành lập. Khi lá thư phế bỏ chức vụ bản khâm của Kunga Zangpo về đến Sakya, hắn đã cúi đầu, trao đại ấn bản khâm cho Sangtrum rồi trở về vùng đất phong Khanochang của mình.
Nhưng hắn không hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Bát Tư Ba vì hắn không chỉ mang theo vợ con. Hơn ba, bốn nghìn người rời bỏ Sakya, đi theo Kunga Zangpo. Quá nửa số đó là các võ tăng đã tham gia vào vụ thảm sát phái Drikung và đây cũng là những thanh niên trai tráng thuộc thế hệ mới của Sakya. Những người này đã được hưởng nhiều lợi lộc sau khi cướp phá Drikung, bọn họ sợ bị Bát Tư Ba trách tội nên đã ra đi cùng Kunga Zangpo. Nhưng điều khiến Bát Tư Ba và tôi kinh hoàng hơn cả là: hắn đã đưa Dharma đi cùng vì thằng bé gào khóc thảm thiết, nằng nặc đòi đi theo gia đình hắn!
Vợ chồng Zhuoma đã nuôi dạy Dharma từ nhỏ nên từ lâu, thằng bé đã xem họ như cha mẹ ruột của mình. Dharma và cô chị họ Jumodaban rất thân nhau nên chắc chắn không muốn xa nhau. Thêm nữa, cả hai vị Lạt Ma Gungman và Kungtse, cháu trai của đại sư Ngũ Do Ba đã quá cố, vốn là thầy dạy Phật pháp của Dharma, đều đã theo Kunga Zangpo đi Khanochang. Vậy là bạn bè, thầy giáo, người thân của Dharma đều đi Khanochang cả, một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi như thằng bé, đâu còn muốn ở lại Sakya nữa. Tuy Bát Tư Ba đã phế bỏ chức vị bản khâm của Kunga Zangpo nhưng hắn vẫn là con rể nhà họ Khon, Sangtrum không thể ngăn cản hắn đưa Dharma đi cùng.
- Chắc chắn Kunga Zangpo đã phát hiện ra điều gì. Rất có thể sau khi thiêu cháy cả đền Drikung mà vẫn không thấy xác của Chung Dorje và tờ giấy bán thân đâu, hắn đã sinh nghi. Nhân lúc chúng ta chưa về kịp, hắn đã đưa Dharma đi cùng, hòng uy hiếp chúng ta.
Lòng như lửa đốt, tôi đứng lên, đi đi lại lại trong căn phòng ở trạm nghỉ Chindu.
Bát Tư Ba vô cùng ân hận, cơn ho khan ập đến, chàng vừa đưa tay lên ôm ngực vừa than trách:
- Tất cả là lỗi của ta! Chính ta đã đưa hắn lên vị trí bản khâm, cho hắn cơ hội để mua chuộc lòng người, tập hợp phe phái. Lúc phế bỏ chức vị của hắn, ta lại mềm lòng nương tay, vì xem nhẹ sức ảnh hưởng của hắn ở Sakya. Ta đã nhân nhượng, dung túng cho hắn, dẫn đến kết cục rối ren như bây giờ!
Sắc mặt chàng mỗi lúc một trắng bệch, tái xám, mồ hôi đầm đìa trên trán, những cơn ho dữ dội ào ạt kéo đến, chàng nôn ra máu rồi ngất đi. Tôi vừa đau lòng vừa sợ hãi, vội vã áp môi mình lên môi chàng, truyền linh khí cho chàng. Lúc lâu sau, sắc mặt của chàng mới dần hồi phục.
Trước lúc chàng tỉnh lại, tôi đã gắng gượng lê lết tấm thân mỏi mệt vì mất sức và linh khí đi mời Chân Kim đến và kể lại cho cậu ta nghe. Chân Kim lo lắng nhìn người thầy đang hôn mê bất tỉnh trên giường, an ủi tôi:
- Tiểu Lam, em đừng quá lo lắng về sự an nguy của Dharma. Kunga Zangpo nhất định sẽ bảo vệ nó. Hắn thừa hiểu rằng, nếu Dharma có bất cứ sơ sẩy nào, tính mạng của hắn cũng sẽ bị đe dọa. Nếu Dharma có chuyện gì, Phụ hoàng và ta sẽ bắt cả nhà hắn đền mạng.
