Sao người Nam kỳ ta không trọng nghề ngiệp? Nghề nghiệp của Hoa kiều, Nghề thủy vận, Các công nghệ khác nhân công.
Ai vào Nam kỳ ở ít lâu thấy mỗi sự gì cần dùng phần nhiều phải chạy đến các chú thì mới có, bất giác phải kêu lên rằng, đất Nam kỳ của nhiều người đông, sao không có công nghệ gì là công nghệ, ngay đến những thứ cần dùng trước mắt,cũng không tự biện lấy mà dùng?
Có biết đâu rằng : trong Nam kỳ người đông thật, mà không phải là nhân công, của nhiều thật mà không phải là tư bản. Là vì người đông, nhưng trừ những người làm ruộng, và làm việc nhà nước ra, số này tính cho gióc cũng không bao nhiêu người, còn thì ham cái nghiệp đứng đắn, có ích cho thân mình, cho xã hội, của nhiều nhưng có thể nói được toàn là của mấy ông điền chủ, ngoài sự ruộng sâu trâu nái, lúa đụn thóc kho ra, tưởng không còn bụng dạ nào để tâm đến việc khác, vả chăng tiếng là xứ ruộng nhiều gạo lắm, mà còn đến mấy triệu mẫu đất chưa khai khẩn ra, thế thì người có ấy, của có ấy, hãy để làm những việc làm khẩn hoang ấy cũng chán…
Phương chi còn vì hai cái trở lực như sau này nữa:
Một là tại khí hậu khó chịu, khí hậu và cuộc sinh hoạt hành động của người ta, rất là quan hệ với nhau, khí hậu dễ chịu thì người ta thấy tinh thần khỏe khoắn, mới ham làm việc, nếu khó chịu thì thấy tinh thần uể oải, đâm ra tính lười, không thiết mó tay đến việc gì cả. Khí hậu trong Nam kỳ khó chịu thật. Ông Leona… là một người có tiếng trong giới báo chí Pháp độ đầu năm mới rồi, sang du lịch Nam kỳ có ít hôm, mà bình phẩm xứ Nam kỳ rằng: “Đấy là một xứ có ý vị cho những người ở đấy ăn chơi sung sướng, mà thật là một xứ đáng chán cho những người muốn ở đấy để làm lụng”, tức là có ý phàn nàn về khí hậu Nam kỳ mà nói vậy. Đầu năm đến cuối, nóng nực luôn luôn, không khi nào rời được cái quạt, mà nóng lại nóng âm bứt rứt, ngày làm việc độ 7,8 giờ đồng hồ, đã lấy làm mệt nhọc lắm rồi, không nghỉ không chịu được, chứ không phải như người ngoài Bắc này, quanh năm chỉ phải năm tháng vừa nóng vừa rét, còn 7 tháng thì thật là mát mẻ dễ chịu, làm việc không hay nản. Vì thế, mà những nghề như nghề làm buôn bán công nghệ, là những nghề tổn sức óc, mướt mồ hôi, người Nam kỳ ta trông thấy mà ngại.
Hai là lại dễ kiếm ăn. Đất Nam kỳ, tấc cỏ ngọn rau đều là tiền bạc, những đám cùng dân đã không chịu làm thì thôi, chịu làm thì thế nào cũng chịu ấm no sung sướng. Ta vào đấy, không thấy mấy người mặc quần áo lam lũ, ăn mày ăn xin, mà những hạng cu li phu gạo mặc lòng, sáng nào cũng củ tíu, cà phê, tối nào cũng nước trà , bánh ngọt đó là cái chứng cớ để kiếm ăn vậy. Ở các miền nhà quê, cày một thửa ruộng, bạt mấy cái bờ, cũng là được đồng bạc hay hơn đồng bạc công, ở nơi thành thị những kẻ đi vác gạo kéo xe, chỉ làm một lúc hoặc nửa ngày,kiếm một vài đồng bạc như chơi, thế là ngày ấy còn bao nhiêu giờ, cũng chỉ nghỉ ngơi chè chén, không thèm làm nữa. Đến những kẻ đi làm bồi bếp, hay là dọn dẹp trong các tiệm buôn, tháng kiếm được mươi lăm hay vài ba trục đồng là thường, mà cũng ngày làm hai buổi, trưa giấc ngủ ngon, như thế còn có làm nghề gì, nhàn hạ mà kiếm chác được dễ hơn, dễ hơn nữa không? Ai dại gì làm nghề khác, vất vả suốt ngày, nào chắc đâu đã kiếm nổi như vậy.
