Edit: Yunchan

Cô nhìn trừng trừng vào đôi mắt sâu như hố đen của Thi Ngũ gia, thấy dưới đáy mắt lập lòe ánh sáng đang phản chiếu một khuôn mặt thất kinh, nhưng ánh mắt đó vẫn không có tiêu cự. Kinh Niên chỉ cảm thấy miệng lưỡi bị ngậm, mút vào nhẹ nhàng, từ khoang bụng tuôn ra một luồng nhiệt khí nóng hổi đi qua ngực, lên cổ họng, rồi trôi khỏi miệng. Trong cơn hỗn loạn, óc cô tự động hồi tưởng lại lần đối chọi gay gắt duy nhất đó, Thi Ngũ gia nổi điên lên, từng chiêu đoạt mạng, càng đấu cô càng kiệt sức, người chằng chịt vết thương, mắt thấy khó giữ được tính mạng, dưới tình thế cấp bách mới lấy miệng tương đối, độ dương khí.

Thi không phải người, không hiểu gì là mánh khóe thủ đoạn, chỉ dựa vào bản năng cần dương khí mà ăn thịt người uống máu người, hạ thủ chẳng biết nặng nhẹ, cuối cùng phải cắn nát xé rách cơ thể người mới chịu bỏ qua. Khi đó Thi Ngũ gia cũng thế, chỉ muốn nuốt chửng vật thể sống trước mắt vào bụng, Kinh Niên bị hắn bắt trói cả tay lẫn chân, chỉ tới khi lấy miệng độ dương khí mới lỏng ra đôi phần. Nhưng âm thể đòi hỏi vô độ, điên cuồng hấp thu tinh khí, chẳng quan tâm người sống có thể chịu đựng tới mức nào. Lúc đó, may mà trước khi mất đi ý thức Kinh Niên đã kịp hạ phù, mới không bị hút luôn cả mạng. Từ đó trở đi, cô chỉ dùng phương pháp lấy máu làm thức ăn, chứ không dám nghĩ tới chuyện động khẩu độ dương khí nữa.

Cảm giác choáng ngất quen thuộc ập tới khiến cô hoảng hốt, tay cầm kiếm nắm thành quyền đặt trên bụng Thi Ngũ gia chống cự theo bản năng, nhưng tay trái bị xách lên rất cao, đầu ngón chân hầu như bị nhấc lên không chạm được mặt đất, kiểu tư thế này khiến cô không làm gì được, vùng vẫy cũng không thể thoát khỏi khống chế. Trước đây từng được phù chú cứu mạng, nhưng dưới tình huống này, ngay tại đây thì dán phù chú có tác dụng gì sao? Kinh Niên thật lòng không nghĩ ra đối sách, tuy trong tay cầm kiếm, nhưng thà mình toi mạng cũng không muốn dùng nó đả thương Ngũ gia.

Đương vắt óc suy nghĩ, thì chợt cảm thấy nhiệt khí ngấm lại miệng trôi về cổ họng, từ từ chìm xuống, hơi thở về lại đan điền, động tác trên môi cũng dần chậm lại. Kinh Niên thấy tia sáng lập lòe trong mắt Thi Ngũ gia biến mất, thầm đoán là đã hút đủ dương lực nên bị phù chú áp chế thi tính. Cô cảm thấy bàn tay sắt đang bóp ở cổ tay mình rung rung rồi thả lỏng từng tấc, trong bụng thầm vui mừng khôn xiết.

Nào ngờ bàn chân vừa mới chống vững trên đất, cánh tay đang rụt về lại bị chộp lấy, lực đè lên môi đột nhiên tăng mạnh, nhưng môi và môi đụng chạm cũng không kéo dài lâu hơn nữa, chỉ cố sức trằn trọc trong thoáng chốc, một khắc sau, Thi Ngũ gia đã thu tay lại đứng thẳng, lá bùa che lại miệng mũi một lần nữa, vùng tối đó chẳng những che đi khuôn mặt, mà còn che giấu tia sáng cuối cùng lóe lên trong đáy mắt.

Không có ngoại lực lôi kéo, chân Kinh Niên cũng nhũn ra, thân thể mất khống chế ngã oạch ra đất. Lúc nãy bị hút dương khí không tính là nhiều lắm, nhưng cũng đủ hành người, trong vòng một canh giờ nhất định không có sức đứng lên. Cô vẫn chưa tỉnh hồn, sợ hãi và nghi vấn quay cuồng hỗn tạp trong đầu, khuấy đến nỗi tư duy rối loạn. Cô khẽ nâng mắt nhìn về hướng Thi Ngũ gia, thấy dáng đứng của hắn hệt như trước khi vào cốc, chỉ chờ phát lệnh.

Lần mất khống chế này Kinh Niên chưa từng gặp trước đây, cũng không biết có phải Thi Ngũ gia đã hoàn toàn khôi phục lại trạng thái bình thường hay chưa. Cô không đứng nổi, cũng không cách nào thay đổi chú tự, buộc lòng phải ôm suy nghĩ ba phần may mắn bảy phần mạo hiểm, kêu: “Ngũ gia, Kinh Niên đi không nổi, làm phiền ngài bế một cái đi.”