Bát Tư Ba dần tỉnh lại, ánh mắt đờ đẫn nhìn Chân Kim, giọng chàng yếu ớt như gió thoảng:
- Phần đông võ tăng của Sakya đã theo hắn, thực lực của Sakya giảm sút nghiêm trọng. Nếu không dựa vào viện trợ từ bên ngoài, chúng ta không thể đối phó với hắn!
Chân Kim bước lên một bước, đề nghị:
- Thưa thầy, chi bằng để ta gửi thư về báo tin phái Sakya xảy ra nội loạn với Phụ hoàng, xin Phụ hoàng phái quân đội đến. Nếu Kunga Zangpo ngoan ngoãn giao nộp Dharma, chúng ta sẽ không phát động chiến tranh. Nhưng nếu hắn ngoan cố phản kháng đến cùng, đại quân Mông Cổ sẽ phanh thây hắn ra trăm nghìn mảnh!
Bát Tư Ba thở gấp một hồi rồi mới ngẩng lên nhìn Chân Kim, giọng vô cùng yếu ớt:
- Hiện đang là lúc Bệ hạ cần tập trung sức mạnh quân sự, Thái tử điều động đại quân Mông Cổ đến Sakya giúp ta giải quyết việc nhà thế này, ta đâu dám nhận!
Chân Kim liếc nhìn tôi rồi tiếp tục thuyết phục Bát Tư Ba:
- Việc nhà của thượng sư cũng là việc quốc gia đại sự. Điều động đại quân tới đây không chỉ để tiêu diệt bè lũ Kunga Zangpo mà còn đảm bảo để Dharma được thuận lợi kế thừa pháp thống của giáo phái Sakya.
Bát Tư Ba trầm ngâm một lát, nghiêng đầu thở dốc, vẻ mặt âu lo:
- Nhưng đại quân phải mất ít nhất hai năm mới đến được Sakya, không biết ta có thể gắng gượng đến lúc đó không.
Tim tôi thắt lại, tôi vội nắm chặt tay chàng:
- Chàng đừng lo, chắc chắn sẽ đợi được!
Chân Kim nhìn tôi lo lắng, nhưng tôi đã gật đầu quyết liệt để cậu ta yên tâm.
- Thưa thầy, ta sẽ hạ lênh cho đại quân tăng tốc để có thể đến được Sakya sau một năm rưỡi. Trong thời gian chờ đợi, xin thầy hãy giảm tốc độ, đi thật chậm và phao tin rằng sức khỏe của thượng sư đang rất nguy kịch, e là không về kịp Sakya. Kunga Zangpo đang nắm giữ Dharma trong tay, chắc chắn hắn sẽ hy vọng thượng sư sớm viên tịch để có thể lung lạc, khống chế Dharma được dễ dàng!
Tôi ngước nhìn người đàn ông chững chạc, chín chắn, khí độ phi phàm ấy, lòng không khỏi cảm phục. Cậu ta quả là người kế nghiệp xứng đáng mà Hốt Tất Liệt đã dốc lòng bồi dưỡng. Chỉ trong thời gian ngắn, cậu ta đã vạch ra một kế hoạch chu toàn và đó là kế sách hữu hiệu nhất lúc này.
Chúng tôi đã kết thúc hành trình trong vòng một năm rưỡi còn lại. Không cần phải phao tin đồn, vì tình trạng sức khỏe thực tế của Bát Tư Ba đã leo lét như ngọn đèn trước gió, chàng phải dựa vào linh khí của tôi để vượt qua cửa tử. Ngày 25 tháng 12 năm 1276, sau hai năm tám tháng lặn lội trên cung đường gian nan, hiểm trở, Bát Tư Ba trở lại quê hương Sakya trên miền núi tuyết quanh năm băng giá.
Ngôi đền Nam Sakya nguy nga, lộng lẫy, tọa lạc bên bờ Nam của dòng Trum-chu, nhìn sang phía bên kia của ngọn núi Benbo là đền Sakya.
