Tancred và Lysander không thích gì bằng được thách thức. Không cần nhìn chúng cũng biết những vị khách không mời mà đến nhà cô Vertigo là ai. Tiếng sủa gắt gỏng đã tố cáo tất cả.,
“Lũ chó săn,” Lysander nói.
“Bọn nhà Loom!” Tancerd cười như đã biết chuyện. Ngước lên trời, chú giơ hai tay lên. Chớp mắt sau, một thác nước từ trên cao đổ xuống, hết như một cửa cống từ trong mây mở ra.
Olivia mở những cánh cửa sổ kiểu Pháp* cho Lysander chạy vào nhà. Mưa vẫn chút trên đầu Tancred như thác. Chỉ trong tích tắc, chú đã đứng trong xấp xỉ ba phân nước, với chớp rạch ngoằn ngoèo qua bãi cỏ phẳng lì nhà cô Vertigo thành những dải ánh sáng lóa mắt.
“Cậu ta bị sét đánh bây giờ,” cô Vertigo hốt hoảng. “Ai đó lôi cậu ta vào mau.”
“Cậu ấy không bị sét đánh đâu,” Lysander bảo cô. “Cậu ấy làm ra thời tiết mà.”
Olivia chạy vào nhà bếp, nơi có một cửa sổ nhỏ nhìn ra đường. Đứng chùm nhum trên bậc thềm, bọn anh em nhà Loom đang chới với khống chế lũ chó của chúng. Những sinh vật phát rồ đang lồng lộn căng dây xích, cố chạy thoát khỏi cơn bão.
Vừa nguyền rủa cái tình thế khó xơi này, bọn anh em nhà Loom vừa hậm hực cút khỏi ngôi nhà và loạng choạng chạy qua mưa, bị lũ chó điên lôi đi.
Olivia chạy trở vào phòng khách và thông báo, “Bọn chúng chuồn rồi!”
“Ồ hay quá,’ cô Vertigo mừng rỡ, cô vốn là người hoàn hồn rất nhanh sau biến cố, như thể nó chưa bao giờ xảy ra vậy. “Các cháu gọi anh tóc vàng vào được rồi đấy, xong chúng ta sẽ xơi bánh bơ xốp.”
“Cháu e là chưa xong đâu, thưa cô Vertigo,” Lysander nói. “Bọn anh em nhà Loom là đồ vớ vẩn so với những gì sắp xảy ra.”
“Cháu định nói về cái tay thầy bùa đó chứ gì? Hắn cũng không làm cô hoãn được bữa trà của mình đâu,” cô Vertigo nhận xét với vẻ bình tĩnh lạ kỳ. “Cứ nghĩ mà xem, chúng ta vẫn chưa ăn trưa cơ mà, đúng không?”
“Xin phép cô,” Charlie khẽ khàng nói, “cháu không thể ăn được gì vào lúc này cả. Cháu chỉ muốn xem cái gương thôi.”
Olivia lôi chiếc gương ra khỏi túi áo nó một cách bay bướm. “Đây!”
“Ghê quá,” Lysander ngó vào khoảng thủy tinh. “Nhưng nó không phải là gương.Cháu chẳng trông thấy gì cả.”
“Thật nhẹ người,” Olivia nói. “Vậy mà em cứ tưởng mình là ma cà rồng chứ.”
“Cho mình xem?” Charlie vươn tay ra.
Olivia đưa cho nó chiếc gương, “Đằng ấy định làm gì với nó vậy, Charlie?”
“Mình vẫn chưa nghĩ ra, mình chỉ muốn gạt nó ra khỏi tên bá tước thôi. Nhưng bây giờ...” Charlie nhìn màn sương phủ trên bề mặt gương. “Mình muốn ở lại một mình với nó một chút.”
“Dĩ nhiên, Charlie,” Olivia dẫn Charlie lên phòng của nó. Con bé để Charlie ngồi lên giường thì thào “chúc may mắn” rồi đóng cửa lại, để Charlie bên trong.
Trong vài giây Charlie sợ đến nỗi không dám nhìn cái gương lần nữa. Nó nhắm mắt lại và lời của Ông cậu Paton vẳng về với nó. “Hãy nhìn vào gương và người mà cháu ước ao được thấy sẽ hiện ra. Nếu cháu muốn tìm người đó, hãy nhìn thêm lần nữa, và cái gương sẽ đưa cháu đến chỗ họ, cho dù họ ở bất cứ nơi nào.”