Thi Ngũ gia lập tức cúi người xuống mà không có lấy một khắc trì hoãn, vớt cô từ dưới đất lên, ôm ngang bằng hai tay. Thấy ngôn chú có hiệu quả, lúc này Kinh Niên sướng rơn trong bụng, ôm lấy cổ Ngũ gia âu yếm một trận, rồi chỉ vào con đường xuất cốc, nói nhỏ: “Ngũ gia, đi tới đó ra ngoài nào.”

Vừa dứt lời, Thi Ngũ gia tức khắc nhảy qua hướng cô chỉ, dưới màn bụi đỏ tanh tưởi che lấp, thoáng chốc đã mất bóng, chỉ còn nghe được tiếng bước chân đạp lên thịt nát quanh quẩn bên trên cốc.

Nằm ngoài cửa nam của Phong hoa cốc là vùng sườn núi hoang vu, ở đầu sườn núi dựng một tấm bia đá, trên bia có khắc bốn chữ to “Thập Điện Diêm Ma”. Ban đầu trong ngoài sườn núi hoang này ba trăm dặm là một đình viện đồ sộ với hoa cỏ mọc thành bụi, cầu cột đình đài nối tiếp nhau. Dưới sườn núi phía Tây, ở giữa đầm nước tròn xây một tòa bảo tháp mười tầng, vốn tên là “Thập Tháp tự”. Dân gian tương truyền rằng, thuở xưa Diêm La vương chấp chưởng Địa ngục U Minh hóa thân tới nhân gian, ghé chân nơi này, thấy bảo tháp trên mặt nước thật lung linh, bèn vào tháp thăm thú, bị một lão tăng đắc đạo trong tháp tự nhìn ra chân thân, lão tăng bèn sai người đắp tượng bùn đặt ngay giữa tự điện, sớm chiều thờ phụng, người đời sau để tưởng niệm việc này đã đổi tên “Thập Tháp tự” thành “Diêm Vương tự”.

Nghe đâu khi Diêm La đại vương thượng du nhân gian đã dừng chân tổng cộng ở mười nơi, sườn núi hoang này chính là nơi thứ mười, do đó có tên là “Thập Điện Diêm Ma”. Ngoài ra còn có chín điện khác rải rác ở các nơi. Thập Điện này là do phàm nhân cảm động trước ân điển trời biển, nên cung cấp cho Diêm Vương một biệt uyển để dùng trên trần thế. Theo sự thay đổi của triều đại, thời gian chảy trôi, thời thế đổi dời, cung đình trên sườn núi từng hấp dẫn du khách bốn phương đã không còn tồn tại nữa, chỉ trơ lại tấm bia đá hư hại và đống tàn tích ngổn ngang khắp sườn núi. Vắng bóng du khách và người cúng tế, nhang đèn khó thể kéo dài, tăng lữ trong tự dần ít đi qua năm tháng, cuối cùng chỉ chừa lại một tòa trống rỗng và một đầm nước biếc.

Kinh Niên đang dựa vào tấm bia này nghỉ ngơi, lúc này mặt trời chưa lên tới đỉnh, trong gió còn mang theo chút hơi thở của bình minh, tuy không có tiếng chim hót chuyền cành, nhưng bị nhốt trong cốc suốt đêm, ngửi toàn mùi mục nát lợm giọng, nên trời ấm gió ấm trở nên càng quý giá hơn.

Mấy ngày nay cứ dồn dập hết chuyện này tới chuyện kia, rắc rối kéo tới ùn ùn, bao nhiêu là người vờn quanh, ồn tới mức ngực Kinh Niên khó chịu, cũng không tiện “Giao lưu” thường xuyên với Ngũ gia. Nhân dịp trời trong lành, còn hiếm khi được ở riêng một mình, mà cô cũng không muốn bị bế tới bế lui mãi, nên dứt khoát ở lại sườn núi hoang này nghỉ ngơi điều tức, chứ không vội chạy đi nhập hội với nhóm Huyền Ảnh.

Cô ngồi dưới đất nhìn Thi Ngũ gia bên cạnh, đám mây mỏng trên đỉnh đầu trôi đi, cũng không biết nhìn bao lâu, Kinh Niên đột nhiên cúi đầu nhòm về phía ngón chân, tay vỗ vỗ ngực, nở nụ cười: “Làm ta sợ muốn chết, làm ta sợ muốn chết.” Rồi lại ngửa đầu nói: “Ngũ gia, lại bị ngài hù lần nữa, làm Kinh Niên muốn thăng thiên…”

Nói tới đây đột nhiên im bặt, ngây người một chút, nụ cười từ từ đóng băng, giọng chát đắng mang theo vẻ tự giễu: “Nói gì mà thăng thiên, ngay cả địa ngục cũng không vào được… Ngũ gia, Kinh Niên không muốn tới chỗ nào hết, chỉ muốn ở bên cạnh ngài thôi, hầu hạ ngài mặc quần áo, hầu hạ ngài rửa mặt chải đầu… nhưng ngài, dù sao cũng phải đi, tới lúc đó, Kinh Niên cũng coi như hoàn thành tâm nguyện cuối cùng…”

Cô nhìn về đỉnh núi rồi nhắm hai mắt lại, cảm nhận làn gió hiu hiu khoan khoái, hít sâu vào một hơi, tham lam hưởng thụ sự trong lành ùa vào miệng mũi, ngửa người tựa lên tấm bia ngắm không trung. Nhìn lên từ góc độ này, chỉ thấy vạt nắng lọt qua giữa tóc và trán của Thi Ngũ gia chiếu xuống dưới, hình thành mấy vòng sáng nhu hòa, tôn hắn lên như một vị thần, vùng kim quang như muốn hòa tan hắn vào trong.