Công trình kiến trúc đồ sộ kiểu thành trì chiếm toàn bộ dải sông Trum-chu bằng phẳng. Bốn phía là những bức tường thành được xây đắp bằng bùn đất, quét vôi màu đỏ, xanh, trắng, vốn là những màu sắc đặc trưng của phái Sakya. Bên ngoài tường thành còn có cả một công sự hình vuông bao xung quanh. Công sự này là bờ tường cao, dày, bốn phía đều có chòi canh và bia bắn tên để đề phòng quân địch tấn công, ở chính giữa xây thêm một chòi gác kiên cố. Công sự này giống hệt kiểu thành lũy của người Hán, bên ngoài còn đào hào sâu, cống nước ngầm, giống hệt những con sông bảo vệ thành phố ở đất Hán.
Toàn bộ công trình kiến trúc này chỉ có duy nhất một cổng chính ở phía đông, phía trên cổng là đài quan sát. Cổng thành xây dựng kiểu cổng vòm, cuốn tò vò, rất sâu, hình chữ “T”, bên trong có cửa tò vò. Phía trên vòm cổng khoan các lỗ nhỏ để nếu quân địch tấn công vào thành thì có thể ném đá hoặc những thứ khác qua lỗ này. Tuy nói đền Nam Sakya là một ngôi đền nhưng kiến trúc của nó chẳng khác nào một thành trì được canh giữ cẩn mật. Thành trì này vẫn đang trong giai đoạn thi công nhưng bố cục cơ bản đã thành hình, nơi ở của pháp vương, điện Lakhang đã được hoàn tất, vô cùng nguy nga, tráng lệ. Phân nửa công trình đang phải tạm dừng, lý do là phần lớn nhân công đã bỏ đến Khanochang nên không thể thi công đồng loạt.
Ngắm nhìn Phật điện nguy nga, tráng lệ trước mắt, Chân Kim nhận xét:
- Đền Nam Sakya được xây dựng vô cùng kiên cố, vững chắc. Ta vừa quan sát và nhận thấy, ngay cả những chi tiết nhỏ cũng đã được suy tính rất kĩ lưỡng, chu toàn. Kunga Zangpo quả là một nhân tài!
Bản khâm Sangtrum tiếp tục bẩm báo, trong vòng nửa năm sau khi về Khanochang, Kunga Zangpo đã dốc toàn bộ số của cải mang theo để xây dựng trang viên Khanochang, tường bao của khu trang viên này được xây dựng vô cùng kiên cố, ngoài ra, hắn còn chiêu binh mãi mã khắp nơi. Theo ước tính của Sangtrum, nếu cộng cả số võ tăng đã bỏ Sakya đi theo Kunga Zangpo thì hiện hắn đã có khoảng gần một vạn binh lính.
Quá lo lắng cho sự an nguy của Dharma nên tôi không kìm nổi lòng, vội nắm chặt tay áo Bát Tư Ba:
- Chúng ta hãy nghĩ cách đón Dharma về đây, được không? Chàng là bác ruột của nó, bác ruột về Sakya, Kunga Zangpo phải đưa nó về thăm chàng chứ!
Sangtrum đáp:
- Hắn đã cử người đến đưa tin rằng, tuy pháp vương đã về Sakya nhưng năm mới sắp đến nên sẽ để Thế tử ăn Tết xong mới đưa về thăm hỏi pháp vương.
Lòng tôi như lửa đốt. Hắn muốn bắt Dharma làm con tin, ngấm ngầm cảnh báo Bát Tư Ba không được manh động. Bát Tư Ba bóp chặt tay tôi, chàng muốn tôi hết sức kiềm chế và bình tĩnh, quay sang nói với Sangtrum:
- Ta biết rồi, bản khâm cứ lui ra đi!
Sangtrum cung kính vái lạy Bát Tư Ba:
- Vẫn còn một việc nữa xin bẩm báo với pháp vương. Con trai của ngài Yeshe, cậu Dani, hiện đang ở Sakya.
Thông tin này khiến chúng tôi không khỏi ngạc nhiên, Bát Tư Ba hỏi:
- Dani về đây bằng cách nào? Yeshe đã chết trong vụ phản loạn ở Vương phủ Vân Nam kia mà!
- Phu nhân của ngài Yeshe đã đưa con trai về Sakya hồi đầu năm nay.