“Nhưng mình không thể nhớ mặt ba,” Charlie thở dài. “Ai đó giúp tôi với.”
Nó cảm thấy có gì đó quét nhẹ nơi cổ mình, và con bướm bay đậu lên khung vàng của chiếc gương và nhẹ nhàng vỗ đôi cánh bạc. Màn sương mù phía trên mặt gương bắt đầu tan đi.
“Làm sao mình nhớ ra đây?” Charlie khẽ hỏi con bướm trắng.
“Hãy nhớ những gì ngươi có thể nhớ,” một giọng vẳng tới.
Charlie nghĩ ngược về quãng thời gian trước khi nó sống trong căn nhà Filbert. Nó nhớ tới một nhà bếp sáng trưng; nó còn rất bé bởi vì gấu váy bồng bềnh của mẹ chạm gần sát mặt nó. Mẹ đang ngâm nga theo điệu nhạc từ một phòng khác vọng sang. Charlie rời nhà bếp và bước qua hành lang. Nó đẩy mở một cánh cửa và bước về phía những cái chân thanh nhã của cây đàn piano lớn. Những tấm rèm cửa trắng tinh bay phồng lên theo cơn gió lùa qua cửa sổ. Người đàn ông ngồi bên cây đàn piano quay lưng lại Charlie. Ông mặc áo khoác màu nâu và mái tóc đen dầy chấm cổ áo. Ngón tay ông lướt trên phím đàn, nhưng Charlie bước vòng qua ghế đẩu, người đàn ông ngừng chơi và nhìn xuống. “Chào Charlie!” Ông nói.
Sự choáng váng vì nhận ra suýt khiến Charlie mất ý thức. Nó từng thấy người đàn ông này rồi. Thấy nhiều lần nữa là khác. Mới cách đây một tuần thôi nó còn nói chuyện với ông, mà không biết ông là cha mình. Nắm chắc gương hơn nữa, nó nhìn trân trân vào đoi mắt đen biết cười ấy cho đến khi cảm thấy mình trôi đến gần hơn. Khi gương mặt cha nó bắt đầu lùi xa, nó thét lên. “Đưa ta đi theo ông ấy,” và chiếc gương làm theo.
Giờ thì nó đã ở trong một căn phòng khác: đó là phòng nhạc trong Học viện Bloor. Nhưng ở đây cây đàn piano im lìm. Bởi vì người nghệ sĩ dương cầm đang chống gập hai cánh tay lên bàn phím và gục đầu xuống.
“Ba!” Charlie vỗ vào vai người đàn ông. “Là con đây, Charlie đây!”
Đôi mắt đen không còn cười nữa.Trông chúng vô hồn và u ám.
“Ba vẫn mê ngủ phải không? Ba phải nhớ ra con. Con không bao giờ thôi nghĩ về ba. Không bao giờ. Làm ơn cố nhớ đi. Xin ba nói gì đó đi. Đi mà ba...” Charlie lay vai ba nó, lần này thật mạnh.
Không hề nhúc nhích, người đàn ông phều phào. “Không còn lại gì. Đi đi.”
Một tiếng thét vuột ra khỏi Charlie. Tiếng thét không giống như bất kì âm thanh nào nó từng nghe. Và rồi Charlie bị lôi xềnh xệch đi. Gương mặt ba nó bắt đầu mờ dần và Charlie quay mòng mòng qua không khí, lúc bị nhồi lên nhồi xuống, lúc lại trôi ngửa ra. Nó bắt đầu trông thấy chiếc gương trở lại, lấp lóa qua màn sương mù, nhưng mặt gương trống trơn. Gương mặt nhìn ra Charlie đã mất.
Với một cú xốc mạnh, Charlie đáp phịch xuống giường.Olivia đang đứng trước mặt nó, tay cầm chiếc gương.
“Charlie, đằng ấy rú khiếp quá,” Olivia nhìn vào mặt Charlie. “Tớ nghĩ chiếc gương làm đằng ấy sợ bạt vía. Vì vậy tớ lấy nó ra khỏi tay đằng ấy.”
Charlie chớp mắt, “Chính xác là mình không sợ.”
“Đằng ấy có thấy ba không?”
“Có, Liv à, mình nghĩ là ông sắp chết.”
Giọng Charlie yếu đến nỗi Olivia không chắc mình nghe có đúng không. “Chết?” Con bé hỏi lại. “Đằng ấy nói là chết?”