Cho nên, có người nói, ở trong Nam kỳ, trừ nghề làm ruộng là nghề căn bản ra rồi, đến nghề thợ bạc, nghề thợ may và một vài nghề nhỏ nhặt nữa, thì không có nghề gì khác, ta xem mỗi lần hội chợ Hanoi, ở gian Nam kỳ chỉ thấy nhiều ve đựng gạo mà thôi, ngoài ra không có đồ gì đáng gọi là đồ công nghệ chế tạo, như thế thì đủ biết. Đến như nghề lặt vặt cũng chịu làm lấy mà dùng, hoặc bởi cho là khó nhọc và đê tiện, hoặc thấy ít tiền không thèm làm, ấy là cách mở tung cửa ra cho người Tầu sấn vào vậy.
Nghề nghiệp của người Hoa kiều trong Nam kỳ cũng thịnh lắm, không chỉ những buôn bán mà thôi. Nghề nghiệp họ làm to thì mở mang lừng lẫy, ganh đua với người, nhỏ thì đủ nuôi đàn bà con trẻ, cũng là bọn không học thức, không tiền tài, đời sinh hoạt đã chẳng phải lo, mà lại có cơ tiến thủ mạnh nữa. Họ xoay sở khéo lắm, nghề gì cũng làm, mà những nghề họ làm đó, vì ở ngoài Trung Bắc này, thì tất người mình làm, thế mà ở trong Nam kỳ không làm không được, có người nói, nếu Hoa kiều không làm, thì Nam kỳ không lấy vật liệu đâu mà dùng.
Nghề ngiệp của họ thật nhiều, mà nghề nghiệp gì xem ra cũng khá hết cả.
Trước hết ta hãy nói về nghề nghiệp thủy vận. Xứ Nam kỳ nhờ có sông Cửu Long giang, chia làm Tiền Giang, Hậu Giang, lại chia làm nhiều sông nhành sông nhánh, phần nhiều các tỉnh thành đều ở bên sông, cho nên sự giao thông, đường thủy có phần tiện lợi hơn đường bộ, các tầu bè chạy trên sông ấy, toàn là của tây và Khách trú, mãi sau khi tẩy chay xong, ta mới có một chiếc tầu phán nuôi (tức là tên ông chủ tầu ấy, ở Vĩnh Long) chạy đường SaiGon Phnom Penh (Kinh đô nước Cao miên ta gọi là Nam Vang, Tầu đặt tên là Kinh Biên (TQ) từ SaiGon lên mất hai ngày một đêm), sau này có một vài chiêc nhỏ nữa chạy ở miền Long Xuyên, Châu đốc, ấy thế mà thôi, có, mấy chiếc tầu trông to tát, sạch sẽ, sang trọng nhưng cách kinh doanh nhiều lợi, chưa chắc đã được bằng người Tầu.
Họ lập ở Chợ Lớn mấy cái xưởng đóng tầu, to nhỏ đến non một trăm chiếc, chạy khắp trên sông Cửu Long giang, hễ chỗ nào có đủ nước chạy tầu, ta thấy có hiệu còi của tầu các chú, để chở hành khách và chở hàng hóa, trong Nam kỳ chở hàng hóa mà do tàu thủy, thì lại càng tiện và chóng lắm, nhân thế mà ta thấy Khách trú ở Chợ Lớn gửi đồ hàng đi khắp nơi cùng là các nơi gửi tiền về giả, hầu hết là do tầu thuỷ các chủ chuyển đệ cho, ít có khi cần đến sở bưu chính. Thuyền bè của họ cũng không ít, nội là những thuyền bè cùng sà lan, chở lúa Lục tỉnh về nhà máy Chợ lớn, rồi chở gạo các nhà máy Chợ lớn ra bến tầu Sài Gòn, cuộc vận tải này thật là hoạt động luôn luôn, toàn là họ chủ trương lấy cả, ngoài ra còn trở củi, trở than, trở gạch ngói… cùng là thuyền bè của các chú làm, thành thế ra số dân họ ở dưới nước, và sinh nhai về nghề thuỷ vận này, mới đến hơn một vạn người.Nghề ấy của họ phát đạt như thế, mà nào có thấy ai tranh dành được, trước đã nghe ông Bạch Thái Bưởi định đông nhiều tầu, để vào chạy trong Nam kỳ, nhưng mãi không thấy gì, hay là tin ấy không thực, hay là ông tự liệu sức mình chưa đủ mở mang ra trong ấy được.
Đến như gọi là các nghề công nghệ chế tạo của họ, ở Sài Gòn, trừ mấy nhà đóng đồ go gụ ra, không có công nghệ gì đáng kể, nhưng mà Chợ Lớn đã gọi là kinh đô buôn bán của Hoa kiều rồi, giá có gọi là trung tâm công nghệ của họ nữa cũng được. Không kể những nhà máy gạo, những xưởng đóng tầu, là công nghệ to tát, và đã nói ở trên kia rồi, thì Chợ Lớn thì còn có nhiều công nghệ nữa, ta nên biết lắm.
Thứ nhất là nghề làm chum, vại, thạp, liềm.v.v… bằng sành, những đồ này trong Nam kỳ không thấy nhà nào là không dung, mà tuyệt nhiên không thấy một người mình nào làm cả, chỉ toàn là khách trú thôi. Họ có đến mấy lò nung những thứ này mà nhất là ở cái lò đường Cày Mai, chế những đồ sành vẽ hoa, và bôi thuốc rất khéo đã có tiếng lắm, người Âu châu nào đến Nam kỳ, tất là vào đây xem, cho là một nghề mỹ thuật của người tầu vậy. Họ có cả nhà máy nung gạch ngói.v.v… chở đi khắp cả Lục tỉnh, nhà máy cưa xưởng làm các đồ bằng thuỷ tinh, mấy nhà thuộc da theo lối tầu, nhiều nhà dệt vải; nhiều nhà chế xà phòng.v.v… Nếu biên hết được cả những công nghệ của họ trong Chợ Lớn, thì tất phải cuốn sổ đài, dày là chỉ kể những nghề to tát mà thôi.
Còn như ở Lục tỉnh, còn có khi tỉnh nào có công nghệ và cả canh nông nữa, đại khái công nghệ to tát mà họ ở các tỉnh như sau này:
Bắc Liêu: dệt chiếu, đánh cá ở miền Cà Mau, làm muối
Bà Rịa: giồng bong, làm muối. Tỉnh Bà Rịa này, hải phận nhiều, cho nên có đến 800 mẫu ở quanh vùng, mấy làng Long Thành, Long Điền, là ruộng làm muối, mỗi mẫu mỗi năm được đến 600 cân tây muối, cái quyền này lần này vào tay Hoa kiều mãi.
Biên Hoà: tỉnh này giồng nhiều chè (tức Chè Huế) Hoa kiều mua rồi chế hoá thế nào, làm thành như chè của Tầu, mà lại bán cho ta.
Gai Định: làm nghề đánh cá ở cửa cần giờ rất tốt.
Hà Tiên: toàn khách Hải Nam, ở giồng hồ tiêu và đánh cá rất thịnh.
Rạch Giá: nhiều nhà dệt chiếu hoa rất tốt.
Sa Đéc: cũng nhiều xưởng dệt chiếu trơn.
Thủ Dầu Một: lò làm đồ sứ.
Trong tất cả các công nghệ của Hoa kiều ở Nam kỳ, ta nhận kỹ thì thấy có mấy nghề này thua người bản xứ. một là nghề nhuộm thâm. Ở Cao Lãnh họ cũng có một vài lò nhuộm nhưng kém cái nghề nhuộm ở mấy làng Gò Vấp, Phú Nhuận, Hốc Môn và Thủ Đức (thuộc tỉnh Gia Định) xa, chính những nhà buôn tơ lụa của Hoa kiều ở Chợ Lớn, cũng phải thuê những làng này nhuộm ta thấy những the SaiGon, xuyến SaiGon, lĩnh SaiGon hang thì hang tầu, nhưng toàn là ta nhuộm, trông mỡ màng bóng bẩy, khéo và đẹp biết bao nhiêu. Hai là làm nghề vàng bạc, đồ này thì người bản xứ làm tinh tế và mỹ xảo hơn nhiều, ta thấy lá vàng rõ mỏng tanh, mì trạm trổ được rất khéo, đáng gọi là mỹ thuật của Nam kỳ lắm. Ba là đến đồ sứ. Đồ sứ ở bên Tầu chế làm sao mà đẹp thê thì không biết, chớ đồ sứ của Hoa kiều chế ở đây men đục dáng thô, trông rất là xấu, còn thua đồ sứ của ông Nguyễn Văn Tấn ở Hải Phòng, và công ty Hợp lợi nhiều lắm. Ngoài ra, nghề gì ta cũng chẳng bằng họ, mà nghề gì cũng nằm trong tay họ hết.
Nói tóm lại ngay những vật liệu ta thường dung, trong 100 phần phải ngưỡng cấp ở Hoa kiều đến 80 phần, chưa kể đến những nguyên vật liệu của ta mà họ lợi dụng để chế ra các vật sản đem ra bán ở ngoại quốc nữa, thì đủ biết nghề nghiệp của họ phát đạt như thế nào? Vả lại, họ làm nghề gì cũng kiếm ra nhiều tiền cả, nếu không thế thì lấy đâu ra mà ăn uống tiêu pha, vợ con nhà cửa, lấy đâu mỗi năm bao nhiêu thuế, lại lấy đâu mà khuôn về Tầu.
Nghề nghiệp của họ đã thịnh, cho nên họ nuôi được một đảng nhân công lớn, từ đàn bà trẻ con, cùng là già yếu tàn tật, chạy giặc chạy đói ở bên tầu sang, vô số nghề nghiệp làm ăn, không lo chết đói. Họ đã sẵn có bụng đùm bọc lẫn nhau cho nên đồng bào họ đã đem than, có khi cả gia quyến vào đất Nam kỳ, dễ thường là kẻ vô dụng mà đến nỗi thừa. Trong các nhà buôn bán, từ anh thư ký cho đến thằng bồi nấu ăn, họ dùng toàn ngừoi họ chớ không dùng đến người mình. Trong các xưởng đóng tầu, các nhà máy gạo các xưởng dệt, các xưởng máy, các nơi giồng giọt, cho chi thợ mộc.v.v… toàn thị là nhân công họ làm cả ở những nơi đô hội như Sài Gòn và Chợ Lớn muốn chữa cái cánh cửa, cũng phải thợ các chú, muốn giặt quần áo, thì cứ hào tư một bộ, cũng phải đưa cho thợ các chú, mà ở trong chợ bún, những món ăn cần dùng cũng là các chú bán cả, đại khái như thế, muốn dùng gì tất phải cần đến họ, người bản xứ tuy cũng có làm những nghề ấy, song có thấm thía vào đâu! Phần nhiều những tiện nghệ, ví bằng dùng nhân công mình thì có phần rẻ hơn nhiều, song đắt hơn một chút, mà họ cứ dùng người họ, tấm lòng bao dung đồng loại như thế, cho nên đám khổ công bên tầu, là một thứ nhập cảng lớn ở Nam kỳ vậy.
Họ cũng có đi làm việc tây, nghĩa là làm trong các Sở Nhà nước và thứ nhất trong các hang buôn. Trong Nam kỳ, công sở nào cũng có người tầu làm vì có nhiều việc cần phải dùng giao thiệp với họ. Trong các hãng buôn, thí dụ như nhà ngân hang, cùng là các công ty xuất, nhập cảng của người Âu Mỹ đều phải dùng người Tầu làm Compradore (Mại bản), mà không dùng người mình, bởi cho người mình chưa đủ tư cách đứng vào cái địa vị ấy.
Nói tóm lại, Hoa kiều ở trong Nam kỳ, chỉ trừ có cái nghề kéo xe tay, là cái nghề mà bọn họ ở bên Nam dương quần đảo (Singapour, Java, Malaisie.. )làm nhiều, mà ở đây không làm, vì là còn giữ cái thể diện “thượng quốc” đôi tí, còn thì nghề nghiệp gì, cũng là ở tay họ làm hết, những sự nhu dụng của ta, phần nhiều là họ cấp cho cả, để chệt nó làm đầy tớ cho chẳng xướng lăm ư !” Câu nói ấy, hách dịch lắm, nhưng nghe có phải hay không?