*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.Gió bên ngoài rất lớn, thổi vào cửa sổ phát ra tiếng vang. Tôi bị tiếng động này đánh thức, gió lạnh xuyên qua cửa sổ thổi vào mặt tôi, hít thở cũng trở nên khó khăn.
Nửa tiếng sau, tôi mặc áo khoác dày, uống một viên thuốc giảm đau cho chân, bước cầu thang xuống nhà hàng. Tầng một vẫn không có người, ông chủ khoanh hai tay trước ngực ngồi sau quầy bar, như thể thật sự nhìn TV ở trên góc tường.
Lúc tôi đi xuống bậc cầu thang cuối cùng, anh ta cũng không quay đầu lại mà chỉ hỏi: “Buổi tối muốn ăn gì? Hiện giờ đúng lúc nhà bếp nổi lửa.”
Tôi chỉnh lại tóc: “Cái gì… Đã tới thời gian ăn tối rồi sao?”
“Nếu không cô cho là gì?” Anh ta tranh thủ liếc qua tôi, sau đó lại quay đầu xem TV.
Tôi thấy kì lạ không biết rốt cuộc anh ta đang xem gì, vì thế nhìn theo tầm mắt anh ta, sau đó phát hiện… hóa ra là Captain America.
Tôi thở dài, lê chiếc chân bị thương ngồi xuống bên cạnh quầy bar: “Tối qua viết bản thảo cả đêm, năm giờ sáng mới ngủ.”
Trong TV phát quảng cáo, lúc này anh ta mới quay đầu nhìn tôi: “Không phải cô đã hết thời rồi sao?”
Tôi gãi đầu: “Hôm qua sau khi nghe anh kể xong chuyện, đột nhiên có linh cảm.”
“…”
“Buổi tối có gì thế?” Tôi hỏi.
“Cô muốn ăn gì?” Anh ta hỏi lại.
Tôi suy nghĩ, đáp: “Mỳ xếp lớp (*) được không?”
(*)
Dường như anh ta hơi bất mãn dẩu miệng, xoay người đi vào nhà bếp, một lát sau đi ra nói: “Có thể.”
Tôi gật đầu, quay đầu ngẩn người nhìn ngoài cửa sổ.
Tôi đột nhiên như phát hiện ra châu lục mới, “Tuyết rơi?”
“Ừ.” Ông chủ dùng giọng mũi trả lời tôi, ánh mắt vẫn nhìn chằm chằm TV.
Tuyết rơi không lớn, nhưng rất dày, bên ngoài nhanh chóng tích một lớp tuyết, ánh đèn rực rỡ mới lên, hai bên kênh đào có rất nhiều ngọn đèn kết hợp với màu trắng của tuyết tạo thành cảnh tượng tuyệt vời.
Không biết qua bao lâu, trước mặt tôi xuất hiện một bát mỳ xếp lớp nóng hôi hổi, lúc này tôi mới lấy lại tinh thần, phát hiện trong TV đã không còn chiếu “Captain America”.
“Muốn uống một ly không?” Sắc mặt của ông chủ lúc nào cũng giống như có người nợ tiền anh ta.
“Anh cảm thấy rượu mơ thích hợp với mỳ xếp lớp sao?” Tôi giật mình.
Anh ta nhún vai, như là muốn nói: Không có gì là không thể.
Tôi cười gượng lắc đầu, cầm lấy chiếc đũa trong tay, ăn như ma đói.
Tôi thật sự rất đói, cả ngày chưa ăn tí gì, nửa đêm chỉ uống hai cốc trà mà thôi, nhưng trong lòng tôi xuất hiện sự hăng hái, phải biết rằng đã lâu rồi tôi chưa viết bản thảo thông đêm. Nói chính xác hơn là nửa năm nay, tôi không viết ra được chữ nào.
“Hình như anh… rất thích uống rượu.” Tôi vừa cắn miếng trứng rán trong bát mỳ vừa nói với ông chủ.
Anh ta đổ chút rượu mơ vào chén, sau đó chớp chớp mi: “Bình thường.”
Tôi thấy hình như anh ta không muốn đáp lại tôi, vì thế quyết định không làm phiền anh ta nữa, chuyên tâm vào việc ăn mỳ của mình. Đương nhiên, nguyên nhân chủ yếu vẫn là tôi đói muốn chết. Ai ngờ không nghĩ tới tôi lại cắn phải đầu lưỡi, đau đến mức hét chói tai, cả khuôn mặt đều nhăn nhó.
Ông chủ vừa mới nhấp xong ngụm rượu nhìn thấy vẻ mặt buồn cười này của tôi, không khỏi bật cười, hơn nữa cười rất khoa trương, không hề có ý che dấu.
“Cạch” trước mặt tôi có thêm một chén rượu, ông chủ thản nhiên: “Uống hết đi.”
Vào lúc này tôi cũng không nghĩ nhiều, cầm chén ngửa đầu uống cạn, nhưng khi chất lỏng tiến vào cổ họng, cay đến mức tôi ho lên, do đó tôi mới phát hiện trong chén không phải rượu mơ.
Tôi ho khá nhiều, từ cổ họng đến dạ dày đều bốc cháy, tôi cảm thấy mình sắp nổ tung.
“Sao rồi?” Ông chủ lại khoanh hai tay trước ngực nhìn tôi, “Ổn rồi chứ, như vậy cô sẽ hoàn toàn quên đi cơn đau ở đầu lưỡi.”
Nói thật, tôi chỉ muốn nhào vào sau quầy bar bóp cổ anh ta.
Nhưng tôi không thể, ngay cả sức để mắng chửi người cũng chẳng có.
Trước mặt tôi lại có thêm một cái chén, sau đó bên tai lại vang lên tiếng anh ta: “Uống hết đi.”
Ma xui quỷ khiến tôi lại cầm lên uống cạn.
Lần này không phải là rượu mạnh khiến người bị sặc mà chỉ là một cốc nước ấm, bởi vì hiện tại là đầu đông cho nên nước ấm cũng vẫn có chút lạnh, trôi xuống thực quản, cảm giác nóng rực dần dần biến mất.
Năm phút sau, tôi lại cảm giác được trở về trái đất.
“Đây là gì thế?” Tôi lấy tay gạt đi giọt nước mắt vì rượu cay xè gây ra.
Anh ta nói một đống từ tiếng Nhật tôi không hiểu, thấy tôi không có phản ứng gì mới đổi thành tiếng Trung: “Là tuyết trắng.”
“?”
“Rượu từ nước tuyết trắng.”
Tôi có cảm giác sống sót sau tai nạn, nhìn hai cái chén trước mặt sửng sốt một lúc, mới lên tiếng: “Ngày hôm qua anh hỏi tôi tại sao đến Otaru.”
“Ừ.” Anh ta gật đầu, cầm lấy cái chén trước mặt tôi để vào bồn rượu sau quầy bar, động tác rửa chén nhanh nhẹn.
“Vậy còn anh.” Tôi nhìn anh ta, “Tại sao anh lại tới đây?”
Tuyết ngoài cửa sổ ngày càng rơi nhiều, mặt đất trước cửa nhà hàng đã tích một lớp dày, có lẽ là tới giờ ăn cơm, có mấy người khách vén rèm cửa dày đi vào. Ông chủ tiếp đón bọn họ, không biết lấy chổi từ đâu ra, đi ra cửa quét tuyết. Tôi kinh ngạc ngồi ở quầy bar nhìn dáng vẻ bận rộn của anh ta, bắt đầu hoài nghi có phải anh ta không nghe thấy tôi hỏi hay không.
Bát mỳ trước mặt đã hơi lạnh, nhưng tôi vẫn bưng bát lên ăn. Trong TV lại phát tiết mục giải trí, người ở trong cười nghiêng ngả, nhưng tôi lại chả thấy có gì đáng cười.
Một lát sau, ông chủ cầm chổi đi vào, nhìn thấy tôi vẫn còn ngồi ở đó, hỏi: “Còn muốn gọi gì không?”
Tôi lắc đầu, không còn cần gì nữa.
Anh ta liếc tôi, sau đó như cười khẩy, thực sự khiến người ta cáu mà không làm gì được.