“Sắp chết.”
Vừa lúc đó một tiếng gầm đinh tai làm rung chuyển toàn bộ ngôi nhà.
“Hắn tới!” Bất thần hoảng sợ, Charlie chạy ào ra cửa sổ.
Tancerd không ở một mình. Phía đầu kia khu vườn, một gã đàn ông lạ mặt cao lớn đang đứng, hắn mặc áo thụng xanh lá cây sáng chói. Mớ tóc rậm rịt của hắn nhuộm vàng với cái mũi khoằm khoằm hệt như mỏ diều hâu.
“Lão ta không giống cái bóng,” Olivia nhận xét, “mà trông giống đúng là kẻ xài thuốc lú.”
Charlie chưa kịp đáp lại, Tancred đã vung cánh tay ra trước và một luồng chớp hình vòng cung từ tay cậu bắn về phía gã đàn ông xanh là cây. Tên thầy bùa bị chộp gọn vô luồng chớp và trong nháy mắt, hắn bị hất ngược trở lại, cách xa cậu bé thời tiết tới vài mét. Nhưng Tancerd đã kịp phát ra một dải ánh sáng trắng toát nữa, bao lấy tên thầy bùa như một tấm vải liệm.
Olivia và Charlie sững hồn khi gã bá tước ra khỏi tấm vải liệm và phóng một tia lửa rồng rắn xẹt qua cỏ. Lửa bắt đầu bò quấn quanh thân hình Tancred và cậu quỵ gối xuống, không sao cựa quậy được bàn tay hay tự vệ.
Tên thầy bùa xông tới, mỉm cười.
Charlie quay đầu ra khỏi cửa sổ, gào to. “Không thể để việc này diễn ra được.”
Nhưng Olivia đã níu nó lại, “Coi! Coi kìa!” Con nhỏ ra lệnh.
Một thân hình đã chạy băng băng tới, chặn giữa Tancred khi tên thầy bùa hùng hổ đi về phía hai người.
“Đó là Gabriel,” Charlie thốt lên, không tin được.
“Anh ấy mặc gì thế?” Olivia dí sát đầu vào tấm kính cửa sổ. “Một chiếc áo choàng xưa.”
“Áo choàng của Vua Đỏ,” Charlie thở hì hụi. “Nó là của gia đình anh ấy, dòng họ Salutatis.”
“Gã thầy bùa không thể chạm được vào Gabriel. Nhìn lửa kìa, Charlie.”
Mỗi vệt chớp, mỗi dãi lửa mà tên thầy bùa phóng vào Gabriel đều lướt sượt qua áo choàng của anh rồi lụi đi.
Tức giận điên cuồng, tên bá tước chạy xồ vào Gabriel, nhưng chỉ tổ bị chặn bởi một bức tường vô hình; miệng há hốc ra thất kinh, hai bàn tay hắn nhoài về phía chiếc áo choàng, nhưng không thể nào chạm được vào nó.
“Hắn bại rồi,” Olivia reo hò, có phần quá sớm.
Tên thầy bùa ngước lên nhìn thấy con nhỏ, và bỏ dở cuộc tấn công Gabriel đấy, hắn chạy bổ về phái ngôi nhà. Tiếng kính vỡ lạn rạn kéo Charlie và Olivia chạy bay xuống cầu thang. Chúng xông vào phòng khách, nơi cô Vertigo đứng chết trân trước cửa sổ vỡ vụn. Ở ngoài cửa, tên thầy bùa nhìn cô chằm chằm bằng đôi mắt xanh lá cây hiểm độc.
“Xin lỗi, cô Vertigo,” Lysander nói, đẩy cô ra khỏi cửa sổ. Không để cho cô có thời gian phản kháng, anh nhấc bổng cô lên và khiêng cả thân người cô vào nhà bếp. “Tốt hơn là cô ở đây.” Anh hạ cô xuống đất với nụ cười bẽn lẽn. “Và khóa cửa lại nữa.”
“Tôi không có ý định khóa mình ở đây mà không hành động,” cô Vertigo phản đối không ra hơi.
Giây kế tiếp đến là một tiếng đổ sầm lớn hơn từ phòng khách.
“Thế thì xin cô đóng cửa lại,” Lysander giật cổ tay Olivia và lẳng con nhỏ vào với mẹ nó.
“Này! Sao anh dám...?” Olivia căm phẫn la lên.
“Bồ sẽ an toàn ở đây, Liv,” Charlie nói. “An toàn hơn nếu không có chiếc gương.” Nó giằng lấy chiếc gương khi những tiếng bước chân tiến tới, đạp răng rắc lên thủy tinh bể.
Charlie có thể cảm nhận được ánh mắt xanh lá cây của tên thầy bùa xoáy trên sau lưng mình, và bàn tay cầm gương của nó run dữ dội. “mình không sợ,” nó tự nhủ. “Mình sẽ không buông xuôi.”
“Mày sợ.Mày sẽ thua.” Dường như có giọng nói kinh khủng sâu tận trong đầu Charlie.
“Không đời nào,” Charlie quay qua để đối mặt với tên thầy bùa.
Một thân hình đen lùi lũi đứng ở đầu kia hành lang dài lát gạch bông.Charlie nheo mắt nhìn vào bóng tối. Phải đó là hắn? Phải chăng hắn đã biến lại thành cái bóng?
“Đưa nó cho tao thì sẽ không có thiệt hại gì xảy ra.” Đấy là một giọng hoàn toàn khác, nhẹ ru và đầy sức thuyết phục. “Mày không cần nó làm gì cả, Charlie. Mày có thể chu du bất cứ khi nào mày muốn cơ mà.”
Charlie bước một bước về phía hình thù như cái bóng.
“Đừng!” Lysander rú lên. “Đó là trò lừa đấy.” Anh nhào vô giữa hành lang và bắt đầu quay, quay tít, càng lúc càng nhanh hơn, trong khi miệng ậm ừ thứ ngôn ngữ lạ lùng, du dương như khúc nhạc. Khi anh ngừng lại, Charlie có thể nghe thấy tiếng trống dồn từ xa, mỗi giây mỗi rõ rệt hơn.
“Những vong hồn tổ tiên anh,” Lysander nói.
Mình không cần trợ giúp, Charlie nghĩ. Mình mạnh mẽ.Mình có thể đuổi con ma quặt quẹo đó cút đi.
Charlie tiến càng gần tới cái bóng thì tiếng trống càng dồn dập hơn, cho đến khi hành lang tràn ngập tiếng bập bùng.
“Cái gì thế?” Tên thầy bùa hỏi. “Giai điệu vui tươi để đệm cho ta nhảy múa à? Đồ ngu!”
Một ánh chớp chói lóa cho Charlie thấy không phải mình đang đối mặt với cái bóng ẻo lả. Mọi chi tiết về tên thầy bùa hiện ra mồn một trước mắt Charlie: áp thụng xanh lá cây hoa văn vàng, thắt lưng da nạm hột, thanh gươm trong bao khảm ngọc và áo choàng không tay màu xanh lá cây đậm viền ngọc trai.
“Đưa ta chiếc gương,” tên thầy bùa ra lệnh, “trước khi quá trễ.”
“Không bao giờ,” Charlie giấu chiếc gương ra sau lưng.
Tiếng trống thình lình dừng lại, và giữa khoảng lặng đột ngột ấy, một đội quân da đen xuất hiện. Áo thụng trắng, mang vũ khí sáng loáng: gươm, dao và rìu.
“CHAAA!” Tên thầy bùa rút gươm của hắn ra và chém gươm veo véo xuống nền gạch lát, một rừng chông nhọn sắc trồi lên. Lysander và Charlie cố bấu chặt vào bức tường một cách vô ích, mặt sàn giật mạnh đến độ tống chúng khuyụ gối xuống. Charlie ôm chặt chiếc gương mặc dù nó muốn buông ra, dù chỉ một giây thôi, để có thể đứng lên.
“Giữ chắc lấy, Charlie,” Lysander gào khản cả giọng.
Những chiến binh áo thụng trắng giờ đang đung đưa vũ khí của họ ngang sàn nhà. Sàn nhà ngừng giật và những mũi chông nhọn khủng khiếp rũ gục cả xuống như những bông hoa héo. Charlie và Lysander đứng dậy được, liền dựa vào tường để giữ thăng bằng.
Tiếng thét thứ hai của tên thầy bùa thật buốt óc, Charlie phải bịt tai lại. Chiếc gương tuột khỏi tay nó nhưng Lysander kịp thời chụp lại kịp thời. Và rồi trận chiến bắt đầu màn gay cấn nhất.