Sangtrum liếc trộm Bát Tư Ba rồi rụt rè thưa:
- Phu nhân bảo rằng, dù sao cậu Dani cũng là con cháu nhà họ Khon, đưa cậu ấy về đây là để hoàn thành di nguyện của ngài Yeshe trước khi qua đời. Cậu Dani đã về đến giáo phái, bà ấy không còn quan hệ gì với Sakya, nói xong, bà ấy liền bỏ đi.
Bát Tư Ba trầm ngâm một lát, hỏi:
- Dani mười sáu tuổi rồi phải không?
Sangtrum đáp:
- Vâng. Dáng người cao lớn, rất giống ngài Yeshe. Cậu ấy rất thông mình, lanh lợi, chỉ có điều tính khí hơi cục cằn, thô lỗ.
Bát Tư Ba mỏi mệt xua tay:
- Ta biết rồi, cứ để nó ở lại. Các ngươi lui ra đi!
Trong phòng chỉ còn lại tôi và Chân Kim. Bát Tư Ba chìa tay về phía tôi, giọng nói run rẩy:
- Lam Kha, chúng ta đi thăm Kháp Na nào!
Tôi sững sờ, miệng đắng chát, khẽ gật đầu.
Điện thờ nguy nga, tráng lệ là thế vậy mà bên trong lại tối tăm, ảm đạm, chỉ có vài ô cửa sổ trên cao rớt xuống vài sợi nắng mong manh. Một tòa tháp hoàng kim cô đơn giữa gian thờ chính, ánh đèn dầu lập lòe chiếu sáng quanh tháp, soi tỏa sắc vàng lạnh lẽo. Kể từ lúc bước vào điện thờ, ánh mắt tôi đã gắn chặt vào tòa tháp nguy nga ấy, trái tim quặn đau từng hồi.
- Kháp Na, em về thăm chàng đây.
Tôi đặt đóa tuyết liên hái trên đỉnh núi Benbo vào chiếc bát pha lê, đóa tuyết liên dập dờn trên mặt nước, đẹp thánh khiết. Tôi đỡ lấy thân hình đang run rẩy vì xúc động của Bát Tư Ba, lồng tay vào bàn tay chàng, thủ thỉ:
- Kháp Na, chàng thấy không? Em và Lâu Cát đang ở bên nhau, em rất hạnh phúc. Em đã giữ lời hứa với chàng.
Chàng quay mặt đi, bờ vai rung động, hơi thở khó khăn, chàng đang gắng sức kìm nén những tiếng khóc. Nước mắt lưng tròng, tôi sụt sịt:
- Con trai chúng ta đã mười tuổi rồi, em vẫn chưa được gặp con. Nghe nói con giống chàng như đúc, chắc chắn là rất đẹp.
Tôi vuốt ve tòa tháp lạnh, áp má vào đó để cảm nhận cái giá buốt thấu tim gan, khẽ thì thào:
- Xin lỗi chàng vì em đã không ở bên con để được thấy con khôn lớn. Những năm tháng sau này, em nhất định sẽ luôn ở bên chăm sóc, bảo vệ con trai và cháu chắt của chúng ta, đời đời kiếp kiếp, cho đến khi em trút hơi thở cuối cùng.
Bát Tư Ba cũng nước mắt vòng quanh, chàng lặng ngắm tòa tháp rồi chậm rãi nói:
- Lam Kha, có chuyện này ta vẫn giấu em. Hôm đó, sau khi hỏa táng Kháp Na, ta lượm được một hạt Xá Lợi lấp lánh tựa ngọc lưu ly bảy màu, đó là viên ngọc kết tụ thể xác và linh hồn của Kháp Na. Ta đã đặt viên ngọc Xá Lợi đó lên đỉnh tòa tháp.
Chàng quay lại nhìn tôi, gương mặt an nhiên, khóe môi nở nụ cười hồn hậu, ấm áp:
- Sau khi tiêu diệt xong đám bội phản, ta có thể yên tâm ra đi được rồi.