“Vừa rồi cô hỏi tại sao tôi lại tới đây.” Anh ta đặt chổi dưới quầy bar, hai tay khoanh trước ngực, cách chiếc bàn gỗ đứng trước mặt tôi, “Tại sao tôi tới nơi này ư?”
Tôi gật đầu, không lên tiếng.
“Nhìn thấy bà lão mặc kimono ngồi trước cửa sổ kia không?”
Tôi nhìn theo ánh mắt anh ta, thấy một bà lão mặc kimono màu tím. Tôi không có khả năng đoán số tuổi của người khác, cho nên rất khó nói được bà bao nhiêu tuổi, nhưng tóm lại lớn tuổi hơn mẹ tôi là được. Thân hình bà lão hơi gầy yếu, tóc đã bạc trắng, nhưng trên mặt rất mịn màng, ngoài hai nếp nhăn rõ ràng thì có thể bỏ qua những nếp nhăn nhỏ khác từ khoảng cách của tôi. Trên kimono bà mặc có hình hoa văn tao nhã, lớp vải nhìn qua rất dày, không có chút nếp gấp nào, trên cổ có ít màu trắng, có lẽ là do tuyết bám vào, mái tóc bạc được búi chỉnh tề càng tăng thêm phong thái cho bà.
Nhìn từ bề ngoài, tôi thật sự không đoán được tuổi của bà, sở dĩ tôi cho rằng bà lớn tuổi hơn mẹ tôi là vởi vì ánh mắt của bà. Bà ngồi ở chỗ đó, ánh mắt nhìn ngoài cửa sổ như thế trận tuyết này chưa là gì.
Bà lão đột nhiên như cảm nhận được ánh mắt của tôi, quay đầu nhìn tôi. Trong khoảng thời gian ngắn, tôi vô cùng xấu hổ, không biết nên làm gì cho phải.
Vẻ mặt ông chủ tự nhiên hất tay, sau đó nói mấy câu tiếng Nhật tôi không hiểu. Bà lão lập tức mỉm cười đáp lại.
Sau khi cuộc nói chuyện kết thúc, bà khẽ gật đầu với chúng tôi, mỉm cười quay đầu ngắm tuyết ngoài cửa sổ.
Tôi ngượng ngùng quay đầu lại, nhìn ông chủ, anh ta cười hì hì nói: “Tôi nói với bà ấy cô rất thích bộ kimono trên người bà, hỏi tôi mua ở đâu.”
“À…” Không thể không nói anh ta rất thông minh.
“Bà lão ấy trước kia sống ở Tokyo, sau đó chuyển đến nơi này, mở một cửa hàng bán đồ ướp. Trước khi chuyển đến đây, chồng bà mắc bệnh mất trí rất nặng, ngay cả cơm cũng không ăn nổi. Lúc đó mọi người ở nơi này suy đoán khi còn trẻ bà làm vũ nữ ở Tokyo, sau khi lớn tuổi mới tìm người thành thật để lấy, tìm nơi nhỏ ẩn cư.”
Tôi gật đầu, câu chuyện như vậy cũng chả có gì mới.
“Sau đó cháu của ông chủ ở cửa hàng kính góc đường kia từ Tokyo đến chơi, anh ta là phóng viên, lúc nhìn thấy đôi vợ chồng kia thì chấn động.”
Tôi nhíu mày: “Tội phạm giết người nổi tiếng? Kẻ lừa đảo?”
Ông chủ khinh bỉ: “Cô đọc quá nhiều tiểu thuyết trinh thám rồi.”
“…” Được rồi, tôi thừa nhận mình có sở thích này, xem hết một ngày một đêm, chỉ là khi xem xong không viết ra được chữ nào.
“Thực ra anh ta nhận ra ông lão mắc bệnh nặng kia.”
“?”
“Nghe nói lúc ông lão còn trẻ cũng là nhân vật oai phong một cõi ở Ginza, mở một quán bar đồng tính luyến ái vô cùng có tiếng, quán bar đó có lẽ đã xảy ra hỏa hoạn tầm hai mươi năm trước, mười mấy năm trước bắt đầu mai danh ẩn tích.”
“…” Tôi hơi ngạc nhiên, “Quán bar đồng tính luyến ái tức là…”
Ông chủ nháy mắt, ngầm thừa nhận.
“Sau đó bọn họ ở lại nơi này một thời gian dài, cũng dần quen với cuộc sống nơi đây, bà lão đứt quãng kể về chuyện trước kia. Hóa ra lúc còn trẻ gia cảnh nhà bà rất tốt, thời đó còn thịnh hành việc cha mẹ quyết định chuyện hôn nhân của con cái, nhưng bà phải lòng một người phục vụ trong quán rượu, vì thế rời nhà trốn đi, lấy người đó. Sau đó có một hôm, người đó quyết định rời khỏi bà, phần này bà cũng không kể nhiều, cũng không có ai dò hỏi. Vì thế bà bắt đầu sống một mình. Sau đó bà mới chính thức cảm nhận được cay đắng ngọt bùi trong cuộc sống.”
“Tại sao bà ấy không trở về sống với cha mẹ?” Tôi hỏi.
Ông chủ nhìn tôi, như cười như không, giống như đang nói đùa lại giống như nói thật: “Nếu là cô, cô sẽ trở về sao?”
Tôi suy nghĩ, cuối cùng thở dài: “Có lẽ là không…”
Anh ta mỉm cười, dùng khăn lau chén.
“Cho nên sau khi ông lão kết hôn mới phát hiện mình là đồng tính luyến ái sao?” Tôi lại hỏi.
Ông chủ nhún vai: “Phần lớn con người không phải ngay từ đầu đã hiểu rõ bản thân mình.”
Cô ngước mắt, xem như tán thành: “Sau đó thì sao?”
“Sau đó cứ như vậy hai mươi năm trôi qua.” Anh ta vừa lau chén vừa khẽ nói, như thể hai mươi năm chỉ là hai mươi ngày bình thường, “Có một hôm bà lão nhận được điện thoại do một người bạn thời trẻ của ông lão gọi tới, nói cho bà biết bệnh mất trí của ông lão đã nặng đến mức không nhớ ra ai. Bà ấy do dự rất lâu, cuối cùng quyết định đến bệnh viện thăm ông lão. Nhưng khi bà đi vào bệnh viện, đứng từ xa, ông lão đột nhiên ngẩng đầu gọi tên bà.”
Mặc dù tôi hơi cảm động, nhưng vẫn không nhịn được chọc anh ta: “Tại sao anh nói như thể mình tận mắt chứng kiến vậy?”
Đầu tiên ông chủ hơi sửng sốt, sau đó bật cười: “Không phải, là bởi vì tôi đã nghe bà lão kể về cảnh tượng này rất nhiều lần.”
Tôi kinh ngạc: “Nhưng nhìn bà ấy không giống như người thích kể chuyện gia đình cho người khác.”
“Bà ấy thực sự không phải là người như vậy.” Ông chủ mở to mắt, “Nhưng có một số người khi uống rượu sẽ trở nên nhiều lời.”
“…”
Ông chủ để đống chén thủy tinh đã lau sáng bóng lên trên giá, sau đó hai tay chống lên mặt bàn quầy bar, nhìn tôi: “Cho nên cuối cùng bà ấy vẫn quyết định ở bên ông lão, hoặc nói đúng hơn là quyết định ở bên ông ấy quãng đời còn lại.”
Tôi nhìn bát mỳ trước mặt, không khỏi thổn thức: “Hóa ra tới lúc này, trong mắt bà ấy chỉ có một người đàn ông.”
Ông chủ hơi ngớ người, trong mắt hiện lên chút bội phục: “Không hổ là tác giả.”
Tôi cười gượng, dường như không hề vì sự “tán thưởng” của anh ta mà cảm thấy vui vẻ.
Tuyết ngoài cửa sổ ngày càng lớn, ông chủ lại bắt đầu dán mắt vào TV, tôi liếc qua, hình như đang phát phim tài liệu, hai con sóc cướp quả tùng trên mặt đất phủ đầy lá cây.
“Đã thành bão tuyết rồi.” Anh ta lẩm bẩm.
Lúc này tôi mới hiểu hóa ra anh ta đang nhìn cảnh báo thời tiết không ngừng chạy trên màn hình TV.
“Thời tiết này rất thích hợp với cảnh giết người.” Tôi nói.
Nghe tôi nói vậy, cuối cùng anh ta đã dời mắt khỏi màn hình TV nhìn tôi: “Cô nói mình sáng tác tiểu thuyết tình yêu sao?”
“… Ừ.” Tôi dùng giọng mũi trả lời.
“Nhưng nhìn cô không giống như người có nhiều kinh nghiệm tình cảm.” Anh ta xoa cằm nói.
Trong nháy mắt tôi hơi dở khóc dở cười. Hóa ra một con người nhìn thì ngầu, một khi mở mồm sẽ không ngậm lại.
“Vậy nhà văn sẽ sống không thoải mái, nhà thơ nhất định lúc nào cũng sống trong phong hoa tuyết nguyệt, nhà văn trinh thám mỗi ngày phải nhìn thấy hiện trường giết người sao?” Tôi phản bác.
Ông chủ suy nghĩ, nhún vai: “Cũng đúng. Nhưng tôi hơi nghi ngờ một người không có kinh nghiệm tình cảm liệu khi sáng tác tiểu thuyết tình cảm có thể thuyết phục người khác hay không?”
Tôi không muốn tiếp tục tranh cãi với anh ta về vấn đề này, cho nên ôm một bụng tức, bắt đầu uống nước mỳ.
“Nhưng nhắc đến tác giả trinh thám.” Ông chủ nói, “Ông chú đội mũ len ngồi trong góc kia hình như sáng tác loại tiểu thuyết đó đấy.”
Tôi bỏ bát xuống, hơi kinh ngạc nhìn ông lão ngồi trong góc, nói thật, nhìn thoáng qua thì không cảm thấy gì, nhìn kĩ nói ông lão ấy là tác giả trinh thám… còn không bằng nói là một nghệ sĩ đường phố.
“Nhưng hiện tại mỗi ngày ông ta vẽ một số tranh màu nước bán cho du khách ở bên cạnh kênh đào.”
“?”
“Nghe nói trước kia ông ta đã đoạt giải thưởng, cũng rất nổi tiếng.”
“Sau đó…” Tôi hơi ngập ngừng, “Hết thời à?”
“Hình như là bởi vì tranh chấp về hợp đồng với công ty xuất bản, kiện ra tòa, tốn nhiều thời gian, tinh thần và tiền bạc, cuối cùng công ty xuất bản thắng, ông ta phải bồi thường tất cả tài sản… Cuối cùng đi đến nơi này.”
“…”
“Còn cả ông lão trung niên đầu tóc lộn xộn kia nữa.” Ông chủ đứng sau quầy bar, vẻ mặt nghiêm túc buôn chuyện, “Nghe nói lúc còn trẻ cũng lăn lộn trong băng Yamaguchi Gumi ở Tokyo, cũng là một nhân vật có danh tiếng, sau đó ngồi tù thay lão đại. Song sau khi ông ta từ nhà tù đi ra, lão đại đã chết, cuộc sống cũng không còn giống như trước kia.”
Tôi lấy khăn giấy lau miệng, để bát mỳ trước mặt anh ta: “Tôi còn nghĩ anh là một người không thích buôn chuyện.”
Ông chủ nhận lấy bát của tôi, cẩn thận lau bàn hai lần, sau đó lấy một chén gốm màu nâu để trước mặt tôi, rót chút rượu mơ:
“Đây không phải là buôn chuyện.”
“?”
“Đây là kể chuyện.” Anh ta nói, “Mỗi người đều có một câu chuyện của riêng mình.”
Tôi nhìn anh ta phát hiện nếu cạo hết đám râu trên mặt kia thì thực ra anh ta cũng là người tuấn tú.
“Vậy còn anh?” Tôi nói, “Ở trong câu chuyện “này”, anh đóng vai nhân vật nào?”
Anh ta cẩn thận lau khô miệng bình rượu, đặt xuống, sau đó nhìn ngoài cửa sổ, chậm rãi nói:
“Bão tuyết quả nhiên đến rồi.”