Tên thầy bùa phun lửa và băng vào những linh hồn đang tiến tới. Hắn gọi ra một cơn bão bọ cạp, một tên khổng lồ man rợ, một con hổ răng kiếm và một con rồng hai đầu, nhưng những linh hồn đều quét sạch hết, như thể những thứ kia làm từ giấy.
Olivia và mẹ nó không cưỡng nổi ý muốn phải mở hí cửa bếp ra kêu đánh két. Quang cảnh trận địa quá sức tưởng tượng khiến cô Vertigo tự hỏi không biết hành lang nhà mình có bao giờ trở lại như cũ không.
Cuối cùng, thét lên một tiếng căm hờn, tên thầy bùa rút lui. Đến lúc biến mất, hắn rụi đi chỉ còn là một phiên bản rúm ró và èo uột của hắn trước đây.
“Đừng để bị lừa, Charlie,” Lysander cảnh báo. “Anh không nghĩ hắn đã chịu thua rồi đâu.”
Làm xong sứ mạng, những tổ tiên của Lysander bắt đầu mờ đi, chỉ còn chớp bạc thi thoảng nhá lên, là cái dấu hiệu duy nhất cho biết, mới đây thôi, hành lang này còn rùng rùng những hiệp đấu.
Khi Tancred và Gabriel vào nhà qua những cửa sổ vỡ, cô Vertigo quyết định tất cả phải ăn mì spaghetti; bánh nướng xốp không đủ xôm để ăn mừng sự kiện đặc biệt thế này.
Sau bữa ăn, bốn cậu bé phụ cô dọn sạch đống kính vỡ.Cô Vertigo bảo cô sẽ gọi người tới sửa cửa sổ, mặc dù việc báo cảnh sát về kẻ đột nhập bạo lực có vẻ cũng là một ý hay.
“Vô ích thôi, mẹ,” Olivia nói. “Cảnh sát không biết cách đối phó với hắn đâu. Thầy bùa không nằm trong danh mục của họ.”
Charlie nôn nóng muốn mang chiếc gương về nhà, mặc dù nó không chắc mình sẽ làm gì với chiếc gương. Có lẽ nó sẽ đem đi gởi Skarpo. Miễn là tên bá tước không có gương thì mẹ nó sẽ không bị mang khỏi thế giới này.
Charlie nghĩ chiếc gương sẽ được an toàn, ít nhất là trong một thời gian. Cuộc chiến ác liệt đã thắng lợi và sự phấn chấn khiến nó bất cẩn. Khi rời nhà cô Vertigo, nó không hề ngờ gặp lại đúng Joshua Tilpin.
Mới đó Charlie còn cầm chiếc gương bằng cả hai tay, thì phút sau lực từ trường đã hút mất cái gương đi.
“KHÔNG!” Charlie thét lên, nắm tay tuột hẫng.
Mấy tên con trai đi sau Charlie vội chạy tới, nhưng chiếc gương đã bay xuống đường. Một tiếng rắc thật lớn, và Joshua Tilpin cúi xuống nhặt lên.Charlie chồm tới vồ thằng oắt nhưng cô Chrystal, không biết từ đâu bước ra, chặn nó lại. Găm chặt Charlie vào đôi mắt xanh da trời lạnh lùng của mình, cô ta rít lên, “Gương Thần Amoret không bao giờ là của mày.”
Tancred và Lysander vọt đuổi theo Joshua Tilpin dọc con đường.
“Họ sẽ bắt được nó,” Charlie phẫn uất gào lên.
Cô Chrystal lắc đầu. “Ta không nghĩ thế,” cô ta gầm ghè.Rồi bước đi thẳng với nụ cười ra điều tất cả chỉ là trò chơi ngớ ngẩn.
“Đồ phù thủy!” Charlie gọi với theo cô ta.”Đồ phù thủy xấu xa nhất.”
Cô Chrystal đã quẹo khuất góc đường, và giờ Charlie đã mất dấu các anh bạn mình. “Mình ngu quá, ngu, ngu, ngu!” Charlie dậm chân bành bạch xuống bậc thềm.
“Ai mà ngờ được mà,” Olivia an ủi nó. “Ai mà nghĩ con thú ranh đó hiện ra cơ chứ?”
“Đáng ra mình phải cẩn thận hơn,” Charlie dộng nắm đấm vào trán. “Chúng đã trông thấy bồ ở Vương Quốc. Chắc chắn chúng đã đi theo bồ. Mình phải làm gì bây giờ?”
“Tancred và Lysander đều đô con cả, cô Vertigo nói êm ru. “Chân dài thế kia, chúng nó bắt được cả ngựa lùn ấy chứ.”
Họ đợi.Cứ thế mà đợi, không hề xê dịch khỏi bậc thềm. Hai mươi phút sau Charlie thấy Lysander và Tancred thất thểu về lại trên đường. Trông họ kiệt sức. Charlie hiểu ngay rằng họ đã để sổng Joshua.
“Tụi anh đâu có để mất nó,” Tancred thở hổn hển. “Tụi anh đuổi nó đến công viên, nhưng chưa kịp chộp được nó thì một hình hài xanh là cây lướt ra khỏi rặng cây, chộp lấy chiếc gương rồi biến mất.”
“Anh đã định dạy cho thằng oắt con đó một bài học,” Lysander làu bàu. “Nhưng thế có ích lợi gì?”
“Giờ thì lão bá tước sẽ sử dụng gương ngay khi hắn có thể,” Charlie ảo não. “Không chừng mẹ em đang chờ hắn.Mẹ không biết mình đang làm gì đâu.Đến lúc em về nhà thì mẹ đã đi mất rồi.”
“Bình tĩnh, Charlie,” Gabriel vỗ về. “Chiếc gương đã bị nứt khi rơi xuống đường.Tôi nghe rõ mà. Có lẽ nó không còn tác dụng nữa.”
“Tớ cũng nghe thấy” Olivia nắm cánh tay Charlie. “Đừng bỏ cuộc, Charlie. Nếu gương vỡ thì cái bóng không thể du hành đâu được.”
“Có lẽ,” Charlie u uẩn.
Chúng đồng ý hẹn gặp nhau tại quán Cà Phê Thú Kiểng. Đáng ra phải ôm thú tới đó, rồi các bậc “phụ huynh” liên lạc nhau, rồi lên một kế hoạch mới.
Khi bốn tên con trai bước trên đường, Charlie để ý tới cái giỏ nhựa to tướng mà Gabriel đang xách. Trong suốt những giờ gay cấn vừa qua, nó quên phéng tấm áo choàng đỏ.
“Gabriel!” Charlie khựng lại giữa đường. “Chiếc áo choàng mà anh mặc lúc nãy... nó là...?”
Những đứa khác cũng dừng bước, và Tancred bảo, “Gabriel, cậu chưa kịp nói cho Charlie biết...”
“Ba anh trao cái này cho anh,” Gabriel nói với nụ cười ngượng nghịu. “Ông bảo anh sẽ tìm ra ích lợi của nó. Đấy là vật báu gia bảo từ nhiều đời rồi.”
“Nhưng mà, Gabe, tấm áo choàng đó có nói gì với anh không?” Charlie hỏi gặng.
“Ờ, thật ra thì,” Gabriel liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Mà này, tôi phải chạy thôi, mẹ tôi đang đợi tôi ở thư viện.”
“Cậu không được đi đâu hết nếu không có tụi này,” Tancred nói.
“Không được đi, nếu có tấm áo choàng đó,” Lysander thêm.
Charlie nhìn ba anh bạn băng qua đường, vừa đi vừa hăng hái nói.Khi qua đến bên kia đường, các anh gọi, “Hẹn gặp lại em nhé!”
Charlie giơ ngón tay cái lên và chạy về nhà.
Nhà số 9 vắng lặng đến ghê người.Charlie đi lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.
“Vào đi, Charlie!”
Ông cậu Paton nhìn qua đôi mục kỉnh khi Charlie lao ập vào phòng. “Con có lấy được nó không?
Charlie loạng choạng đến bên cái ghế bành lún võng của Ông cậu và rơi tõm xuống đó. “Tụi con đã lấy được,” nó nói, “sau đó tụi con làm mất.”
“Cái gì!” Ông cậu Paton giật phăng đôi kính ra và xoay ngoắt khỏi bàn viết của mình. “Làm ơn giải thích coi.”
Cố rành mạch và điềm tĩnh hết sức, Charlie thuật lại chi tiết mọi biến cố lạ thường vừa qua, nhưng khi kể đến tình tiết quan trọng nhất trong tất cả, nó không thể che giấu được nỗi sợ hãi và giọng nó run rẩy xúc động.
“Con đã thấy ba con à?” Ông cậu Paton đứng lên. “Và con bảo là suốt từ bấy đến nay ông ấy luôn ở trong Học viện Bloor? Một giáo viên piano được gọi là thầy Pilgrim à? Ý đồ đồi bại giam chú ấy ở ngay trước mũi chúng ta là ai thế?
“Của Manfred, con nghĩ vậy,” Charlie buồn thảm. “Hoặc của lão Ezekiel. Hãy tưởng tượng coi, con đã nói chuyện với chính ba mình mà không biết ông là ai.Con dám cá là bọn chúng khoái chí lắm.”
“Đừng lo, Charlie.Bây giờ đã chấm dứt cả rồi,” Ông cậu Paton quả quyết. “Chúng ta sẽ đưa ba con ra khỏi đó ngay thôi.”
“Hình như ông không hiểu, Ông cậu Paton. Ba vẫn không biết mình là ai. Ba rất yếu, có lẽ gần chết. Nếu ba tỉnh ra rồi mới đi tìm mẹ thì phỏng có ích gì?” Charlie thở dài não ruột. “Chính mẹ mới là người chúng ta phải cứu trước.”
Ông cậu Paton thọc một tay vào túi quần. “Câu thần chú!” Ông thốt lên. “Ta đãng trí quá. Ta quên mất.” Ông lôi một mảnh da dê nhàu nhĩ ra khỏi túi quần.
“Câu thần chú?” Charlie nghi hoặc hỏi.
“Đọc đi,” Ông cậu ấn mảnh giấy da dê vào tay nó.
Charlie nhìn vào nét chữ đen viết tháu của Skarpo.Nó đọc những dòng chữ một lần, hai lần, và rồi để hiểu rõ hơn, nó đọc to câu thần chú lên:
“Hãy nhìn vào khu rừng nếu ngươi tìm kiếm Nhà Vua,
bởi vì ngài ẩn mình ở đó.
Áo thụng của ngài bây giờ chỉ là là mùa thu,
nước mắt ngài như trái chín rục.
Dòng máu đỏ chảy xuống và sẽ không bao giờ ngừng.
Cho đến khi nào con cháu ngài, mười đứa trong số họ,
dưới hai mươi tuổi
Gặp nhau trong hòa hợp
Và họ phải bước ba lần, những ngón tay đan vào nhau,
Xung quanh Nhà Vua, quanh vòng quanh,
vòng quanh, cho đến khi nước mắt ngài khô trở lại
Nước mắt sẽ đánh thức những linh hồn lưu lạc
Sẽ giữ cho họ an toàn và đưa họ về nhà.”
Charlie vừa nhìn chăm chú vào câu thần chú vừa nói, “Nghe như nhà vua là một cái cây vậy.”
“Không nghi ngờ điều đó,” Ông cậu nó đồng ý.
“Skarpo đã tìm thấy cái này trong sổ nhật ký của ông Bartholomew, nhưng nó có xuất xứ từ đâu ạ?”
“Từ những hậu duệ của cái người đã giúp nhà vua trở thành những gì mà ngài trở thành bây giờ,” Ông cậu Paton đáp.
“Con nghĩ câu thần chú này là dành cho những người con đã buộc phải dời lâu đài, bởi vì những người con còn lại đều ác quỷ cả mà,” Charlie nhìn lên Ông cậu nó.
“Nó cũng dành cho con cháu của họ,” Ồng cậu Paton tán đồng.
“Và ông có nghĩ câu thần chú này sẽ giúp được ba con không?”
“Đó là tất cả những gì chúng ta có.Hãy nhìn những dòng chữ này coi:
Nước mắt sẽ đánh thức những linh hồn lưu lạc
Sẽ giữ cho họ an toàn và đưa họ về nhà.”
“Tụi con chỉ có bảy người thôi. Mà ở đây nói là phải có mười người gặp nhau.”
“Ta đã nghĩ về điều này,” Ông cậu Paton bảo.” Đầu tiên nhé, chúng ta có cô bạn bé nhỏ người Trung Hoa của con.”
“Naren!” Charlie rep lên. “Bạn ấy chưa gởi thông điệp cho con lâu lắm rồi.Con cần phải tìm bạn ấy.”
“Con cũng phải tìm nhà vua nữa,” Ông cậu nhắc nhở Charlie.
(*): loại cửa sổ không kính, rộng, có khi choán hết cả bức tường, thường ở các nhà hàng, tiệm bán đồ hoặc nhà sang trọng.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT