Chiều thứ tư, khi Cameron đến tòa để dự phiên sơ thẩm, cô gần như có thể thuyết phục bản thân rằng cuộc sống của cô đang trở lại bình thường.

May mắn thay, việc giám sát bảo vệ của cảnh sát hóa ra lại không phiền phức như Cameron tưởng. Cô gần như không nhìn thấy mấy viên cảnh sát đảm nhận ca ngày – họ bắt đầu nhiệm vụ của mình vào lúc sáu giờ sáng khi cô đang ngủ, gật đầu chào khi cô lái xe ra khỏi hẻm đến chỗ làm việc, đi theo cô tới văn phòng, rồi hầu như chẳng làm gì cho đến khi họ chuyển ca vào sáu giờ tối. Tuần ấy, cô phải xuất hiện ở tòa nhiều lần nhưng vì phòng xử án của cả Bắc quận Illinois và tòa án phúc thẩm đều ở cùng một tòa nhà với văn phòng luật sư Mỹ nên không cần cảnh sát phải hộ tống cô. Cameron cho rằng, đó không phải là một công việc tồi đối với họ khi được giao nhiệm vụ bảo vệ một người làm việc ở một trong những tòa nhà an toàn và được bảo vệ chặt chẽ nhất thành phố. Có thể ngày mai cô sẽ hơi điên rồ một chút khi chạy đến quán cà phê Starbucks chỉ để họ có thể thấy một chút động tĩnh.

Mấy anh chàng ca đêm thì lại khác. Họ dành thời gian giới thiệu bản thân ngay đêm đầu tiên họ làm nhiệm vụ bảo vệ Cameron và cô thấy mình nhanh chóng niềm nở với Kamin và Phelps bất chấp sự kỳ cục của tình huống ấy. Họ đã tạo nên một thói quen trong ba đêm vừa qua: họ theo cô từ chỗ làm về nhà, kiểm tra bên trong nhà cô để đảm bảo tất cả an toàn, chờ bên ngoài nhà cô trong xe ô tô khi cô thay quần áo thể dục, rồi đi bộ cùng cô đến phòng tập cách đó ba tòa nhà. Chắc hẳn việc ngước nhìn từ máy tập và thấy hai cảnh sát đang canh chừng từ quán nước hơi kỳ lạ nhưng rồi cô nhớ ra rằng mình có thể sẽ bị sát hại, chính điều đó đã giúp cô vượt qua được hoàn cảnh ấy.

Đã vô số lần Cameron tái hiện lại trong đầu mình khoảnh khắc cô thấy tên giết người qua lỗ cửa khi anh ta rời khỏi phòng 1308. Càng nghĩ, cô càng bị thuyết phục là hắn không thể nào biết được cô đã theo dõi. Hắn còn không nhìn về phía cửa lấy một lần và chẳng có hành động nào cho thấy hắn nghi ngờ cô có ở đó cả.

Đây là điều mà cô không hề muốn bị chứng minh rằng mình sai. Nói chung, nếu có bất kì sự dính dáng nào giữa cô và tên giết người kia thì cô tin chắc rằng sự cảnh giác dù có thừa cũng sẽ rất tốt. Và cho đến lúc họ bắt được hắn, cô sẽ cực kì vui sướng khi được FBI và CPD trông chừng.

Như mong đợi, phiên tòa sơ thẩm Cameron tới dự chiều hôm ấy diễn ra rất suôn sẻ. Đó là lần đầu tiên cô trở lại tòa kể từ chiến thắng trong vụ án tuần trước. Cảm giác khi được trở lại tòa thật thú vị, mặc dù không hẳn là vì vụ này. Bị cáo là một cảnh sát thuộc văn phòng quận trưởng cảnh sát quận Cock. Anh ta bị buộc tội “hành nghề tự do”, nhờ có sự dàn xếp, giúp đỡ và hỗ trợ an ninh của FBI nên anh ta đã giao dịch được năm vụ ma túy.

Cameron hoàn toàn không thích thú gì khi phải khởi tố một viên cảnh sát. Tuy nhiên, cô khăng khăng nhận vụ này, nếu có gì làm cô khó chịu hơn một kẻ phạm tội thông thường thì đó là một kẻ mặc đồng phục. Bị cáo là một sự ô nhục đối với nghề của bố cô, bởi thế, cô không có chút thương cảm nào với anh ta cả. Vụ này tất nhiên sẽ không khiến cô nổi tiếng với văn phòng cảnh sát quận Cock nhưng cô sẽ phải chấp nhận điều đó. Nếu cô thực hiện các vụ án chỉ để nổi tiếng thì cô chẳng hơn gì Silas.

“Luật sư có phản đối gì không?”

Cameron đứng dậy để trả lời thẩm phán: “Có, thưa quan tòa, chỉ một vài câu hỏi thôi!” Cô tiến về phía bục nhân chứng, nơi đặc vụ Trask đang đợi. Anh ta là nhân chứng cuối cùng của cô chiều hôm ấy và cô có thể cảm nhận được rằng thẩm phán rất nóng lòng để kết thúc mọi thứ của ngày hôm đó.

“Đặc vụ Trask, suốt thời gian chất vấn, luật sư của bị cáo đã liên tục hỏi anh về việc dàn xếp giữa anh với bị cáo trong thời gian anh còn làm việc dưới vỏ bọc. Trong những lần nói chuyện với bị cáo, các anh có thảo luận cụ thể về việc anh ta sẽ có biện pháp an ninh cho anh trong các vụ mua bán thuốc phiện không?”

Nhân viên FBI ấy gật đầu: “Sự dàn xếp của chúng tôi rất rõ ràng. Tôi trả cho bị cáo năm nghìn đô. Đổi lại, anh ta đồng ý canh chừng và sẵn sàng can thiệp trong trường hợp những nhân viên cảnh sát khác định cản trở việc vận chuyển ma túy.”

“Có khả năng nào bị cáo không nhận thức được rằng anh có ý định vận chuyển ma túy không?” Cameron hỏi.

Đặc vụ Trask lắc đầu. “Không. Trước mỗi lần giao dịch, tôi đều chứng thực là bị cáo mang súng rồi tôi mới thảo luận với anh ta lượng cocain hay heroin cụ thể. Đối tác của tôi sẽ đến điểm hẹn, giả vờ là người mua, còn bị cáo giúp tôi mang túi len thô đựng ma túy tới xe ô tô. Một lần, anh ta còn đùa với tôi và đối tác của tôi rằng chúng tôi thật ngớ ngẩn khi giao dịch ở khu vực đỗ xe của cửa hàng bán đồ ăn nhanh vào lúc giữa đêm, anh ta nói đó là nơi mà mấy người cảnh sát cộng sự thường tuần tra xem có vấn đề gì không. Anh ta bảo rằng nếu chúng tôi muốn buôn bán ma túy thì địa điểm tốt hơn là ở ga tàu.”

Luật sư bào chữa đứng bật dậy khỏi ghế. “Phản đối, không đáng tin cậy!”

Cameron quay sang thẩm phán. “Đây chỉ là phiên sơ thẩm, thưa quan tòa.”

“Phản đối bị bác bỏ!”

Cameron kết thúc phần chất vấn của mình và trở về chỗ ngồi ở bàn công tố viên. Bởi văn phòng cô đang ngập đầu vì công việc và thiếu người, hơn nữa đây cũng là phiên tòa sơ thẩm của một vụ mà cô cho là dễ nên cô ngồi một mình.

Thẩm phán liếc sang nhìn luật sư bào chữa. “Có ý kiến gì nữa không?”

“Không, thưa tòa.”

Đặc vụ Trask bước xuống khỏi bục nhân chứng. Đến khi anh ta đi ngang qua bàn của Cameron, điều lạ lùng nhất đã xảy ra. Anh ta gật đầu một cách lịch sự với cô.

Cameron chớp mắt hai lần, không chắc là mình nhìn đúng. Có thể anh ta bị tật máy giật mà cô đã không để ý. Bởi vì trong suốt ba năm qua, những nhân viên FBI ở Chicago mà cô làm việc cùng không hề dành chút thời gian nào cho cô ngay khi họ rời khỏi bục nhân chứng chứ nói gì đến việc gật đầu lịch sự. Rõ ràng là vì bây giờ, Jack đã quay trở lại và họ quyết định “tha thứ” cho việc mà họ nghĩ do cô gây ra.

“Luật sư?” Thẩm phán gọi Cameron.

Cô đứng lại. “Tôi không còn nhân chứng nào nữa, thưa tòa.”

Thẩm phán đưa ra phán quyết. “Dựa vào lời khai hôm nay cùng với bản khai chi tiết của FBI mà chính quyền nộp kèm đơn kiện, tôi nhận thấy có lí do để đưa vụ này ra phiên xét xử. Phiên tòa sẽ diễn ra vào mười giờ sáng ngày mười lăm tháng Chín.”

Họ sắp xếp lại một số tài liệu rồi tất cả cùng đứng dậy khi thẩm phán rời khỏi phòng. Luật sư bào chữa nói thầm điều gì đó với bị cáo trước khi tiến về phía bàn Cameron.

“Chúng tôi muốn thảo luận lại về lời bào chữa.” Luật sư nói.

Cameron không thấy ngạc nhiên nên cũng không quan tâm. “Xin lỗi, Dan. Điều đó sẽ không xảy ra.”

“Có nhiều cảnh sát quận Cock khác cũng làm điều tương tự như vậy. Khách hàng của tôi có thể kể ra một số cái tên.”

“Tôi đã có những cái tên đó từ Alvarez rồi!” Cô đáp. Alvarez là một gã khác mà FBI đã bắt giữ, một thường dân, người đã hỗ trợ phần “an ninh” cho hàng loạt vụ mua bán ma túy.

“Nhưng Alvarez đã không tham gia buổi gặp vào ngày mồng bốn tháng Sáu.” Dan phản đối.

Cameron khóa túi lại. “Nếu tôi quan tâm tới cuộc gặp hôm đó đến mức ấy thì tôi đã tìm đến anh cùng với thỏa thuận thay vì luật sư của Alvarez.”

Dan hạ giọng. “Thôi nào, Cameron, cho tôi biết điều gì đó mà tôi có thể nói với khách hàng của tôi đi. Điều gì cũng được.”

“Thôi được. Nói với anh ta là tôi không thỏa hiệp với những tay cớm hèn hạ.”

Dan gọi cô là “kẻ đáng ghét” và quay đi cùng với khách hàng của mình.

Cameron nhún vai và nhìn anh ta rời khỏi.

Ah… Trở lại tòa thật tuyệt!

***

Khi trở lại văn phòng vào buổi chiều, Cameron dành vài giờ trả lời điện thoại và tự dối mình rằng bằng cách nào đó, cô sẽ có đủ thời gian để nghiên cứu vụ kháng cáo mà cô phải hoàn thành vào tuần sau. Sáu giờ rưỡi, cô đầu hàng và thu dọn mọi thứ. Không bao giờ đủ thời gian trong một ngày cả, nhất là hôm nay.

Sau khi làm rõ với cảnh sát Phelps và Kamin, tối hôm ấy, kế hoạch của cô là hẹn hò với Max – nhà đầu tư ngân hàng cô gặp ở thang cuốn của Bloomingdale. Họ có vẻ thích thú câu chuyện của cô. Cách đây mấy tuần, cô đi mua giày trong giờ nghỉ trưa và trên đường quay về văn phòng, khi đang xuống thang cuốn thì điện thoại rung báo tin nhắn. Đó là thông tin từ tòa án về một phán quyết mà cô đang đợi, thế nên, cô bước xuống khi thang tiếp đất để đọc quyết định. Khi đọc xong, Cameron quên mất là mình đang ở đâu và bước ngay vào lối của một người đàn ông đang bước ra khỏi thang cuốn. Họ va vào nhau, ví và túi đồ của cô văng ra xa.

“Ôi trời, tôi xin lỗi!” Cameron nói khi sẩy chân, rồi cô đứng thẳng dậy. “Tôi không cố ý.”

Cô nhác thấy một người đàn ông quyến rũ đứng trước mặt mình. Không chỉ cao mà còn tóc vàng, da ngăm, trông tuyệt đẹp. Được rồi, bây giờ thì cô để ý rồi đây.

Cô mỉm cười dịu dàng. “Ồ, xin chào.”

“Tôi nghĩ cô đánh rơi một vài thứ đấy!”

Anh ta nói rồi cúi người xuống nhặt ví và túi đồ giúp Cameron. Cô thực sự có thể cảm nhận được làn gió nhẹ lướt qua lông mi của cô làm chúng rung rung. Thật là một người hào hoa phong nhã. Anh ta trông thật bảnh trong bộ comple xanh hải quân – một bộ đồ đắt tiền, đó là điều có thể nhận thấy một cách dễ dàng qua những đường cắt.

