Đồng Hề nhàn nhã sai người mắc một chiếc võng trong rừng rồi sai thị vệ tản đi canh giữ những nơi nàng không nhìn thấy, còn nàng thì nhắm mắt nằm trên võng, hưởng thụ ánh nắng ấm áp xen qua kẽ lá chiếu trên người.

Tề Vân đắp thêm cho nàng chiếc chăn mỏng.

Dù là thi bắn tên hay thi săn thú, nàng chắc chắn sẽ thua Vạn Mi Nhi. Tuy mẫu thân bắt nàng học cưỡi ngựa nhưng vì đao kiếm không có mắt, đồng thời đó cũng là thứ con gái không nên đụng vào nên nàng chưa bao giờ phải học bắn tên. Bởi lẽ đó, nàng đành dẫn theo thị vệ tìm một nơi khô ráo, mát mẻ trong rừng sâu để nghỉ ngơi. Có thị vệ săn được thú bèn đem nướng cách chỗ nàng không xa. Với thân phận của mình, đương nhiên nàng không hề cảm thấy loại thức ăn được chế biến qua loa đó có gì ngon, chỉ có điều mùi hương ấy khi quyện với hương lá rừng bỗng trở nên háp dẫn vô cùng.

Cuộc sống thế này cũng xem như “trộm kiếp phù du nửa ngày nhàn(*)” nàng chợt nhớ tới quãng thời gian ở biệt trang xưa kia, mỗi khi gặp phải những vị thầy khô khan, nàng thường giả bệnh trốn học.

(*) Trích trong bài thơ Đề Hạc Lâm tự bích (Đề trên tường chùa Hạc Lâm) của Lý Thiệp, nguyên văn: “ Thâu đắc phù sinh bán nhật nhàn”. Ngụ ý chẳng mấy khi được rảnh rỗi.”

“Nàng thấy thắng chắc rồi nên mới tiêu diêu tự tại ở đây sao?”

Đương lúc thiu thiu, Đồng Hề bỗng bừng tỉnh vì một giọng nói lạnh lẽo.

Nàng mở mắt, thấy Thiên Chính Đế đang ngồi trên lưng ngựa. Nàng bèn đỏ mặt, vội vàng đứng dậy hành lễ như một đứa bé mắc lỗi bị người lớn bắt được. Thực ra, tuyến đường này ngược với tuyến đường mà Thiên Chính Đế chọn. Theo lời một thị vệ có kinh nghiệm, Thiên Chính Đế rất ít khi tới đây bởi nơi này không có nhiều thú săn.

“Chi bằng để trẫm thưởng thức tài bắn tên của Quý phi, xem nàng có nên tự tin đến thế không.”

“Thần thiếp không biết bắn tên.” Đồng Hề lí nhí đáp.

“Nói vậy là Quý phi cố ý muốn tặng Yên Chi cho Thuần Nguyên Phu nhân rồi! đã không biết bắn, sao còn đề nghị thi đấu?”

Đồng hề bỗng cảm thấy đầu mình như muốn nổ tung.

“Thần thiếp chỉ biết cưỡi ngựa sơ sơ, học mót được mấy chiêu làm màu thôi. Luận về cưỡi ngựa hay bắn tên, thần thiếp đều kém Thuần Nguyên Phu nhân rất nhiều. Yên Chi về tay thần thiếp thì quá phí của!”

Rất lâu sau, Đồng Hề mới nghe thấy tiếng Thiên Chính Đế cất lên:

“Thế nên chiếc yên ngựa vàng mà trẫm phải trả một giá lớn để mang về cứ thế bị nàng mượn hoa hiến Phật?”

Đồng Hề sững sờ. Áp lực của mấy từ “một giá lớn” quá khủng khiếp. Tuy nàng không biết cụ thể thế nào nhưng chuyện mượn hoa hiến Phật trong hậu cung là chuyện rất bình thường. Có thứ nào không phải do Hoàng thượng ban? Bởi thế nàng thực sự không hiểu vì sao người lại giận dữ đến vậy. Giọng người lạnh lùng như nước đá. Huống chi, chẳng phải sau đó vật cá cược đã không còn là Yên Chi mà thay vào đó là sử sủng ái của người rồi hay sao? Nàng nghĩ tới ván cược ấy mà có chút thẹn thùng.

“Trẫm rất tò mò, chẳng lẽ ngay từ đầu Quý phi đã định giành lấy Yên Chi từ tay Thuần Nguyên Phu nhân để rồi sau đó trả lại?” Thiên Chính Đế nói bằng giọng giễu cợt.