Chẳng biết từ đâu sinh ra một nguồn sức mạnh, khiến hai chân vốn tê dại rã rời bỗng lấy lại tri giác. Chỉ thấy Kinh Niên giẫm đất bật dậy, chạy ào vào lòng Thi Ngũ gia, hai tay vòng sít sao quanh eo hắn.

“Ngũ gia, đừng đi! Đừng bỏ Kinh Niên lại một mình…” Cô vùi mặt vào trong chiếc áo bị máu nhuộm thành màu tím đen, cọ cọ mè nheo. Những chuyện xảy ra gần đây khiến cho cô bất an, việc Thi Ngũ gia mất khống chế đã đổ thêm dầu vào lửa, tất cả mọi chuyện như đang xâu lại với nhau, con đường vốn không nên đi lại đang mở ra trước mắt: “Không nên tới Diêm Vương tự, mấy chuyện lộn xộn đó ta không muốn xía vào nữa…”

Nói đoạn lại biến thành khóc thút thít: “Ta cũng không tìm cái gương gì đó nữa, Ngũ gia… ta không muốn giúp ngài… không muốn giúp ngài ra đi… Kinh Niên không biết suy nghĩ của ngài, nếu như ở lại bên cạnh ta không phải tự nguyện, Kinh Niên thà rằng vĩnh viễn không mở phù chú, chỉ cần có thể giữ ngài lại, dù chỉ là thân thể cũng đủ rồi…”

Cô cúi đầu nghẹn ngào, hai vai run run một hồi rồi dừng lại, thả tay lui ra sau một bước, ngẩng đầu nhìn về phía mặt của Thi Ngũ gia, lệ đọng ở hai gò má còn chưa khô đã híp mắt mỉm cười: “Lừa ngài thôi!”

Cô le lưỡi, nói tiếp: “Tuy cũng có khi nghĩ vậy, nhưng suy cho cùng… nguyện vọng của Ngũ gia chính là nguyện vọng của Kinh Niên, chỉ cần chuyện tốt cho Ngũ gia, Kinh Niên đều cam tâm tình nguyện làm! Chẳng là, Ngũ gia ngài… không được hù ta giống như trước nữa, ngài muốn tìm dương khí thì cũng từ từ, vừa lôi vừa kéo, Kinh Niên thật tình cho là sắp bị chơi toi rồi, cái mạng này của ta còn phải giữ lại cho Ngũ gia đó!”

Cô chà chà hai chân, thấy có vẻ linh hoạt, trong bụng thầm giật mình, xem ra dương khí bị hút cũng không nhiều như mình nghĩ. Nếu có thể đi được, thì cô cũng không muốn nán lại lâu nữa.

Kinh Niên tự nhận mình không phải là người thích trốn tránh, đối với cô mà nói, nếu đã nhúng tay vào thì phải cố gắng tới cùng, huống hồ cứ bỏ đi như vậy trong lòng sẽ có khúc mắc, người chỉ cầu một giấc ngủ ngon, cô cũng không muốn thấy ác mộng. Vì vậy, phủi phủi quần áo, lau khô nước mắt, hai tay vươn lên duỗi người, gọi Thi Ngũ gia đi lên sườn núi.

Lên tới đỉnh núi, rồi lần theo hướng Tây Nam xuống dốc núi, sau khi tới đáy nhìn thoáng qua đã thấy tòa bảo tháp phía bên trái, cách chân núi không quá nửa dặm đường. Bên cạnh cái đầm nước nhỏ dựng một căn lều, trước lều xếp lộn xộn mấy bộ bàn ghế, có lẽ là một dã điếm giữa núi.

Kinh Niên cất bước nhắm thẳng tới hướng đó, khi sắp tới căn lều xập xệ, thì chợt thấy một nữ tử đi tới trước mặt, bám theo đằng sau là ba đứa trẻ hò hét ầm ĩ hốt đá trên đất ném qua.

Cô gái kia mặc bộ hắc y rách rưới, rụt vai cúi đầu, trên búi tóc rối bời cắm mấy cành khô lá mục, hai tay ôm một vật đen nhánh tỏa sáng, giấu vào trong ngực nên không thấy rõ lắm, trên hai mắt cá chân đeo một đôi xiềng xích, dây xích thô đen kéo lê trên đường đất mấp mô phát ra tiếng “Leng keng” lanh lảnh, cái cùm chân kia trông cực kỳ nặng nề, thảo nào cô bước đi lại chậm như rùa bò.