Tôi đặt tay lên miệng chàng, nước mắt giàn giụa, lắc đầu phản đối. Chàng gỡ tay tôi xuống, nhìn tôi âu yếm:
- Lam Kha à, đừng tránh né thêm nữa, ta đã có sự chuẩn bị nên không hề sợ hãi. Hãy nghe ta nói, khi ta vẫn còn đủ tỉnh táo để trò chuyện.
Chàng chỉ tay vào mảnh đất trống bên cạnh, vạch một vòng tròn.
- Em hãy xây một tòa tháp như thế này ngay bên cạnh tháp hoàng kim của Kháp Na. Nếu sau khi hỏa táng, linh hồn và thể xác của ta cũng biến thành ngọc Xá Lợi, em hãy đặt Xá Lợi của ta và Kháp Na ở cạnh nhau. Phần tro cốt còn lại hãy đặt vào trong tháp. Hai anh em ta ở bên nhau, sẽ không còn cô đơn nữa…
Tôi khóc hết nước mắt, đứt từng khúc ruột khi thấy chàng bình tĩnh sắp xếp chuyện hậu sự của mình. Chàng thở dài, bước lại, kéo tôi vào lòng, để tôi tựa lên bờ vai gầy guộc của chàng, khóc cho thỏa.
Ra khỏi linh tháp của Kháp Na, tôi đề nghị được đi thăm ngôi nhà gỗ của Dharma. Vì sự an toàn của Dharma, Bát Tư Ba không cho phép đưa thằng bé ra khỏi căn nhà này. Những đồ chơi trẻ con mà năm xưa tôi và Kháp Na chuẩn bị cho con trai, nay đã được xếp gọn, thay vào đó là hàng chồng những kinh văn được viết bằng thứ mực nấu chảy tử vàng [1] và lá bối diệp [2], xếp kín các bức tường. Xem ra thằng bé này rất ham đọc sách. Tôi mân mê từng đồ dùng của con, như thể làm vậy là có thể chạm vào thân hình bé nhỏ của con vậy. Bát Tư Ba trầm ngâm nhìn ngắm tôi, ánh mắt sầu muộn.
=========
[1] Những bộ kinh Phật thường được chép theo phương pháp này vào thời nhà Nguyên. (DG)
[2] Bối diệp (lá bối), còn gọi là Bối Đa La diệp. Tiếng Phạn gọi là Pattra, dịch là “Diệp”, là một loại cây cọ - thực vật miền nhiệt đới, mọc nhiều tại các khu vực hướng Tây Nam Ấn Độ, Mianma và Nam Trung Quốc, lá dài mà dày, có thể dùng để ghi chép kinh văn. Trong Chu Ái Liên Trúc Ký Du thứ mười bốn, quyển 2 có viết: “Bối diệp là một loại lá cây lớn tại Tây Thiên, sáng bóng và sạch sẽ, có thể dùng để viết kinh sách.” Trước khi phát minh ra giấy, Ấn Độ thời cổ đã dùng lá Bối Đa La để ghi chép kinh điển Phật giáo và tư liệu văn hiến của cung đình. Hiện nay, tại khu vực Nam Ấn Độ và Phật giáo Nam truyền, người ta vẫn tiếp tục sử dụng loại lá này. (DG)
Đêm Giao thừa, cả gia đình quây quần bên nhau cùng ăn bữa cơm đoàn viên. Kể từ khi Bạch Lan Vương qua đời, đã rất lâu rồi phái Sakya không được đón một ngày náo nhiệt như thế. Các em gái, em rể, cháu trai, cháu gái của Bát Tư Ba đều tới thăm hỏi, chúc tết pháp vương, chỉ trừ gia đình Zhuoma. Trong bữa tiệc, Bát Tư Ba hồ hởi giới thiệu tôi với mọi người và yêu cầu họ gọi tôi là Lam phu nhân. Ngay lập tức, họ xem tôi như là một nhân vật quan trọng, cần thiết phải kết thân.
Hôm đó, tôi đã gặp Dani. Đúng như Sangtrum miêu tả, thằng bé giống hệt Yeshe. Mười sáu tuổi mà cao lớn, vạm vỡ, chân tay chắc nịch, nhanh nhẹn. Tuy dung mạo bình thường nhưng cơ thể săn chắc, cường tráng, sắc mặt hồng hào, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Dani rất mực cung kính, lễ phép với Bát Tư Ba, gọi chàng rất thân mật: “bác cả”. Nhưng Bát Tư Ba lạnh lùng đáp lại:
- Hãy gọi ta là pháp vương.