Ánh mắt Đồng Hề lóe lên vẻ chột dạ, song nàng vẫn quyết tâm thử một phen. Nàng ngước đôi mắt lấp lánh ánh nước vì sợ hãi lên.

“Thần thiếp sợ mình không xứng với chiếc yên vàng kia, trước đó may được Thuần Nguyên Phu nhân nhường cho.”

Đồng Hề vô cùng bất an, không biết Thiên Chính Đế có hiểu hay không. Nàng vốn không thích tố cáo ai, bởi như thế là tự hạ thấp mình, nhưng nay nàng bắt buộc phải làm vậy. Từ tặng ngựa tới thi đấu, chắc Thiên Chính Đế có thể liên hệ hai chuyện này chứ?

“Nàng là quý phi của trẫm, sao trẫm có thể tùy tiện tặng cho kẻ khác?Nỗi nhục đó trẫm không thể chịu được, Cảnh Hiên hoàng triều cũng không chịu được. Sự an nguy của thiên hạ, sao có thể đè lên vai một người con gái?Thân vương Tahua đã có ý đồ sẵn, nàng chẳng qua chỉ là một cớ thôi.”

Thiên Chính Đế nói vậy, hòn đá đè nặng trong tim nàng mới được trút bỏ. Nàng cảm kích nhìn người, thảo nào thiên hạ đều ca ngợi người là bậc minh quân. Nghĩ lại câu nói kia, nàng chợt cảm thấy đêm đen như thú dữ lui bước, chỉ còn lại ánh sáng rạng ngời tỏa lan đến vạn dặm.

“Chỉ trách thàn thiếp ngu xuẩn!” Đồng Hề tạ tội, khi ngẩng đầu lên chợt cảm thấy vắng lặng, Tề Vân và đám người theo hầu Thiên Chính Đế không biết đã đi đâu, từ lúc nào. Mỗi khi chỉ có hai người ở riêng bên nhau, nàng lại thấy căng thẳng. Bỗng nàng nảy sinh một ý tưởng lớn mật.

“Xin Hoàng thượng dạy thần thiếp bắn tên!” Nàng khẽ nói, không dám ngẩng đầu. Được người dạy tất nhiên là tốt, không được thì cũng chẳng sao cả. Thiên Chính Đế đã ám chỉ rõ ràng đến thế, nàng không thể tiếp tục giả ngốc, cố ý thua trận này được. Dù có muốn hay không, nàng cũng phải tỏ vẻ vô cùng mong ngóng được người sủng ái, bởi vì ân sủng chính là chỗ dựa duy nhất của cung phi.

Thiên Chính Đế nhảy xuống khỏi lưng ngựa, nói:

“Đồ đệ của trẫm không thể thua.”

Đồng Hề ngẩng phắt đầu lên, đoán không thấu suy nghĩ của Thiên Chính Đế. Người đang hy vọng nàng thắng ư? Nàng bỗng thấy vui vẻ. Nếu điều đó là thật, vậy thì người vẫn coi trọng quý phi này, tức là nàng vẫn còn hy vọng với vị trí kia, đúng không?

Nàng thực sự nên thắng cuộc thi này. Ba ngày! Nếu giành được ba ngày đó, chẳng phải nàng sẽ có rất nhiều cơ hội để thu hút sự chú ý của người, khôi phục lại thịnh sủng của ba năm trước ư? Thực ra, khi đó cũng không được tính là thịnh sủng. Tuy thỉnh thoảng người sẽ tới Đồng Huy cung ngồi chơi vào những ngày không phải ngày lâm hạnh, nhưng người chưa từng vì nàng mà phá luật mưa móc ban đều, điều ấy khiến nàng cảm thấy rất thoải mái.

Chỉ trong nháy mắt, nàng bỗng nghĩ ra rất nhiều ý tưởng, mỗi ý tưởng đều nhắm vào sở thích của Thiên Chính Đế.

Thị vệ đã xuất hiện bên cạnh từ lâu, dâng lên chiếc cung dạng nhẹ chuyên dành cho phái nữ sử dụng. Thiên Chính Để ôm lấy Đồng Hề từ phía sau, áp chặt vào người nàng, kéo tay trái của nàng lên, dạy nàng cách cầm cung, rồi lại nắm lấy tay phải của nàng, dạy nàng cách cầm tên. Người khẽ nói bên tai nàng:

“Thân người phải thẳng, không được rụt cổ, không được lộ cánh tay, không được khom lưng, không được ngả về sau, không được ưỡn ngực, đó là những quy tắc căn bản.”

Hơi thở của người phả phả vào tai Đồng Hề như trêu chọc, khiến nàng ngây người. Nàng cũng không quen thân mật với người khác như thế, dù cho đó là người thân thiết với nàng nhất.

Tay người trượt xuống eo nàng, chỉnh nàng đứng thẳng người, sau đó dẫn dắt bàn tay nàng dồn lực, từ từ kéo căng dây cung.

“Mắt nhìn vào hồng tâm, khi bắn phải quyết đoán và bình tĩnh.”

Không gian nơi đây không được trống trải nên họ bèn lấy một gốc cây làm bia, chấm một dấu đỏ lên trên. Đồng Hề bắn theo bàn tay hướng dẫn của Thiên Chính Đế, trúng vào hồng tâm.

Đến khi Thiên Chính Để để nàng tự luyện tập, nàng mới biết được kèm bắn và tự bắn là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Nàng thường không biết mũi tên của mình bay đi tận đâu, còn người vẫn kiên nhẫn chỉ bảo cẩn thận, không hề nóng nảy. Đồng Hề bỗng thấy mình phải nhìn Thiên Chính Để bằng con mắt khác. Trước kia, mỗi lần nàng gặp người, người luôn nóng nảy bắt nàng thị tẩm chứ chưa bao giờ kiên nhẫn tới mức này, đồng thời nàng cũng không ngờ rằng mình có thể thân mật với người đến thế.

“Đang nghĩ gì đấy? Tập trung là điều quan trọng nhất khi bắn, bình tĩnh cũng là một yếu tố quan trọng.”

Nàng hít một hơi thật sâu, cố gạt bỏ những suy nghĩ linh tinh. Lần này tuy vẫn chưa bắn trúng nhưng mũi tên của nàng cũng đã chạm nhẹ vào bia. Chủ yếu là do nàng không đủ sức nên mũi tên không thể cắm vào thân cây.

Cuối cùng, Thiên Chính Để cũng sinh lòng từ bi, đưa Đồng Hề lên ngựa, tìm vật sống cho nàng tập bắn.

Nàng cảm thấy bộ môn này rất thú vị, nó mang đến cho nàng cảm giác quyền lực khi sự sống của vạn vật đều nằm dưới mũi tên của nàng. Vừa mới bắt đầu, nàng đã mèo mù vớ cá rán trúng một con chim trĩ, bởi vậy càng thích thú hơn.

Cuối cùng, hai người gặp con mồi đẹp nhất trong ngày hôm nay, đó là một con hươu trắng. Nó đang uống nước trong đầm. Thiên Chính Để đã giương cung mà con hươu đấy vẫn không cảm nhận được điều gì. Khi mũi tên đã lên cung, nó mới nguớc đôi mắt tuyệt đẹp về phía họ, trong ánh mắt như chất chứa cầu xin.

Cuối cùng, mũi tên Thiên Chính Để bắn ra cắm ngay trước mặt con hươu, nó hoảng hốt bỏ chạy bạt mạng.

Chập tối, người đưa Đồng Hề về doanh trại. Đã đến giờ hẹn với Vạn Mi Nhi.

Văn Mi Nhi đã tới từ trước. Nàng ta có chút sửng sốt khi thấy Thiên Chính Để và Đồng Hề về cùng nhau. Khi họ lại gần, nàng ta mới cong môi nói:

“Không ngờ Quý phi muội muội lại bắn tên giỏi đến vậy, săn được biết bao nhiêu là thú, xem như Mi Nhi thua tâm phục, khẩu phục rồi.” Nàng ta nhìn con ngựa được thị vệ dắt phía sau Đồng Hề, trên lưng ngựa chở rất nhiều thú săn.

Đồng Hề chột dạ. Nàng chỉ săn được một con chim trĩ, đã vậy còn là một con chim trĩ già đến nỗi không bay được nữa. Thiên Chính Để không lên tiếng, chỉ lẳng lặng xuống ngựa rồi đi về phía doanh trại.

Đồng Hề đưa mắt nhìn theo bóng người, cuối cùng vẫn không dám tranh công. Nói dối trước mặt Hoàng thượng là điều không hay.

Thuần Nguyên Phu nhân hiểu lầm rồi, bản cung chỉ săn được một con chim trĩ thôi, số còn lại đều do Hoàng thượng săn được.”

“Chỉ e vì Hoàng đế ca ca ở bên nên Quý phi muội muội không tập trung được, do đó mới săn được một con chim trĩ. Quý phi muội muội thua ván này đều là lỗi của Hoàng đế Ca Ca. Giọng của Vạn Mi Nhi to tới nỗi Thiên Chính Đế cũng có thể nghe thấy. Nàng ta nhiệt tình khoác tay Đồng Hề theo sau người. “Nếu là do Hoàng đế ca ca thì chúng ta coi như huề. Ba ngày đó, tỷ muội ta cùng bầu bạn với Hoàng thượng là được.”

Cả lời nói lẫn cử chỉ của Vạn Mi Nhi đều rất thân thiết, thậm chí có chút ngốc nghếch, khiến Đồng Hề suýt nữa cho rằng mọi đánh giá trước kia của nàng về nàng ta đều là ảo giác.

Thiên Chính Để không nói gì, chỉ cầm lấy cốc sữa ngựa mà thị tùng dâng lên, uống một ngụm, ánh mắt lộ vẻ phức tạp không sao diễn tả nổi.

Đồng Hề cảm thấy hơi đau đầu. Nàng chưa bao giờ đoán được hàm ý trong ánh mắt ấy. Bầu không khí bỗng chốc trở nên lạnh lùng.

“Thua là thua, chắc Quý phi cũng mệt rồi, đi nghỉ sớm đi!” Thiên Chính Đế cất giọng với vẻ mất kiên nhẫn.

Đồng Hề thở phào, lui xuống như được đại xá. Ba ngày sau đó, ở nơi nào trên thảo nguyên cũng có thể nghe thấy tiếng cười lạnh lảnh của Vạn Mi Nhi. Thiên Chính Đế còn chọn cho nàng ta một con ngựa tốt có thể đi ngàn dặm, lại đích thân thuần phục nó, đặt tên là Trục Nguyệt. Cái tên này vừa khéo tạo thành một cặp với cái tên Trục Nhật của con ngựa mà Thiên Chính Đế cưỡi, khiến các phi tần khác còn ghen tị hơn cả khi Đồng Hề được tặng chiếc yên vàng.

Trước hôm họ về kinh một ngày, Thân vương Tahua đúng ra cử hành bữa tiệc chia tay đầy long trọng. Trong bữa tiệc còn Có dũng sĩ nổi danh nhất thảo nguyên tham gia đấu vật.

“Dân tộc sống trên lưng ngựa như chúng ta chỉ tôn trọng anh hùng chân chính!” Thân vương Tahua nhìn Thiên Chính Đế đầy khiêu khích. “Nghe đồn thời niên thiếu, Bệ hạ từng tòng quân, nổi danh anh dũng, uy chấn tứ phương, không biết ta có vinh hạnh được chứng kiến thiên uy của Bệ hạ không?”

Tuy ngoài mặt thần phục nhưng trong bụng hắn vẫn coi thường Thiên Chính Để tuấn tú, tao nhã. Đàn ông trên thảo nguyên không thần phục một ai đó chỉ vì người ấy đẹp trai.

Thiên Chính Để nhấp một ngụm rượu sữa ngựa, tủm tỉm đáp:

“Nghe đồn tài bắn cung của Vương gia được ca tụng là đệ nhất Mông Cổ, trẫ m cũng muốn được mở mang tầm mắt.”

Thân vương Tahua A Lỗ Đài hào sảng vỗ lên bàn .

“Được! Mang tên ra đây, chuẩn bị bia ngắm!”

Cận vệ của A Lỗ Đài lập tức đặt ba chiếc bia cách đó hơn trăm bước. Chiếc bia đầu tiên treo một đồng tiền, phải bắn trúng vào tâm đồng tiền mới được coi là trúng, nếu làm được điều này quả xứng với danh “thiện xạ như thần”. Chưa bàn tới chuyện bắn, chỉ riêng việc có thể nhìn rõ đồng tiền cách xa hơn trăm bước đã là hó rồi.

Bia thứ hai treo một quả bóng nhưng cũng không hẳn là bóng, nó được bọc bằng những miếng sắt màu vàng. Phần đầu nhọn của những miếng sắt tụ lại một chỗ, được khóa lại bằng khóa đồng. Mũi tên bắt buộc phải bắn trúng chiếc khóa đồng đó. Sau khi ổ khóa được mở, quả cầu vàng kia sẽ tỏa thành một đóa sen tuyết màu vàng tuyệt đẹp. Nhiệm vụ này đòi hỏi không được bắn quá mạnh cũng không được bắn quá nhẹ, nếu bắn quá mạnh sẽ xuyên thủng quả bóng vàng, làm hỏng bông hoa, còn nếu bắn quá nhẹ sẽ không phá nổi khóa.

Chiếc bia cuối cùng thì treo một tấm lụa. Thử thách này là khó nhất bởi vì lụa rất mềm, khi bắn bắt buộc phải góc độ thật chuẩn mới có thể bắn xuyên qua, hơn nữa, khi mũi tên xé gió bay đi, rất có thể sẽ thổi bay tấm lụa, khiến mũi tên bị lọt xuống dưới.

Đừng nói là hoàn thành được cả ba thử thách này, chi càn thực hiện được một thử thách thôi đã là rất cừ rồi. Đồng Hề lo lắng theo sau Thiên Chính Đế.

A Lỗ Đài đang tỏ rõ sự không phục nên mới gây khó dễ cho Thiên Chính Để bằng cách này. Nếu không cẩn thận, chưa biết chừng tiệc chia tay vui vẻ lại biến thành buổi tống tiễn lạnh lùng và ảm đạm. Nàng không muốn thấy A Lỗ Đài và Thiên Chính Để nảy sinh mâu thuẫn.

“Nếu Hoàng thượng lo lắng, có thể bảo người khác lên thay.” Lời này của A Lỗ Đài chặn đứng đường lui của Thiên Chính Đế. Đồng Hề vốn định khuyên Thiên Chính Để từ chối, nay buộc phải nín nhịn.

“Không cần!” Giọng người vẫn vô cùng bình tĩnh. “Vương gia là chủ nhà, chỉ bằng để vương gia mở màn trước.”

A Lỗ Đài không hề đùn đẩy mà cầm ngay cung lên. Cây cung này phải hai người đàn ông Mông Cổ mới nhấc lên nổi, tên cũng phải dùng loại đầu mũi dài năm tấc, thân dài ba thước, nếu không sẽ không bắn trúng chiếc bia xa hơn trăm bước kia.

Mấy hôm trước, khi học bắn tên, Thiên Chính Đế đã giảng giải cho Đồng Hề không ít. Dây cung của A Lỗ Đài chỉ e không mấy ai ở đây có thể kéo căng hết mức.

Vì là thi đấu nên A Lỗ Đài đã thu liễm vẻ kiêu ngạo và không phục. Hắn đứng thẳng người, tựa như mọc rễ trên mặt đất, nàng chỉ sợ bãi cỏ bị hắn giẫm lún cả. Bỗng một tiếng “vút” vang lên, tên bay khỏi cung, trúng ngay tâm đồng tiền.

Xung quanh rộn tiếng hò reo, A Lỗ Đài ngẩng đầu đầy kiêu ngạo. Sắc mặt Thiên Chính Để thoáng đanh lại nhưng cũng không tỏ vẻ kinh ngạc lắm.

Sau đó, A Lỗ đài bắn tiếp hai mũi tên nữa, tất nhiên đều trúng. Ba mũi trúng cả ba, cùng lắm Thiên Chính Đế chỉ có thể hòa với hắn.

“Bệ hạ, mời!” A Lỗ Đài nhấc tay với vẻ ngạo mạn.

Mang cung Xa Nhật ra cho ta!” Thiên Chính Đế cất tiếng. Ba gã thị vệ lập tức khiêng cũng tới. Người nhẹ nhàng vuốt ve cây cung đã ố đen và có vẻ ngoài vô cùng bình thường kia, tựa như một người bạn đã lâu không gặp.

Sau đó, người nhảy lên lưng Trục Nhật, phóng như bay tới chỗ bắn cung, dường như không cần quan sát, dứt khoát bắn ra ba mũi tên. Không những cả ba mũi tên đều trúng mục tiêu mà phong thái của Thiên Chính Đế còn rất ung vẽ tranh vậy. Tiếng vỗ tay trỗi dậy như sấm, ngay cả những dũng sĩ Mông Cổ vốn kiêu ngạo cũng ra sức hò reo. Đó chí cách hào sảng của họ, dù là địch hay bạn, chỉ cần là anh hùng thì họ sẽ khâm phục.

Bắn cung trên mặt đất và bắn cung trên lưng ngựa là hai cấp độ hoàn toàn khác nhau, bởi tốc độ của ngựa rất nhanh khiến người bắn không kịp ngắm đích. Thông thường, trên chiến trường, kẻ địch sẽ không đứng yên đợi người tới ngắm bắn như tấm bia.

Lần này, mặt A Lỗ Đài đỏ bừng.

“Tài bắn cung của Bệ hạ thật cừ khôi, A Lỗ Đài thần tâm phục khẩu phục!”

Thiên Chính Để mỉm cười, ghìm ngựa quay về chỗ cũ.

Chúng cung phi đều đứng dậy, nghênh đón vị anh hùng khải hoàn. Từ cổ chí kim, ngoài dũng sĩ khâm phục anh hùng thì người yêu anh hùng nhất chính là mĩ nhân.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play