Kinh Niên nhất thời hiếu kỳ dừng bước lại, thấy cô gái kia đi một mạch tới trước mặt, ngẩng đầu cười với mình, đúng là một trang tuyệt sắc nghiêng nước nghiêng thành, chẳng qua sắc mặt có vẻ ốm yếu bệnh hoạn, mặt mày tái nhợt không tìm được một chút huyết sắc, giữa trán khắc một chữ “Quỷ” đỏ tươi, nhìn thấy mà giật mình.

Đá cứ ném túi bụi về phía cô ta, mãi tới khi đập tới giữa tóc mai làm rỉ ra vết máu đỏ tươi, cô ta vẫn cười tới vui vẻ, Kinh Niên thấy cô ta đang nhìn mình, bất giác mở miệng hỏi: “Cô cười gì vậy? Không đau sao?”

Cô ta vẫn cứ cười, lắc đầu khẽ khàng: “Quen rồi sẽ hết đau.”

Giọng yếu ớt nhàn nhạt, như tiếng suối chảy xuôi qua rừng rậm đêm khuya, Kinh Niên nghe mà tâm thần nhoáng lên, lúc cúi mắt lại phát hiện bên dưới làn váy tàn tạ ló ra một cặp chân khẳng khiu như que củi, đôi xiềng nặng trịch trói bên trên, như muốn hòa làm một thể với nó vậy. Trên dưới xiềng là một vòng thịt hồng loang lổ, làn da dưới bắp chân đã hoàn toàn biến thành màu đỏ tía, thậm chí ngay trên giày thêu cũng dính vết máu.

Kinh Niên dời tầm mắt lên mặt cô gái, bây giờ khi nhìn lại nụ cười kia trong lòng cô bỗng sinh ra sự thương hại. Nhìn lũ tiểu quỷ càng chọi càng hăng, hòn sau còn to hơn hòn trước, Kinh Niên sải bước dài tới, lướt qua cô gái kia, ngoảnh về phía lũ trẻ hét to: “Tiểu quỷ thối! Mới tí tuổi đầu mà đã ăn hiếp người ta, hả? Xem ta dạy dỗ tụi bây thế nào!!!”

Hét xong xắn xắn tay áo nhảy vọt tới.

Lũ trẻ thấy mặt cô bê bết máu đen, khí thế sừng sộ, thì ré to lên: “Quỷ tới! Quỷ tới!”

Rồi sợ chết khiếp chạy ào vào trong lều, sau đó đã bị một người ăn mặc như tiểu hỏa kế lôi vào nhà gỗ, sập “Ầm” cửa lại.

Kinh Niên làm mặt quỷ với cái lều, quay người lại đã thấy cô gái kia nâng vật trong ngực lên lòng bàn tay, chính là một cái linh bia nhỏ cao một thước, trên bia có khắc ba chữ “Diêm Vương nhãn”.

Đổi lại người thường nhiều lắm chỉ nghĩ linh bia này hình dạng kỳ dị, nhưng trong tích tắc Kinh Niên đối mặt với dòng chữ trên bia lại cảm thấy như có một con mắt cực to đang mở ra nhìn mình, bắn ra vạn tia sáng đỏ đoạt hồn nhiếp phách, cô vội vàng nhắm hai mắt lại, rồi chợt nghe giọng mềm mại của cô gái kia bay vào trong tai: “Cô là bạn của ba người trong tự sao?”

Kinh Niên không dám mở mắt ra, hỏi lại: “Cô là ai?”

Sau đó nghe cô gái kia nói: “Ta đã giấu linh bia rồi, cô đừng sợ.”

Chần chừ một chút, lát sau cô mới từ từ mở mí mắt ra, quả nhiên thấy cô gái kia đã ôm tấm bia vào ngực lại, lấy ống tay áo che thật kín.

Cô gái kia nhìn thẳng vào hai mắt cô, cười nói: “Ta tên là Hoàn Tình, gặp phải đại nạn, nên tới Diêm Vương tự an thân, trước đây không lâu có ba người vào tự, cũng giống như cô, áo nhuộm máu, cơ thể mang trọc âm(*), nhất định là mới đi ra từ Phong Hoa cốc đối diện sườn núi, không phải bạn thì cũng quen biết.”

(*)khí âm đục bẩn.

Kinh Niên vốn định biến hóa hai mắt để nhìn lén thân phận cô ta, nhưng bị cái nhìn chằm chằm làm trước mắt hóa hư không, không thể tụ được khí, biết ngay là gặp phải người phi phàm, nếu không muốn tự hiện thân thì chắc sẽ không để người ta nhìn thấu, thế nên cô không phí công nữa, thở hắt ra, nói: “Cô nương nói không sai, ta và ba người đó thật sự đi ra từ Phong Hoa cốc, hẹn gặp gỡ trong tự, nếu tháp tự là chỗ an thân của cô nương, thì ta chỉ có thể nói tiếng quấy rầy thôi.”

Hoàn Tình lắc đầu nói: “Ta với cô có duyên, dù không ra đây cũng sẽ gặp nhau trong tự, có điều hai vị bằng hữu của cô thân thể suy yếu, đói khát khó chịu, nên ta muốn tới khách điếm mua ít nước với thức ăn, nào ngờ chủ quán giá nào cũng không chịu bán cho ta…” Cô ta mở tay ra, vài đỉnh bạc vụn khảm vào lòng bàn tay, góc cạnh bén nhọn đâm vào trong thịt.

Kinh Niên thấy trên bạc dính máu, vậy mà cô ta tới liếc cũng chẳng buồn liếc, chỉ nhìn chằm chằm mình, cười đến là hạnh phúc, không hiểu sao Kinh Niên lại đâm ra phiền muộn, đưa tay nắm mấy đỉnh bạc vụn, cau mày nói: “Cô không biết đau sao?”

Hoàn Tình vẫn cứ cười, bẵng qua một lúc lâu mới nhìn xuống bàn tay, nụ cười không tắt mà chỉ sửng sốt, tiếp đó thu tay về trong tay áo, như không nghe thấy cô hỏi gì, chỉ nói: “Ta muốn tới khách điếm khác hỏi thử, có thể chủ quán sẽ chịu bán cho ta, ta biết dọc theo chân núi đi về hướng Tây có một thôn nhỏ, nhưng ta đi rất chậm, sợ để bằng hữu của cô chờ lâu, nếu cô không ngại, có thể đi thay một chuyến không?”

Kinh Niên nhìn trán cô, thầm nhủ dù đổi mấy nhà đi nữa, ông chủ khách điếm cũng chưa chắc chịu bán đồ cho cô, gánh trên trán cái chữ bị người ta kiêng kỵ, cô đã sống qua ngày thế nào đây? Lẽ nào là thần tiên thật sao?

Hoàn Tình thấy cô không trả lời thì cũng không sốt ruột, cười nói: “Cũng được, thể khí của cô nương chưa hồi phục, cứ tới tự nghỉ ngơi trước đi, chờ ta trở lại.” Nói rồi lê xiềng xích đi về hướng sườn núi.

Kinh Niên với tay kéo cánh tay Hoàn Tình lại, nhưng vừa bắt lấy đã buông ra nhanh như chớp. Hoàn Tình nghiêng người, vuốt khẽ chỗ bị nắm, rồi ngoảnh qua nhìn nét mặt cô, cười nói: “Xin lỗi, làm cô sợ.”

Kinh Niên nhìn sơ qua lòng bàn tay rồi nhìn lên nữ tử đang cười như gió ấm tháng sáu, vì cảm xúc dưới tay vừa rồi rất kinh dị — đó là cánh tay người sao? Nhỏ tới lạ lùng, cũng không mềm mại như làn da mà nữ nhân nên có, tuy bị y phục che đậy không nhìn thấy, nhưng loại cảm giác này rõ ràng như một nhánh xương khô. Thấy Hoàn Tình lại muốn đi về phía trước, cô vội nói với theo: “Không cần phải đi xa như thế, ta đi là được rồi.”

Nói rồi đếm đếm bạc vụn trong tay, bước nhanh tới căn lều nhỏ xập xệ.

Kinh Niên đi tới trước cánh cửa gỗ đóng chặt, gõ ầm ầm, kêu lớn: “Chủ quán! Chủ quán! Còn không mở cửa ra sao?! Mở cửa ra nhanh lên! Mở cửa ra —-“

“Tới đây tới đây.” Hỏa kế lôi lũ trẻ vào nhà lúc nãy mở rộng cửa đi ra, vừa thấy cô đã thét “Á” một tiếng rồi đóng sầm cửa lại. Kinh Niên nhấc chân đạp một đạp, đá văng cái cửa, xông thẳng vào. Hỏa kế bị cánh cửa bắn ngược lại té ngồi xuống đất, ngay sau đó lập tức quay người bò xuống dưới cái bàn cạnh cửa, ôm chân bàn kêu la: “Ông chủ ơi! Cứu mạng!! Quỷ muốn bắt ta!”

Kinh Niên đi tới trước bàn, ngồi xổm xuống liếc xéo hắn: “Ngươi xem ngươi đen như than thối như phân, nếu ta là quỷ thật thì cũng không thèm bắt ngươi!” Chửi xong nhìn về phía nắm nhỏ núp đằng sau quầy, cười xấu xa: “Muốn thì phải bắt mấy nhóc kia kìa, trẻ con trắng trắng mềm mềm là ngon miệng nhất!”

Câu dọa của cô dẫn tới tiếng la hét loạn xà ngầu, Kinh Niên đi tới, nhấc chân gác lên mặt quầy, chỉ vào giầy vải, giảng cho cái nắm trốn dưới quầy một bài: “Nè! Thấy rõ chưa thấy rõ chưa! Ta có tay có chân, quỷ ở đâu hả?”

Quỷ hồn vô hình, cái này dân gian càng đồn càng thái quá, nói gì mà quỷ không có tay không có chân đủ thể loại, thật là chẳng khác gì với thi khuyết tật.

Ông chủ ôm ba đứa bé hệt như gà mẹ ấp trứng, nghe cô nói vậy mới dám ngóc đầu nhìn cái đế giày lắc qua lắc lại trên mặt quầy, nhìn hồi lâu, mới thấp thỏm hỏi thăm: “… Vậy sao ngươi máu me đầy người, chẳng lẽ không phải chết oan về báo thù sao?”

“Báo cái gì thù, là heo núi tới tìm ta báo thù thì có.” Cô thả chân xuống, quay người lại kéo Thi Ngũ gia tới trước: “Ngũ gia chúng ta mới làm thịt con heo núi điên ở đằng trước, chà, máu phun ra phải nói, từ đầu tới chân, ông nói xem ta không máu me đầy người sao được hả?”

Chủ quán ló mắt ra từ dưới cánh tay, xem kỹ mấy lần, thấy trên mặt Thi Ngũ gia dán lá bùa thì nhỏ giọng hỏi: “Cô… cô nương chẳng lẽ là… là Thi quan à?”

“Chà, giờ ngài mới nhìn ra sao? Nên đi luyện mắt lại đi!” Kinh Niên đập tay lên quầy, rung rinh tới nỗi bàn tính hạt châu kêu lên lạch cạch.

Chủ quán nhìn tử tế lại một hồi, thấy tay chân cô đầy đủ, trừ dính máu ra thì quả thật không có gì khác người, vả lại tên đứng bên cạnh cô nhìn kiểu nào cũng đáng mày đáng mặt, nên quyết định tin lời cô, đứng dậy, nhưng nét mặt vẫn còn khẩn trương chút đỉnh.

Kinh Niên tựa lên cạnh quầy, phất tay che trước mặt hắn: “Chủ quán, ông đừng sợ, ta không ăn thịt ông đâu.”

Một đứa nhóc tì đứng bên dưới giật nhẹ ống quần chủ quán, bắt đầu tố cáo: “Cha, cô ta gạt người, hồi nãy cô ta còn che chở cho yêu quái kia.”

“Hừ!” Kinh Niên dựng thẳng chân mày, nổi sùng: “Ta không biết cô ấy thì bảo vệ cô ấy làm chi? Ta chỉ thấy mấy tên nhãi con các ngươi khinh người quá đáng, người ta chọc tới các ngươi à? Khi khổng khi không hốt đá ném người! Còn dám làm kẻ xấu cáo trạng trước hả?!”

Một nhóc khác mạnh miệng cãi lại: “Chúng ta ném yêu quái chứ không ném người!”

Thấy cô trừng qua thì cuống quýt rụt ra sau lưng cha.

Kinh Niên chẳng thèm cãi nhau với mấy đứa trẻ hư không hiểu chuyện này, nói thẳng luôn với chủ quán: “Ta vừa hỏi cô nương ngoài kia rồi, cô ấy tới mua ít thức ăn với nước trà, đâu phải không có bạc, làm gì không bán cho người ta?”

Chủ quán nghiêng người nhìn ra ngoài cửa, không thấy bóng dáng của cô gái áo đen kia mới nhìn về hướng Kinh Niên, mặt lộ vẻ khó xử: “Cô nương, cô không thấy chữ khắc trên trán cô ta à?”

Kinh Niên gật đầu đáp: “Thấy, thì sao?”

Chủ quán xoa tay vò đầu: “Ôi… còn sao nữa? Cô không biết cái chữ đó người nào mới có sao?! Là quỷ mượn xác đấy!”

Kinh Niên cười lạnh: “Gì mà quỷ mượn xác, bậy bạ, đó là khó sinh! Ông lớn ngồng rồi mà không biết gì hết à?”

Hoàng đế cũng là một người lớn ngồng, vậy mà cũng định ra cái quy định không thể giải thích được kia, phàm là phụ nữ chết vì khó sinh thì trán của đứa trẻ sinh ra sẽ bị khắc chữ buộc tội, đúng là thất đức! Ghim kỹ chuyện này về sau mách lại cho Điện Hạ mới được.

Chủ quán không nói nữa, nhưng không phải đồng tình với lời của Kinh Niên, ông ta thở dài một cái, ánh mắt lộ ra vẻ thương hại, như ám chỉ cô là một nữ lưu kiến thức hạn hẹp.

Kinh Niên cũng lười dài dòng với ông ta, không động vào bạc vụn trên tay, mà móc một xâu tiền trong lòng ra: “Chủ quán, đừng nói tới ta ông cũng không bán nhé?” Nói rồi quẳng tiền lên bàn: “Cho ta một cân thịt bò, bốn cân bánh bột mì, một bình nước nóng với một vò Thiên Tuế Hương, chỗ tiền dư khỏi thối, sau này nói con nhà ông đừng làm khó cô nương trong tự nữa.”

Chủ quán kia cầm tiền rồi gật đầu một cái, vừa đúng một nghìn văn, mua thêm năm con gà, một gánh gạo nữa vẫn còn dư. Lúc này mặt mày ông ta nở hoa, trên cái mặt già nua nhăn tít  thành mấy cái rãnh sâu, lượn ra khỏi quầy, ân cần kéo cái ghế sau lưng: “Đâu có đâu có! Ngài ngồi trước chút nhé.” Sau đó giận dữ lườm hỏa kế dưới gầm bàn, khiển trách: “Ngươi làm gì thế hả! Còn không châm trà cho khách quan?”

Hỏa kế lồm cồm chui ra khỏi gầm bàn, luống ca luống cuống chạy đi lấy ấm trà, Kinh Niên ngăn hắn lại, nói: “Đừng mất công, ta còn phải đi nữa, chuẩn bị đồ ăn đầy đủ là được rồi.”

Chủ quán cười hùa theo “Vâng, phải”, thấy hỏa kế vẫn còn đứng ngơ ngác tại chỗ thì hùng hổ đá hắn một cú: “Đực ra cái gì! Nhanh đi bảo Vương đầu bếp cắt một cân thịt bò, bốn cân bánh bột mì tới đây, ngươi đun thêm một bình nước, lấy một vò Thiên Tuế Hương, gói lại hết, nghe chưa? Sao còn chưa đi!”

Quát xong thì đẩy một cái, hỏa kế mới lảo đảo chạy tất tả ra cửa sau, tới cạnh cửa còn ngoái đầu liếc một cái, trong mắt vẫn còn ba phần sợ hãi, Kinh Niên lập tức nhe răng với hắn, nhìn hắn bị hù tới giật bắn, chạy ào ra ngoài như bỏ trốn, tâm trạng cô tự nhiên tốt hơn hẳn, bảo chủ quán rót một chậu nước để lau máu khô trên mặt trên tay mình và Thi Ngũ gia, sau đó ngồi bên bàn chờ.

Thời gian chưa qua một tuần trà, hỏa kế đã mang phần đồ ăn và rượu được gói ghém kỹ càng ra tới, Kinh Niên xách bánh và thịt bò, rồi lệnh cho Ngũ gia khiêng vò rượu với bình trà, sải bước khỏi cửa trong tiếng nịnh nọt của chủ quán.

Ra khỏi tiệm rồi, thấy Hoàn Tình vẫn còn đứng tại chỗ như đang đợi mình, cô vội vã bước nhanh tới, hỏi: “Trong tự có chén đĩa gì đó không? Nếu không thì để ta quay lại xin chủ quán mấy bộ.”

Hoàn Tình cười đáp: “Có, là của mấy sư tăng từng trú trong tự dùng, có điều hơi cũ chút.”

“Không sao hết.” Chỉ cần xài được là đủ rồi. Kinh Niên buộc xâu thịt bò và túi bánh vào với nhau, vác lên vai, rồi giục: “Đi nhanh thôi.” Điện Hạ với Gia Cát Thủ đều là mạng phú quý không chịu nổi đói rét cực khổ, qua trận lăn lộn này họ cũng chịu đủ, không bỏ mạng trong Phong Hoa cốc mà ra ngoài lại bị chết đói chết khát thì khốn.

Hoàn Tình khẽ lên tiếng, đang muốn dời bước thì thấy hai cái bọc giấy lớn treo vắt vẻo trên người Kinh Niên, bèn hỏi một câu: “Kinh Niên cô nương, ta giúp cô cầm một cái nhé.” Nói rồi chìa một tay ra, bàn tay hướng tới trước.

Kinh Niên nhìn chằm chằm vào cổ tay xương xẩu của cô, tay trái nhẹ nhàng giơ lên, trả lại chỗ bạc vụn lúc nãy, đáp: “Bạc này cô giữ đi, không cần lo cho ta đâu, đi thôi.”  Dứt lời, quay người đi về hướng tháp tự, bước chân chậm hơn bình thường rất nhiều.

Hoàn Tình cười cười, lấy bạc về rồi thả từng bước nhỏ theo sau.

Trên đầm là một chiếc cầu đá hẹp nối thẳng tới cổng lớn tháp tự, khi vào tầng thấp nhất của điện thứ đập ngay vào mắt chính là một pho tượng Diêm Vương, dù thân không mạ vàng nhưng trông rất sống động. Kinh Niên nhìn quanh một vòng, tuy bên trong chùa vắng ngắt, nhưng được quét tước sạch sẽ tới nỗi không nhiễm một hạt bụi. Hai bên đài dâng lễ bày hai đế cắm nến đối xứng nhau, mỗi bên giá cắm nến đặt đứng một ống thẻ, trong lọ hương giữa đài cắm ba nén nhang, cháy chưa được phân nửa.

Hoàn Tình bước lên, đặt linh bia dưới tượng Diêm Vương, chắp tay lại xá một xá, rồi nhẹ nhàng thổi rơi tàn trên đầu nhang, xoay người lại nói với Kinh Niên: “Ba vị bằng hữu của cô đang nghỉ ngơi trong Tây thiền phòng trên tầng thượng, xin mời đi theo ta.”

Kinh Niên vòng qua cổng Thiên môn bên trái đi ra sau điện, tháp tự này không xây thang tháp, mà trên vách tường lõm vào một góc vuông nối từ tầng thứ nhất tới tầng cao nhất, hai người dọc theo mặt gạch nhô ra trong góc vuông, leo lên tầng cao nhất, băng ngang qua một góc đấu củng(*), đi lên hành lang tròn, đẩy cửa gỗ bốn cánh khắc hoa tước điểu ra, rồi xuyên qua điện thờ hình tai, thiền phòng nằm ngay sau cánh cửa núm tua(**), Hoàn Tình dẫn Kinh Niên vào trong, chuyển tới mặt khác của tháp.

(*) Đấu củng ( 斗拱):  một loại kết cấu đặc biệt của Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng, và những trụ kê hình vuông chèn giữa các cũng gọi là đấu..    

(**) Cửa núm tua hay còn gọi là cửa thùy hoa( 垂花 门): một kiểu cửa trong kiến trúc nhà thờ thời xưa, trên có mái, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ cột chạm trổ sơn màu.       

Thiền phòng phía Tây do ba gian nhà giữa và sáu phòng bên nối lại thành hình vòng cung, bọn Huyền Ảnh đang ngồi trong gian đầu của nhà giữa. Lúc đẩy cửa vào, Gia Cát thủ đang ngồi trên ghế thiền, còn Huyền Ảnh thì châm cứu cho Điện Hạ đang dựa nghiêng lên chiếc giường nhỏ. Nghe thấy tiếng động cả ba đều nhìn qua, thấy là Kinh Niên thì Gia Cát Thủ gật đầu coi như chào hỏi, sau đó nhắm mắt tu tâm. Kinh Niên thấy sắc mặt hắn không tốt, thái dương rướm mồ hôi, biết hắn đang vận khí điều dưỡng, không tiện quấy rầy, nên lấy đồ ăn và bình nước đặt lên cái bàn tròn, rồi đi thẳng tới trước giường.

Lúc này Điện Hạ đã tỉnh lại, nhìn thấy cô thì mừng rỡ trong lòng, đang định đứng dậy lại bị Huyền Ảnh ấn vai đè xuống: “Điện Hạ, hai mươi huyệt vị của ngài đã đâm châm, cần qua nửa canh giờ nữa mới có thể hoạt động.”

Điện Hạ nghe lời không vận sức, nhưng hai mắt vẫn nhìn Kinh Niên chằm chằm, bĩu môi nói: “Làm muội chê cười rồi.”

Kinh Niên dựng thẳng một ngón tay lên lắc lắc trước mặt y: “Điện Hạ đừng khách sáo với ta, nói thật, Kinh Niên vốn đang nghĩ ngài rất vô dụng, nhưng giờ thì bội phục rồi.”

Điện Hạ cười yếu ớt: “Mục ngự quan, muội đừng giễu cợt ta.”

Kinh Niên lắc đầu, quay lại trước bàn ngồi xuống. Hoàn Tình bê một cái khay tới, giữa khuỷu tay còn giắt vài bộ tăng bào, cô đặt khay lên bàn, quần áo thì mắc lên ghế, đoạn lật bốn cái chén đá trên khay lên, tổng cộng có bốn chén, tuy trên cạnh chén có lổ hổng, thân chén đầy rẫy vết nứt, nhưng sạch sẽ bóng loáng, không dính một hạt bụi.

Kinh Niên mở miếng giấy dầu đậy trên bình nước ra, hơi nóng tức thì bay ra từ miệng bình. Hoàn Tình cầm muôi múc nước vào bốn cái chén, bưng một chén cho Gia Cát Thủ trước. Gia Cát Thủ miệng khô lưỡi khô, nhận lấy chén nước uống một hơi cạn đáy, nói tiếng cám ơn rồi trả chén lại, cô nhận lấy đặt lại trong khay, rồi bưng chén thứ hai cho Huyền Ảnh, hắn lại đút hết cho Điện Hạ.

Ánh mắt của Kinh Niên dịch chuyển theo thân hình đang thong thả qua lại, thấy Hoàn Tình định bưng tiếp chén thứ ba thì vội cản lại: “Không vội, Huyền Ảnh không uống đâu.”

Hoàn Tình nhìn về phía Huyền Ảnh, tầm mắt rơi lên cái mạng che mặt đen kịt, khựng lại một hồi mới đặt chén xuống, nói với Kinh Niên: “Cô không uống sao?”

Kinh Niên đáp: “Ta không khát, khát thì sẽ tự uống.” Ngụ ý là muốn cô đừng quan tâm.

Hoàn Tình rũ mí mắt, cầm quần áo trên ghế đặt vào tay Kinh Niên: “Đây là đồ các tăng nhân trước đây để lại, nếu không chê, thì hãy thay bộ đồ dính máu kia đi, đợi ta giặt sạch cho cô rồi thay lại.” Dừng một chút rồi nói tiếp: “Mấy bộ tăng y này tuy cũ, nhưng ta đều giặt rất sạch.”

Kinh Niên nhìn gương mặt dịu dàng tái nhợt trước mắt, không hiểu sao cô ta lại dùng ánh mắt như nhìn người quen để nhìn mình, nếu từng quen, thì dù chỉ nhìn thoáng qua cô cũng quyết không quên.

Hoàn Tình cười yếu ớt, lúc không có ai nhìn qua, cô ta đưa tay ra chạm vào mặt Kinh Niên, cảm giác lạnh băng cứng ngắc từ đầu ngón tay miết thẳng tới đáy lòng Kinh Niên, ngay giây phút cô thất thần, Hoàn Tình đã đưa ngón tay chuyển qua Thi Ngũ gia, điểm một cái trên mu bàn tay, sau đó thu tay lại thấp giọng nói: “Dương lực không yếu, âm do thịnh chi, có tâm nhưng khó làm.”

Không đầu không mối, Kinh Niên nghe mà chẳng hiểu gì, nhưng biết lời này đang nói với mình, toan mở miệng hỏi thì Hoàn Tình đã chậm rãi bước ra ngoài cửa.

~ Hết chương 12 ~

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play