Hộp đựng giày bị bật mở và một trong những đôi giày cao gót tới mười phân có quai bạc hiệu Miu Miu của cô lộ ra.

“Giày đẹp thật!” Anh chàng nước da ngăm ngăm màu đồng nói vẻ hài lòng, rồi trao cho cô túi đồ và cái ví. Anh ta nhướng mày: “Dành cho một dịp đặc biệt chăng?”

“Lễ cưới của bạn thân tôi.” Cameron đáp. “Tôi là phù dâu. Cô ấy nói chúng tôi có thể đi bất kì đôi giày bạc nào chúng tôi muốn, nhưng giờ thì tôi không chắc lắm. Tôi hi vọng cô ấy đồng tình.”

Anh chàng cười tươi. “Ồ, tôi không biết cô dâu thế nào, nhưng tôi nghĩ người đi cùng cô sẽ hoàn toàn ủng hộ.”

“Người đi cùng, phải rồi… Phần đó tôi vẫn đang tìm.” Cameron nói.

Anh chàng da màu đồng giơ tay ra. “Trong trường hợp đó thì tên tôi là Max.”

Năm phút sau, anh ta rời khỏi đó sau khi đã xin số điện thoại của cô.

“Thế tên anh ta sẽ là gì nếu cậu đã có một người đi cùng đến đám cưới?” Collin trêu chọc khi cô gọi anh tối hôm đó.

Cô lập tức gác máy và gọi cho Amy.

“Giày mười phân á? Có chắc cậu có thể đi hết lối đi trong đôi giày ấy chứ?”

“Các cậu đang bỏ lỡ điểm chính của câu chuyện rồi đấy!” Cameron đáp.

“Cậu sẽ dẫn anh chàng ấy đến lễ cưới à?”

“Cậu biết đấy, trong suốt sáu phút chúng tớ nói chuyện, bằng cách nào đó mà tớ lại quên mất không hỏi.”

“Ừ nhỉ, tất nhiên rồi!” Ở đầu dây bên kia Amy ngập ngừng một chút. “Nhưng giả sử trong trường hợp cậu đưa anh ta đến đám cưới thì cậu nghĩ anh ta trông giống kiểu thịt bò hay cá hồi? Bởi vì tớ gần như phải chốt số người cho người tổ chức vào trước thứ Sáu rồi.”

Cứ như thể Cameron vẫn chưa đủ áp lực khi phải tìm một người đi cùng, bây giờ sự độc thân của cô còn có khả năng biến việc chuẩn bị kĩ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhất của Đám Cưới Hoàn Hảo Nhất Từng Có thành một mớ cực kì hỗn độn nữa.

“Tớ sẽ trả lời cái đó sau được chứ, Amy?” Cô hỏi.

Nhưng gần ba tuần sau, cô vẫn không có câu trả lời nào cho Amy cả. Và không chỉ về vấn đề thịt bò hay cá hồi. Dù họ đã hẹn hò được mấy lần rồi nhưng cô thậm chí vẫn chưa quyết định được là liệu cô có muốn đề nghị Max đi cùng tới lễ cưới hay không. Nếu là ở Chicago thì cô chẳng cần phải lăn tăn làm gì. Nhưng cô vẫn băn khoăn về việc liệu cô có muốn dành thời gian cả tuần để ở chung một phòng khách sạn với anh ta ở Michigan hay không. Chắc hẳn anh ta sẽ trông quá ổn khi khoác tay cô ở lễ cưới – một nhân tố không thể coi nhẹ - nhưng xét về tính cách, anh ta hóa ra lại không được như những gì cô mong đợi từ sau lần gặp đầu tiên.

Ban đầu, cô nghĩ Max xin số điện thoại của cô nhanh như vậy vì anh ta tự tin. Nhưng bây giờ, cô nhận ra rằng Max thúc đẩy mọi việc nhanh như thế là vì anh ta phải làm thế. Đó là một người tham công tiếc việc – anh ta ăn, ngủ và hít thở với công việc. Cameron hiểu thế nào là tận tâm với công việc – cô cũng tự xếp mình vào nhóm này, nhưng trong ba tuần gặp gỡ nhau, Max đã phải thay đổi lịch hai cuộc hẹn của họ. Anh ta đã xin lỗi, nhưng dù sao, đó cũng là một dấu hiệu đáng báo động.

Vì thế tối nay, cô sẽ quyết định. Cô là một phụ nữ độc thân ở độ tuổi ba mươi, bởi vậy, cô không có thời gian để chơi đùa với những thứ như thế. Max sẽ ở lại hoặc ra đi mãi mãi.

Kết thúc một ngày, Cameron tắt máy tính và thu xếp cặp tài liệu. Cô lấy áo khoác và vừa ra đến cửa thì điện thoại reo. Thấy Silas gọi, ngay tức khắc cô nghĩ tới việc không nghe máy. Nhưng văn phòng Silas ở trong góc ngay dưới sảnh, rõ ràng ông ta biết cô vẫn chưa về.

Cameron bắt máy. “Chào Silas, một phút nữa thôi là ông đã không gọi được tôi. Tôi đang định về.”

“Tốt! Ghé qua chỗ tôi trên đường về nhé!” Cô gác máy.

Cameron nhìn ống nghe, cô và Silas luôn có những cuộc trò chuyện dễ chịu.

Cameron cho rằng một phần là lỗi của cô. Cô sẽ không bao giờ cho qua việc Silas đã bán đứng cô trong vụ Martino. Và từ những gì cô thấy với những trợ lí luật sư Mỹ khác thì đó không phải lần đầu cũng chẳng phải lần cuối ông ta làm một việc tồi tệ như thế. Ba năm qua, cô đã quan sát thấy nhiều lần Silas để những công tố viên giúp việc mình hứng chịu sức nóng của sự bất bình nhắm tới văn phòng họ, nhưng lại cướp đi ánh hào quang từ họ mỗi khi có thành tựu hay thắng lợi lớn lao.

Nhiều luật sư Mỹ chấp nhận điều này như một phần thuộc về hoạt động chính trị của văn phòng và ở một mức độ nào đó, Cameron có thể hiểu lí do tại sao. Nhiều đồng nghiệp của cô cũng giống cô, đã từng là thành viên ở những công ty luật lớn trước khi chuyển đến văn phòng luật sư Mỹ và biết cơ chế vận hành của nó. Các luật sư ở tầng trên đón nhận tất thảy những danh tiếng và sự vinh quang, trong khi những binh nhì ở tầng trệt làm hết mọi việc, chờ đến ngày họ có thể vươn lên tầng trên và rõ ràng là khi đó, họ sẽ làm điều tương tự đối với những người làm việc cho họ. Đó chính xác là vòng đời của luật sư.

Hơn nữa, dù sao thì họ cũng chẳng làm được gì nhiều đối với Silas. Móc nối với những người đầy quyền lực là việc mà Silas làm tốt nhất (bởi vì ông ta tất nhiên không xử lí vụ nào nữa); đó là cách ông ta leo lên được đến vị trí hôm nay. Và cũng bởi vì luật sư chính phủ Mỹ được chính tổng thống chỉ định nên trừ trường hợp bất thường, Cameron và những người khác ở quận Bắc Illinois vẫn phải mắc kẹt với Silas ít nhất là đến khi người tiếp theo được lựa chọn.

Điều đó không có nghĩa là Cameron hoàn toàn chấp nhận mọi sự đối xử vô lí của ông ta. Còn lâu nhé! Đã có nhiều thay đổi trong mối quan hệ giữa họ trong ba năm qua. Cô không còn là một công tố viên cấp dưới nữa, trên thực tế cô là người có lượng xử lí vụ án cao nhất trong văn phòng và đảm nhận gần bảy lăm phần trăm các vụ ở bất kì thời điểm nào, một số vụ đã bị buộc tội, một số đang trong giai đoạn điều tra. Cô cũng là người có thành tích xử lí các vụ án tốt nhất trong số gần một trăm ba mươi công tố viên thuộc bộ phận chuyên về lĩnh vực hình sự của Bắc Illinois, điều này là nền tảng vững chắc khiến cô là người không thể thay thế được và mang lại cho cô sức ảnh hưởng lớn hơn. Vì thế, giữa cô và Silas có một sự thỏa thuận ngầm: miễn là những thắng lợi ở tòa của cô tiếp tục làm rạng danh và mang lại những lời ca tụng cho văn phòng thì về cơ bản, ông ta phải tránh đường cô. Như thế, ít nhất họ cũng đã thiết lập được một mối quan hệ về công việc có thể chấp nhận được.

Nhưng chắc chắn rằng đó là một mối quan hệ đòi hỏi sự khéo léo. Silas yêu cầu sự trung thành hay ít nhất là sự biểu hiện bên ngoài – từ các luật sư giúp việc và Cameron liên tục cảm thấy như thể mình phải cảnh giác khi ở bên cạnh ông ta. Mặc dù cô đã hứng chịu sự mất mặt trong vụ Martino và Silas biết cô không thích điều đó song ông ta vẫn luôn canh chừng cô sát sao.

Đó là lí do tại sao Cameron không bao giờ để cho ông ta khám phá ra việc cô đã nhảy vào để giúp Jack như thế nào cách đây ba năm.

Silas đã tác động với Bộ tư pháp, yêu cầu Jack phải bị sa thải bởi cách cư xử không phù hợp vì những lời bình luận của anh ta. Cameron ngờ rằng việc này chẳng có gì liên quan đến việc Silas cảm thấy bị xúc phạm thay cho cô mà là để hướng sự chú ý của mọi người vào thứ khác thay vì vấn đề thực sự: đó là quyết định không đưa ra bằng chứng chống lại Roberto Martino của ông ta.

Điều mà Silas không biết là Cameron có mối quen biết ở Bộ tư pháp – một người bạn cũ ở trường luật, và cô đã đứng sau mọi việc, cố gắng thuyết phục anh ta luân chuyển Jack thay vì sa thải hoàn toàn. Để tăng thêm sức mạnh cho việc này, cô đã đến văn phòng của Davis rất sớm vào một buổi sáng mấy ngày sau khi Jack đưa ra những lời bình luận ấy. Đó là một việc mạo hiểm, cô biết, nhưng cô cũng biết Davis đã đấu tranh cho Jack và bản năng mách bảo rằng cô có thể tin tưởng ông ta. Cô giải thích mọi việc, kể cả chuyện Silas đã tác động để Jack bị sa thải và đưa cho ông ta tên của người bạn cô ở Bộ tư pháp. Hai người cùng ngấm ngầm tác động sẽ tốt hơn là một, cô nói với Davis như vậy, rồi yêu cầu ông ta không bao giờ nói với ai về mục đích của cuộc viếng thăm đó.

“Tại sao cô lại làm thế?” Davis đã hỏi như vậy khi ông tiễn cô ra cửa. “Sau những gì Jack nói về cô, tôi đã nghĩ cô sẽ lấy làm vui khi anh ta bị sa thải.”

Cameron cũng hỏi chính mình câu này. Câu trả lời đơn giản chỉ nằm ở những nguyên tắc của cô. Dù tức giận với Jack thế nào vì những lời bình luận của anh ta nhưng nếu đã liên quan đến công việc thì cô luôn dẹp vấn đề cá nhân sang một bên, ngay cả trong trường hợp này cũng vậy.

Cameron đã đọc các tài liệu. Silas không đọc chúng và cả những nhân vật cấp cao ở Bộ tư pháp cũng vậy, nhưng cô nghĩ chắc rằng bất kì ai biết những việc mà Jack đã trải qua khi chịu sự tra tấn bởi tay sai của Martino, cũng sẽ dành cho sự tận tụy với công việc của anh một niềm kính phục tuyệt đối. Có thể Jack còn nhiều điểm phải cải thiện về tính cách, nhưng anh ta là một điệp vụ FBI cừ khôi.

“Thế ông có muốn nhìn Jack bị sa thải không?” Cô đáp lại câu hỏi của Davis.

“Tất nhiên là không rồi. Anh ta có thể được coi là đặc vụ xuất sắc nhất ở Sở này.”

“Tôi đồng tình.” Nói rồi Cameron mở cửa và bước ra khỏi văn phòng của Davis.

Cameron trông thấy Jack đứng ở bên kia lối đi, anh cứ nhìn cô chằm chằm.

Cameron có một chút hốt hoảng – không ai được biết cô đang ở đó. Nhưng cô cố giữ cho nét mặt mình bình thản và không có cảm xúc gì, sau đó đi ra mà không nói một lời nào.

Cô biết Jack nghĩ gì và những suy đoán của anh ta ngày hôm ấy. Anh ta hẳn đã nghĩ rằng cô là người làm cho anh ta bị luân chuyển và có thể anh ta giả định rằng cô đến gặp Davis sáng hôm ấy để phàn nàn về anh ta. Thật không may là cô chẳng làm gì được để thay đổi suy nghĩ đó cả. Cô đã vượt mặt Silas để bênh vực cho Jack và với ông ta thì đó sẽ là một vi phạm lớn về sự trung thành. Cô tin chắc rằng Silas sẽ sa thải cô ngay tức khắc nếu ông ta phát hiện ra. Thế nên Cameron đành cắn răng để Jack tiếp tục tin vào những điều tồi tệ nhất về mình.

Suy cho cùng thì anh ta cũng đã khinh miệt cô vì vụ Martino. Thêm một que củi vào đám lửa thì cũng chẳng khác gì mấy.

Khi Cameron tới phòng Silas, cô gõ cửa. Ông ta ra hiệu mời cô vào.

“Cameron, ngồi đi!”

Cameron bước vào phòng – một căn phòng rộng theo chuẩn của chính phủ và được trang hoàng lộng lẫy, cô ngồi xuống một cái ghế trước bàn làm việc của Silas. “Xin lỗi ông vì tôi sẽ nói chuyện ngắn gọn thôi. Tôi còn có việc phải đi trong khoảng một tiếng nữa và tôi cũng cần ghé qua nhà trước đã.”

“Sẽ không lâu đâu!” Silas nói. “Tôi chỉ muốn biết chắc là mọi việc với cô vẫn ổn. Cô biết đấy, với tất cả mọi chuyện mà cô đã trải qua cuối tuần vừa rồi!” Mặc dù lời lẽ của ông ta rất lịch sự nhưng đôi mắt ánh lên vẻ khó chịu, thậm chí còn có cả sự tức giận.

Cameron trả lời một cách thận trọng, không chắc về việc ông ta đã biết đến đâu. “Tôi vẫn ổn. Cám ơn ông vì đã quan tâm.”

“Cô có thể bỏ qua những lễ nghi thông thường, Cameron ạ. Tôi biết tất cả về vụ điều tra của Robards. Chiều nay, giám đốc của FBI từ quận Columbia đã gọi cho tôi để bày tỏ là ông ta đánh giá cao sự hợp tác của văn phòng chúng ta trong vấn đề này. Tất nhiên tôi không hề biết ông ta đang nói về chuyện gì. Tôi đoán ông ta chỉ cho rằng tôi cũng tham gia khi một trong những luật sư của mình là nhân chứng của một vụ án liên quan đến một thượng nghị sĩ Mỹ và được đặt dưới tình trạng giám sát bảo vệ. Tôi đoán, tôi cũng sẽ cho là như vậy.”

Vì mọi việc đã bị lộ nên Cameron cố gắng làm cho mọi việc êm xuôi. Cô có thể hình dung ra việc Silas cảm thấy như thế nào khi bị người đứng đầu FBI phát hiện ra là không hề biết gì. “Tôi rất tiếc nếu ông gặp phải tình thế khó xử với Godfrey.” Cô nói. “Các nhân viên FBI phụ trách việc điều tra nói rằng tôi không được phép nói ra những chi tiết của vụ việc cho bất kì ai.”

“Tôi hiểu đó là một vấn đề bí mật, nhưng tôi cần phải biết khi một trong những luật sư của mình đối mặt với nguy hiểm.”

“Nếu tôi nhận được bất kì mối đe dọa thật sự nào, tôi sẽ cho ông biết. Nhưng cho đến giờ thì chỉ là một biện pháp đề phòng thôi!” Cameron không biết ông ta có thấy nguôi giận hay không. Cô nghĩ tốt nhất là chuyển hướng chú ý của ông ta ra khỏi chủ đề này. “Tôi không biết liệu ngài Giám đốc FBI đã đề cập đến điều này hay chưa, nhưng Jack Pallas điều tra vụ này.”

Mắt Silas mở to vì ngạc nhiên: “Pallas trở lại rồi à? Từ khi nào vậy?”

Cameron nhún vai. “Tôi nghĩ chỉ mới gần đây thôi.”

Điểm cốt yếu là sự trở lại của anh ta tạm thời đang làm rối tung văn phòng của cô thêm một lần nữa.

***

“Anh đang nghĩ gì vậy?”

Jack xoa xoa tay trên mặt mình và nhìn sang Wilkins. “Tôi đang nghĩ sẽ không bao giờ muốn gặp một luật sư nào trong quãng đời còn lại của mình nữa.”

Như dự đoán, đoạn băng từ máy quay ở khách sạn không cho thấy manh mối nào cả. Bây giờ, họ chuyển hướng sang thẩm vấn Thượng nghị sĩ Hodges và nhân viên của ông ta. Tất nhiên là đội ngũ luật sư của ông ta đã làm cho mọi việc trở nên khó khăn. Nhưng ít nhất, họ cũng biết được một vài điều: nhiều người trong số nhân viên của Hodges thừa nhận là họ biết những chuyện dan díu của ông ta với gái gọi và một số thậm chí còn thừa nhận là biết rất rõ về Mandy Robards.

Hai người đầu tiên mà họ phỏng vấn là Alex Driscoll, tham mưu trưởng của ngài thượng nghị sĩ và Grant Lombard, vệ sĩ riêng của ông ta. Khi được hỏi, cả Driscoll và Lombard đều nói rằng đã ngủ ở nhà trong khoảng thời gian diễn ra vụ án. Với cả hai người này thì có vẻ như không có bằng chứng nào mâu thuẫn hay xác nhận lời khai này cả. Họ đều thừa nhận bản thân biết mối quan hệ của Hodges với Mandy Robards; sự thật là cả hai cùng nói rằng họ biết Hodges định gặp cô gái kia vào đêm cô ta bị giết. Lombard đã sắp xếp với dịch vụ gái gọi (việc mà Hodges thú nhận là “thỉnh thoảng” có yêu cầu Lombard làm), còn Driscoll đã tham dự bữa tối từ thiện với ngài Thượng nghị sĩ và cũng biết về kế hoạch gặp gỡ Robards của Hodges vào đêm ấy.

Cả Lombard và Driscoll đều không sẵn sàng hợp tác về vấn đề của Hodges, vì với vai trò là vệ sĩ và tham mưu trưởng của thượng nghị sĩ, họ không được phép làm như vậy. Mặc dù không ai trong số họ có bằng chứng ngoại phạm thì việc cả hai khai rằng đã ở nhà vào thời điểm xảy ra vụ án và ngủ một mình (Driscoll đã ly hôn còn Lombard chưa kết hôn) một lần nữa cũng chẳng có gì bất thường cả. Tuy nhiên, cả hai người họ đều khớp với miêu tả tổng quát về ngoại hình của người đàn ông đã rời khỏi phòng 1308 mà Cameron trông thấy.

Jack biết điều đó không nói lên gì nhiều nhưng cũng đủ để điều tra kĩ hơn về hai người này.

“Hãy kiểm tra nhật kí cuộc gọi của Driscoll, Lombard và kiểm tra chéo với những số điện thoại đã liên lạc với Mandy Robards mà chúng ta có.” Jack nói với Wilkins. “Chúng ta sẽ lấy bản kê thẻ tín dụng của họ trong hai năm qua để xem có gì khác thường hay không. Đồng thời, chúng ta cần bắt đầu với danh sách những người mà Hodges tin rằng có thể có thù hận với ông ta.”

Wilkins gật đầu đồng tình. Ngay lúc ấy, điện thoại kêu. Jack thấy đó là cuộc gọi từ bộ phận an ninh tiền sảnh.

“Pallas nghe.” Anh trả lời.

“Cảnh sát Kamin và Phelps từ Sở cảnh sát Chicago đang ở đây và muốn gặp anh. Họ có gì đó cho anh từ thám tử Slonsky.” Nhân viên anh ninh buổi tối nói.

“Cám ơn, cho họ vào đi!”

Jack gác máy và nhìn Wilkins. “Kamin và Phelps đang tới.” Anh cau mày. “Đây chẳng phải là mấy gã mà Slonsky giao nhiệm vụ bảo vệ Cameron sao?”

Wilkins liếc nhìn đồng hồ. “Họ làm ca tối, tôi nghĩ vậy.”

“Thế thì họ đang làm gì ở đây nhỉ?”

“Anh sẽ phải hỏi họ thôi!” Wilkins có thể cảm nhận được một chút khó chịu thoáng qua. “Hãy cố gắng cư xử dễ chịu, Jack! Hãy nhớ rằng chúng ta đang làm việc với những gã này.”

Khi Kamin và Phelps tới văn phòng, Wilkins đứng dậy và đón chào họ với một nụ cười thân mật. “Xin chào các ngài cảnh sát. Tối nay, cơn gió nào đưa các anh đến đây vậy?”

Viên cảnh sát đứng tuổi tự giới thiệu mình và người đồng nghiệp trẻ hơn. “Tôi là Bob Kamin, còn đây là cộng sự của tôi, Danny Phelps.” Anh ta giơ ra một chiếc phong bì lớn. “Thám tử Slonsky bảo chúng tôi mang cái này đến cho các anh. Ông ấy bảo đây là báo cáo từ phòng thí nghiệm mà các anh đang chờ.”

Jack rời khỏi ghế và lấy chiếc phong bì từ Kamin. “Cám ơn!” Wilkins liếc nhìn Jack và ra hiệu là mọi chuyện đều ổn. “Vậy… Chúng tôi đã nghĩ rằng các anh được giao bảo vệ cô Lynde. Chắc là chúng tôi đã nhầm?”

“Không đâu, các anh đoán đúng rồi!” Kamin nói. “Chúng tôi làm ca tối. Đó là một cô gái dễ thương. Chúng tôi trò chuyện rất nhiều trên đường tới phòng tập.”

“Ồ, đặc vụ Wilkins và tôi chỉ thấy tò mò không hiểu tại sao hai anh lại ở đây thay vì đi cùng cô ấy.”

Kamin xua tay. “Không sao. Chúng tôi đổi ca với một người khác, các anh hiểu chứ?”

“Đổi ca… Đúng rồi. Nhắc lại giúp tôi xem nó là như thế nào!” Jack hỏi.

“Đó là vì tối nay cô ấy có cuộc hẹn hò quan trọng.” Kamin giải thích.

Jack gõ đầu mình. “Một cuộc hẹn ư?”

Phelps xen vào. “Đúng vậy, anh biết đấy, với Max – nhà đầu tư ngân hàng cô ấy gặp ở thang cuốn của Bloomingdales.”

“Hẳn là tôi đã bỏ lỡ phần đó.”

“Ồ, đó là một câu chuyện thú vị.” Kamin nói. “Cameron va vào Max lúc đang bước ra khỏi thang cuốn và khi túi đồ của cô ấy bật ra, anh ta nói thích giày của cô ấy.”

“À… Cuộc gặp gỡ dễ thương.” Wilkins cười lớn.

Jack đột ngột quay sang nhìn Wilkins. “Anh vừa nói gì cơ?”

“Anh biết đấy! Cuộc gặp gỡ dễ thương.” Wilkins giải thích. “Trong những bộ phim hài lãng mạn, đó là cách người ta gọi khoảng khắc mà người đàn ông và người phụ nữ lần đầu tiên gặp nhau.” Anh ta mân mê cằm, suy tư. “Tôi không biết nữa, Jack à… Nếu cô ấy có cuộc gặp gỡ dễ thương với một người đàn ông khác thì điều đó không phải là điềm tốt cho anh đâu.”

Jack gần như phải nghĩ đi nghĩ lại khi anh cố gắng hiểu điều đó có nghĩa là gì.

Phelps lắc đầu. “Không đâu, tôi không định nói mọi chuyện đến mức ấy. Cô ấy vẫn còn phân vân về anh chàng này. Anh ta gặp khó khăn trong việc giữ cho công việc không ảnh hưởng đến đời sống riêng. Nhưng cô ấy lại cảm thấy áp lực lớn với đám cưới của Amy – cô ấy chỉ có khoảng mười ngày nữa để tìm một người đi cùng.”

“Cô ấy là phù dâu mà.” Kamin nói.

Jack nhìn ba người họ chằm chằm. Môi họ chuyển động và âm thanh phát ra, nhưng cứ như thể họ đang nói một ngôn ngữ khác vậy.

Kamin quay sang Phelps. “Thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ cô ấy nên đi với Collin, vì anh ta và Richard đã chia tay rồi.”

“Ừ, nhưng anh nghe cô ấy nói gì rồi đấy, cô ấy và Collin cần phải dừng việc lợi dụng nhau làm bình phong. Việc đó bắt đầu làm ảnh hưởng đến những mối quan hệ khác của họ.”

Thật không thể tin được! Jack luồn tay qua tóc, chỉ muốn nhổ nó đi. Nhưng rồi anh tìm ra một điểm để cám ơn Cameron Lynde và điều đó lại càng làm anh khó chịu hơn nữa. “Chúng ta có thể trở lại phần đổi ca chứ?”

“Đúng rồi, tôi xin lỗi. Đó là gợi ý của Slonsky. Hóa ra cuộc hẹn của cô ấy tối nay ở Spiaggia. Các anh biết nhà hàng này chứ?” Phelps hỏi.

Jack gật đầu. Anh chưa bao giờ đến đó nhưng cũng biết đến nhà hàng ấy. Một nhà hàng năm sao – một trong những nhà hàng số một trong thành phố - nằm ở điểm cực Bắc của Magnificent Mile và được biết đến vì cảnh lãng mạn của hồ Michigan.

“Slonsky biết một viên cảnh sát làm bảo vệ ở đó vào buổi tối. Ông ấy tính rằng ông ấy sẽ cung cấp thông tin về cô Lynde cho anh ta qua điện thoại khi cô ấy ở Spiaggia, vì anh ta đã biết cách bố trí cũng như mọi thứ khác của nhà hàng đó.” Kamin nói.

Phelps lấy khuỷu tay thúc cho anh ta một cái. “Kể cho anh ấy về phần kia đi.”

Kamin bắt chéo tay trước ngực và có vẻ bực tức. “Slonsky còn nói là gã này sẽ trà trộn ở nhà hàng tốt hơn là chúng tôi. Ai mà biết được điều đó có nghĩa là gì.”

“Thế là chúng tôi đưa cô ấy đến nhà hàng đó và đảm bảo cô ấy đi vào an toàn, và chúng tôi sẽ quay lại khi cô ấy muốn về. Cô ấy sẽ gọi chúng tôi.” Phelps nói.

Jack không thích kế hoạch này tí nào. Anh không hài lòng với việc Slonsky đưa một gã mới nào đó vào để trông chừng Cameron. Mặc dù sau khoảng ba phút nói chuyện với Phelps và Kamin thì anh cũng không chắc là anh muốn họ trông chừng cô ta hơn.Tuy nhiên, anh nghĩ mình cũng chẳng có gì để phàn nàn cả. Slonsky chịu trách nhiệm phần việc này trong vụ điều tra và và có vẻ họ đã tính toán mọi chuyện một cách thấu đáo. Nhưng không hiểu sao toàn bộ việc hẹn hò này lại làm cho anh cảm thấy khó chịu.

Thay vì nói một điều gì đó mà sẽ làm lộ điều này ra, Jack cám ơn Phelps và Kamin vì đã mang tới bản báo cáo của phòng thí nghiệm và tiễn họ ra cửa trước khi họ lại bắt đầu lải nhải về Cameron và Max – cái gã mà anh không thể biết mình có nhớ đúng tên hay không và cuộc gặp gỡ dễ thương hay gì gì đó giữa họ. Ừ thì anh ta đã nói với Cameron rằng anh ta thích giày của cô ta nhưng thế thì đã sao chứ? Toàn bộ chuyện này đối với anh nghe có vẻ giống như một cuộc gặp gỡ vớ vẩn thì đúng hơn, chẳng có nghĩa lí gì cả.

“Tôi tự hào về anh, Jack ạ!” Wilkins nói sau khi Kamin và Phelps đi khỏi. “Không hề có một ánh nhìn quắc mắt nào.”

“Chúng ta vẫn nói về việc quắc mắt đấy à?”

Trước khi Wilkins kịp trả lời thì điện thoại của Jack lại đổ chuông. Anh bắt máy. “Pallas nghe đây!”

Ở đầu dây bên kia, nhân viên trực điện thoại của văn phòng báo với anh rằng Collin McCann đang chờ anh ở đầu dây bên kia.

Jack nhíu mày. “Nối máy cho anh ta!”

“Tôi xin lỗi vì đã làm phiền anh.” Collin nói ngay khi được nối máy. “Nhưng việc này là về Cameron và tôi không biết gọi ai khác nữa ngoài anh. Tôi biết việc cô ấy có liên quan là bí mật.”

“Có gì không ổn à?” Jack hỏi. Nghe thấy vậy, Wilkins ngước nhìn.

“Có thể là không có gì.” Collin trả lời. “Tối nay, cô ấy có cuộc hẹn. Có thể cô ấy chỉ… bận thôi.”

Jack nghiến răng. Nếu thêm một người nữa đề cập đến cuộc hẹn chết tiệt này thì… “Nhưng sao?”

“Cô ấy không nghe điện thoại. Tôi đã gọi nhiều lần và tôi chỉ nhận được hộp thư trả lời tự động của cô ấy thôi.”

“Có thể cô ấy đã tắt máy.” Jack nói. Rất có thể không muốn bất cứ điều gì làm gián đoạn buổi tối với Max – người rõ ràng rất tôn thờ giày của phụ nữ.

“Đây là lần đầu tiên.” Collin nói. “Theo tôi biết thì cô ấy chưa bao giờ tắt máy cả. Cô ấy luôn mở máy vì công việc.”

Jack dừng lại một chút. “Được rồi, chúng tôi sẽ lo việc này.”

Anh gác máy và quay sang Wilkins. “Đó là McCann. Anh ta nói Cameron không trả lời điện thoại di động. Có thể là do sóng yếu, nhưng chúng ta cũng nên kiểm tra lại.” Anh nhấc máy gọi Slonsky. Viên thám tử không trả lời, Jack để lại tin nhắn bảo ông ta gọi lại.

Jack nhíu mày. “Phelps hay Kamin có nhắc đến tên của gã đang trông chừng Cameron không nhỉ?”

Wilkins lắc đầu. “Không!”

Jack nhanh chóng tra số điện thoại nhà hàng Spiaggia và quay số. Hai mươi giây sau, anh gác máy, độ nản lòng của anh đã tăng thêm khoảng mười lần. “Tôi nhận được một đoạn ghi âm nói rằng tôi nên thử gọi lại trong khoảng vài phút nữa nếu tôi gọi vào giờ làm việc bình thường. Rất hữu ích đấy!” Anh nói với Wilkins. “Chúng ta có số của Phelps hay Kamin không?”

“Không!”

Tuyệt thật! Rõ ràng việc này sẽ phải thay đổi sớm nhất có thể. “Hãy gọi cho đồn và báo với họ. Thật tốt nếu chúng ta có thể tìm được ai đó biết được điều gì.”

“Nhà hàng ấy chỉ cách đây khoảng hai dặm thôi.” Wilkins nói. “Sao tôi không ở lại và cố gắng liên lạc với họ, Sở cảnh sát Chicago và Cameron, còn anh thì đến nhà hàng ấy và kiểm tra mọi thứ xem sao nhỉ? Với tốc độ của anh thì anh sẽ đến đó và về chỉ trong mười lăm phút.”

Jack gật đầu, anh cũng nghĩ như vậy. Có hàng đống lí do vô hại giải thích tại sao Cameron không nghe máy. Nhưng ý nghĩ về một lí do không vô hại nào đó khiến anh phải đi nhanh chóng. Anh chộp lấy chìa khóa và nhét vào túi sau quần bò. “Phelps và Kamin nói họ thấy cô ấy đi vào nhà hàng, thế nên ít nhất là chúng ta biết như vậy. Nếu anh có thể liên lạc được với nhà hàng, hãy đảm bảo gã cảnh sát mà Slonsky nhờ trông cô ấy không làm sao cả, dù anh ta là gã quái nào đi nữa, rồi gọi cho tôi. Rất có khả năng việc này chẳng có cái gì cả.”

“Nếu không phải là không có gì thì sao?” Wilkins hỏi.

Jack giật mạnh ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc và kéo ra một khẩu súng, súng Glock 27 loại nhỏ. Anh giắt nó vào miếng lót quanh mắt cá chân. “Vậy thì tôi sẽ biến nó thành không có gì cả, ngay khi tôi đến đó.”

Bởi không ai có thể can thiệp vào nhân chứng của anh cả, ngay cả lần này cũng vậy.

Sáu phút sau, khi đã phóng xe chạy qua thành phố với tốc độ vượt quá mức quy định mà chỉ có một tay lái cừ khôi và một nhân viên FBI với phù hiệu mới có thể chạy được mà không sợ chết hay bị bắt, Jack đỗ chiếc Triumph ở tòa nhà trước khách sạn. Anh giơ phù hiệu ra cho tay bảo vệ tiền sảnh xem để chắc chắn rằng xe mình không bị chuyển đi nơi khác. Sau khi chạy nhanh lên cầu thang cuốn, anh đến sảnh bằng cẩm thạch của nhà hàng Spiaggia.

Trưởng bộ phận phục vụ bàn bước đến, trông có vẻ phiền lòng. “Xin lỗi, tôi hi vọng ngài chưa đợi lâu. Tối nay đông hơn chúng tôi dự đoán. Tôi giúp được gì cho ngài?” Anh ta để ý quần bò của Jack và nhìn một cách ngờ vực.

Jack vẫn cầm phù hiệu trên tay. “Jack Pallas, FBI. Tôi đang tìm một vị khách trong nhà hàng của ông, tên là Cameron Lynde. Đó là một phụ nữ có mái tóc màu tối, tầm ba mươi tuổi và cao khoảng năm foot ba[12].”

Anh ta xem phù hiệu của Jack. “Andy bảo rằng tôi không được tiết lộ những thông tin như vậy. Ông ấy còn dặn kĩ tôi phải gọi cho ông ấy nếu tối nay có bất kì ai hỏi về điều này.”

Ít ra thì sở cảnh sát Chicago cũng làm đúng chuyện này. “Anh nghe đây, hãy gọi cho ông ta trong khi chờ đợi, tôi sẽ tìm xung quanh xem sao.” Không chút chần chừ, Jack bước vào phòng ăn chính và nhanh chóng bao quát mọi thứ xung quanh. Nhà hàng phân ra hai cấp: khu vực ăn chính và một cấp thấp hơn – nơi những chiếc bàn được bố trí gần những cửa sổ kéo dài từ nền nhà đến trần nhà đầy ấn tượng. Do có nhiều đèn chùm lộng lẫy treo phía trên nên ánh sáng trong nhà hàng khá mờ ảo, có lẽ để tôn lên cảnh quan thành phố và hồ Michigan. Anh phải mất một lúc mới nhìn hết một lượt tất cả khách ngồi ở cấp thứ nhất. Không thấy Cameron đâu cả, anh tiến ngay tới rào chắn của ban công và tìm cô ở những chiếc bàn bên dưới. Anh thấy Cameron ở bàn thứ hai từ bên trái, cô đang ngồi một mình cạnh cửa sổ.

Trong chốc lát, anh phải dừng lại và chỉ ngắm nhìn, bởi vì những gì anh thấy được từ ban công thật lộng lẫy.

Không phải anh đang nói đến cái hồ. Ánh nến dịu nhẹ trên bàn làm sáng lên những sợi vàng óng ánh trên mái tóc màu hạt dẻ của Cameron. Cô mặc chiếc váy sát nách màu đen, làm tôn lên những đường nét gợi cảm mà Jack phải công nhận là của một thân hình tuyệt đẹp.

Cameron ngồi ở bàn, nhìn ra cửa sổ bên cạnh. Anh quan sát thấy cô nhấp một ngụm rượu từ chiếc ly trên tay, trông có vẻ không vui. Cô nhìn đồng hồ rồi bắt chéo chân, để lộ đường xẻ trên váy cao đến đùi.

Jack để ý thấy chỉ có một thực đơn đặt trên bàn. Chẳng cần phải là một đặc vụ mới có thể biết chuyện gì đã xảy ra. Không phải anh quan tâm hay lo lắng điều gì, nhưng cái anh chàng Max ấy quả là ngu xuẩn khi để một cô gái như thế ngồi một mình trong nhà hàng.

Điện thoại trong túi áo khoác của Jack bỗng rung lên. Anh lấy ra và nhìn màn hình, là Wilkins gọi.

“Tôi vừa nói chuyện với viên cảnh sát ở nhà hàng. Tên anh ta là Andy Zuckerman. Anh ta nói rằng Cameron ổn.” Wilkins nói.

“Tôi thấy rồi!” Jack xác nhận. “Cô ta nhìn vẫn ổn. Tôi sẽ tìm hiểu xem có chuyện gì xảy ra với điện thoại của cô ta rồi quay lại chỗ anh.”

Anh tắt máy và đi về phía bàn của Cameron.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play