Mọi người đều tỏ ra kinh ngạc, Dani lúc thì đỏ mặt, lúc thì tái mặt, khuôn ngực phập phồng dữ dội. Trước mặt nhiều người như vậy mà Bát Tư Ba chẳng chịu giữ thể diện cho Dani, không cho thằng bé gọi mình là bác. Làm vậy, khác nào tuyên bố với mọi người trong giáo phái rằng, Dani không phải là cậu chủ là phái Sakya.
Không ai biết đã xảy ra chuyện gì nhưng người hầu của Dani lập tức dọn bát đũa của thằng bé đến một nơi cách xa trung tâm đại điện. Dani bàng hoàng trước vẻ mặt hiếu kỳ của mọi người và tức tối nhìn Bát Tư Ba. Bát Tư Ba yên lặng không nói, chiếu ánh mắt sắc lạnh về phía Dani. Cậu bé lập tức cúi đầu, sợ hãi, ngồi vào một mâm cỗ ở góc xa. Trong bữa tiệc cuối năm ấy, không ai mời rượu Dani.
Buổi tối, khi chỉ có tôi và Bát Tư Ba trong phòng, tôi giúp chàng cởi áo khoác, lựa lời nói:
- Dani còn nhỏ, tội lỗi của Yeshe không liên can đến thằng bé. Chàng làm vậy có hơi quá không?
Bát Tư Ba nhắm mắt, mệt mỏi ngả lưng xuống đệm:
- Lam Kha, ta sẽ không trút tội lỗi của Yeshe lên đầu Dani, đó không phải hành vi tư thù cá nhân. Sở dĩ ta phải làm vậy vì muốn tất cả những người ở Sakya này biết rằng, Dani chắc chắn không phải, tuyệt đối không phải là người kế thừa tương lai của giáo phái. Những kẻ bợ đỡ nó sẽ không được bất cứ lợi lộc gì cả. Nếu không làm thế, lỡ một ngày nào đó, có kẻ nuôi mưu đồ đưa Dani lên ngôi vị pháp vương, khi ấy Dani cơ trí, khôn ngoan, già dặn sẽ trở thành mối uy hiếp rất lớn đối với Dharma.
Tôi lặng yên không nói. Trong lòng chàng lúc này, Dharma là tất cả. Chàng muốn gạt phăng mọi trở ngại, dọn đường cho Dharma tiến bước, thậm chí chàng không màng phải mang tiếng ác. Mong là ngày sau, cuộc đời của Dharma sẽ được bình yên, tiền đồ tươi sáng như chàng kỳ vọng.
Ăn Tết xong, sứ giả mà Bát Tư Ba cử đến Khanochang đón Dharma trở về, mang theo tin tức: Thế tử chỉ muốn ở lại Khanochang với gia đình nhà vợ, không muốn về Sakya. Tôi hỏi đi hỏi lại, những lời này có phải do chính Thế tử nói ra hay không, sứ giả đã khẳng định chắc chắn.
Nhưng chúng tôi đều biết rằng có kẻ đã mớm lời. Xem ra, lời hứa đưa Dharma về Sakya thăm bác sau Tết của Kunga Zangpo chỉ là kiếm cớ kéo dài thêm thời gian mà thôi.
Sứ giả còn mang theo một bức thư Kunga Zangpo gửi cho Bát Tư Ba. Lời lẽ trong thư rất mực kính cẩn, khách sáo. Hắn nói, Thế tử được vợ chồng hắn nuôi nấng từ nhỏ, từ lâu đã xem như con đẻ, không nỡ rời xa. Nghe nói sức khỏe của pháp vương không được tốt, sau khi về Sakya lại có muôn việc phải lo toan nên e là khó có thể chăm sóc cho Dharma được chu đáo. Hắn xin Bát Tư Ba hãy yên lòng, để Thế tử sống với vợ chồng hắn. Hắn hứa sẽ hết lòng chăm lo cho Thế tử.
- Em sẽ đi đón con em về.
Tôi bật dậy, lao ra ngoài. Tôi không thể để con trai mình trở thành con tin trong tay hắn.
Chân Kim vội đuổi theo, chắn trước mặt tôi:
- Tiểu Lam, đừng hành động lỗ mãng! Senge cùng bảy mươi ngàn binh mã sắp đến Sakya, lúc này, em không nên bứt dây động rừng.
Tôi né tránh cậu ta, tiếp tục bước đi:
- Tôi phải cứu con trai ra khỏi đó, trước khi đại quân tấn công Khanochang. Tôi có phép thuật, tôi có thể ra vào trang viên đó dễ dàng.
Chân Kim giữ chặt cánh tay tôi lại, nhìn tôi bằng ánh mắt sắc sảo:
- Em có phép thuật nhưng Dharma thì không. Em làm thế nào để đưa cậu bé thoát khỏi trang viên được canh giữ vô cùng cẩn mật ấy? Hơn nữa, cậu bé chưa gặp em bao giờ, sẽ không tin tưởng và ngoan ngoãn đi theo em đâu.
Bước chân tôi chậm lại, tôi khổ sở quay về. Chân Kim nói đúng, tuy tôi có thể hóa phép lẻn vào Khanochang nhưng linh khí của tôi đã bị hao tổn quá nửa để duy trì sự sống cho Bát Tư Ba nên tôi không còn đủ sức để có thể hóa phép tàng hình cho thằng bé và đưa nó đi cùng, huống hồ nó sẽ chẳng bằng lòng đi theo tôi.
Chân Kim ra sức động viên:
- Ta biết em lo lắng cho sự an toàn của con trai. Nhưng em phải kiên nhẫn. Ta hứa sẽ đưa Dharma bình yên trở về.
Nước mắt tôi tuôn rơi, lòng dạ rối bời:
- Nhưng Dharma là quân cờ quan trọng nhất trong tay hắn, chắc chắn hắn sẽ chống cự đến cùng để giữ cho bằng được, huống hồ gươm đao vốn không có mắt, tôi làm sao mà yên lòng được khi Dharma mới chỉ là một đứa trẻ mười tuổi.
Bát Tư Ba lo lắng, chìa tay về phía tôi, gọi tôi lại:
- Lam Kha, ta có cách bắt Kunga Zangpo ngoan ngoãn đưa Dharma về đây.
Cả tôi và Chân Kim đều sững sờ. Tôi chạy đến bên chàng:
- Chàng có cách gì?
Bát Tư Ba hổn hển một hồi rồi đáp:
- Ta đã suy tính kĩ càng và quyết định thông báo cho tất cả các giáo phái trên toàn đất Tạng, rằng phái Sakya sẽ tổ chức một pháp hội lớn nhất từ trước tới nay ở Chumig, tuyên bố quyền thừa kế pháp thống của Dharma.
Chân Kim hào hứng vỗ tay:
- Ý kiến của thầy rất sáng suốt! Một sự kiện quan trọng như thế,Kunga Zangpo không thể không đưa Dharma đến dự. Chỉ cần Dharma không có mặt ở Khanochang, ta sẽ lệnh cho Senge lập tức tấn công trang viên của Kunga Zangpo.
~.~.~.~.~.~
- Tháng 1 năm 1276, quân Nguyên tấn công Lâm An, Thái hậu và Đức vua Nam Tống đã dâng biểu xin hàng.
Chàng trai trẻ ngáp ngắn ngáp dài, xoa hai má để giữ cho mình được tỉnh táo, đồng thời xin lỗi:
- Xin lỗi, tôi hơi buồn ngủ.
Rồi cậu ta đột nhiên “a” lên một tiếng.
- Tóc cô…
Tôi đón lấy một lọn tóc, thấy quá nửa số sợi tóc đã biến thành màu trắng. Tôi nhún vai, ơ hờ:
- Tôi nhiều tuổi rồi, có gì lạ đâu.
Rồi tôi ngó đồng hồ, đã ba rưỡi sáng. Tôi nhìn chàng trai trẻ, động viên:
- Câu chuyện sắp kết thúc rồi, cậu có thể cố gắng thêm chút nữa không?
Thấy cậu ta gật đầu, tôi mới tiếp tục câu chuyện.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT