Dương Thai Tức, trên thực tế, chỉ là thiên đầu tiên của một bộ pháp quyết lớn hơn gọi là Minh Triêu Thất Canh Quyết. Song ngay từ thiên đầu tiên này, đã làm A Tư Mạc nhức đầu muốn chết, mệt mỏi không kém gì phải trải qua đặc huấn luyện thể của sư phó cả. Mà theo đó, A Tư Mạc không khỏi than thầm, lão thái gia hiển nhiên sẽ còn ép hắn học những thiên sau nữa, đến khi đó không biết hắn còn phải chịu khổ đến mức nào đây.
Muốn luyện Dương Thai Tức đến lô hỏa thuần thanh, bắt buộc phải đạt đến trạng thái thai tức. Đây là kiến thức hạch tâm trọng yếu của Minh Triêu Thất Canh Quyết, là điều kiện cơ bản nhất, bắt buộc phải có để luyện các thiên sau. Trên thực tế, thai tức là một trạng thái đặc biệt, vô cùng vi diệu xảy ra khi tiến vào minh tưởng. Khẩu quyết diễn giải, thai tức là mô phỏng theo cách các thai nhi trong bụng mẹ hô hấp. Dù là loài dê hay loài người, khi còn bé đều không dùng miệng mũi hô hấp, mà được kết nối với người mẹ qua nhau thai, dưỡng chất qua đó được truyền đến thai nhi. Dương Thai Tức coi thiên địa là “từ mẫu”, chúng sinh nếu có thể quay ngược về trạng thái “thai nhi”, khôi phục lại “nhau thai” mà kết nối với thiên địa, sẽ được thiên địa từ mẫu truyền cho “dưỡng chất”, khi “tái sinh” sẽ có được thần thức vô cùng cường đại.
Dương Thai Tức chủ tu thần thức, song việc thu lấy thiên địa nguyên khí đóng vai trò trọng yếu trong quá trình tu luyện. Chỉ là thay vì hấp thụ chân khí qua mồm miệng, người luyện Dương Thai Tức đến Tái Sinh Thiên phải đạt đến trình độ hóa chân khí thành hàng vạn tia nhỏ mịn, từng chút hút vào nội thể, tán ra tụ lại đều không bị suy nghĩ ngăn trở. Khi luyện đến mức này, ngay cả các lỗ chân lông toàn thân dù nhỏ nhất cũng đều thông sướng không ngại, cùng thiên đệ câu thông. Chỉ có như vậy thì lúc minh tưởng, thần thức mới đạt đến trạng thái “thai tức”. Linh hồn khi đó sẽ giống như một “thai nhi”, được nuôi nấng bởi “dưỡng chất” từ thiên địa từ mẫu cho tới khi tròn đầy thì sẽ lại “tái sinh”. Hai chữ “tái sinh” này, có thể hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; dù là kẻ mới tu tập Dương Thai Tức những bước đầu tiên, sau khi từ trong trạng thái minh tưởng đi ra, thần thức được tu bổ, cảm giác sảng khoái đầu óc mà gọi là tái sinh. Mà luyện Dương Thai Tức đến lô hỏa thuần thanh, đạt được trạng thái thai tức thật sự, cộng với pháp quyết các thiên tiếp theo, thần hồn dù bị đánh nát, vẫn có thể hồi phục lại hoàn toàn, cũng có thể coi là “tái sinh” vậy. Mặc Tư Tháp Pháp Mục Hãn Mặc hai người chết đã lâu, linh hồn đã tiêu tán ra như hạt bụi trong biển lớn, song không chỉ khôi phục nguyên vẹn như cũ, còn có thể triệu gọi thêm Mặc Lạp Đức gia gia, tất cả là nhờ thần năng của Minh Triêu Thất Canh Quyết mà ra, trong đó Dương Thai Tức đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Nói một cách thô thiển, yêu cầu để đạt được thai tức, chính là khi minh tưởng, cơ thể không có hô hấp một chút nào bằng miệng mũi, mà phải do từng lỗ chân lông trong người đều mở ra để chân khí tùy ý ra vào. A Tư Mạc mất mất một buổi đêm nghiên cứu cùng tu luyện, cuối cùng cũng tổng kết ra một điểm đó.
Nghe thì đơn giản, song A Tư Mạc ý thức được, một câu này kh đến mức nào.
Châu Nhật Thượng Thanh Đạo là công pháp chủ tu linh lực, song đệ tử Ngọc Tiết cung chỉ cần tu tập thổ nạp bằng mồm miệng là đã đủ. Tuy không phải là không có công pháp hướng dẫn hấp thụ chân khí qua các đại huyệt vị, song thứ công phu này, chỉ tính là bổ trợ, không phải ai cũng học. A Tư Mạc hiện tại, có thể hấp nạp chân khí qua hai đại huyệt: bách hội và hội âm. Có được thành quả này, là bởi trong quyển “Đệ tam chương Thánh Nhân Mục chú giải” mà Thương Hùng sư huynh lưu lại cho hắn, có hướng dẫn một môn tiểu xảo giúp khai mở hai huyệt này để hỗ trợ tu luyện. A Tư Mạc chiếu theo đó tu luyện đã ba năm nay, lại vừa đột phá lên Trúc Cơ kỳ, hiện tại cũng có thể coi là có chút thành tựu. Song dẫu vậy, hắn cũng chỉ có thể bế khí được lâu hơn người bình thường một chút. Quá một thời gian nhất định, bản năng vốn in đậm trong cơ thể sẽ cưỡng bức hắn hô hấp trở lại bằng mồm mũi. Mà cơ thể trong trạng thái thiếu khí, đương nhiên không thể tĩnh thần để tiến vào minh tưởng được.
Đương nhiên, “thai tức” là trình độ đỉnh cao của Dương Thai Tức, là lúc đã đại công cáo thành, lô hỏa thuần thanh, tự nhiên không yêu cầu người luyện dăm ba bữa đã đạt được. Bản thân Dương Thai Tức lại được chia làm bảy tầng thứ khác nhau, trong đó tầng đầu tiên, cũng chỉ là kiến thức cơ bản kiểu “ngũ tâm hướng thiên” “chu thiên tuần hoàn”... A Tư Mạc hiện tại tu luyện đã đến Trúc Cơ kỳ sơ tầng, tự nhiên không luyện vẫn hợp cách qua tầng thứ nhất. Song sáu tầng tiếp theo, so với Khởi Hành Thiên, độ có cao hơn không chỉ ba bốn lần. Hơn nữa chẳng hiểu sao khẩu quyết Dương Thai Tức câu cú lủng củng, giọng điệu cổ quái, A Tư Mạc đọc đi đọc lại vài lần mới có thể nắm được đại ý. Chỉ có cái thần thái cao cao tại thượng trong đó, hắn lại cảm nhận vô cùng rõ, đủ thấy vị tiền bối sáng tạo ra pháp quyết này, tầm mắt cao đến khó tin.
Tỷ như tầng thứ hai, yêu cầu phải khai mở bảy trong ba trăm tám mươi tư đại huyệt vị để hấp thụ chân khí. A Tư Mạc tuy may mắn đã khai mở hai đại huyệt vị, song cũng phải tiêu tốn đến hơn ba năm. Mà mỗi huyệt vị càng về sau càng khó khai mở, năm huyệt vị còn lại, nếu không tốn hết tám chín năm, hắn không tin bản thân có thể khai mở được đủ bảy đại huyệt vị.
Song hiện tại, A Tư Mạc còn có một giao dịch với lão thái gia trốn trong đầu. Hắn giờ chỉ còn cách đã phi lao phải theo lao, cả đêm hôm đó tu luyện Dương Thai Tức.
Kết quả sau ba canh giờ, A Tư Mạc từ trong minh tưởng tiến ra, khẽ thở phào một tiếng. Sau một lần tu luyện, A Tư Mạc đối với Dương Thai Tức này mà nói, đại khái cũng không còn quá ác cảm như trước nữa. Thần thức hắn hiện tại vẫn còn bị thương, song sau một lượt tu luyện Dương Thai Tức, trở nên đỡ hơn nhiều, hẳn sau một tuần sẽ có thể hồi phục hoàn toàn. Trên thực tế, kể cả nếu lão thái gia không ép, đến một ngày nào đó, A Tư Mạc cũng bắt buộc phải tìm cách khôi phục thần thức, Dương Thai Tức trên thực tế không khác gì cứu tinh cho hắn. Vết thương thần thức A Tư mạc dính phải mấy ngày trước, hiện tại còn chưa khỏi hẳn. Nếu không phải lão thái gia ra tay, thần thức của hắn giờ chắc đã vỡ ra làm mấy chục mảnh, khó tránh khỏi trở thành kẻ điên dại. Song A Tư Mạc cũng không phải là không đoán ra, thần thức mình ban đầu bị thương, nếu không phải do lão thái gia trực tiếp ra tay giở trò thì chắc chắn cũng phải có liên quan trực tiếp.
Thứ khiến A Tư Mạc cảm thấy nhẹ nhõm, đó là Dương Thai Tức cùng Châu Nhật Thượng Thanh Đạo, một thứ chủ luyện thần thức, một thứ chủ tu linh lực, đều không có phản ứng bài xích gì lẫn nhau, mỗi cái đều có đường đi riêng của mình. Hơn nữa hắn dù chỉ mới luyện Dương Thai Tức có một ngày, song hơi có cảm giác, theo Dương Thai Tức tu luyện, có thể khai mở các đại huyệt đạo, đối với Châu Nhật Thượng Thanh Đạo rất có khả năng là chuyện tốt.
Rời khỏi giường đặt chân xuống đất, A Tư Mạc cũng chỉ có thể vừa gấp chăn gối, vừa thở dài cho cái số mạng xui xẻo của hắn, rồi bước ra ngoài, bắt đầu tiến hành huấn luyện sau Trúc Cơ. Trong đó bộ môn đầu tiên, chính là luyện thể.
Hiện tại A Tư Mạc đã Trúc Cơ thành công, tương đương hợp cách bắt đầu tu luyện Tẩy Trần Võ Kinh đệ tứ đẳng Tẩy Tạng Quyết. Ngọc Tiết cung cùng Hỏa Diệm Ngũ Quang Tự qua lại với nhau đã hơn bảy trăm năm; trong hầu hết quãng thời gian đó, mỗi bên đều gửi một bậc trưởng lão sang làm đại sứ ở bên còn lại, quan hệ đôi bên vô cùng tốt đẹp. Lại tiếp tục theo thời gian kéo dài, hai môn phái còn trao đổi một bộ phận nhỏ tâm pháp trấn phái của mình, vừa như biểu tượng của lòng hảo hữu, vừa như một hành động đảm bảo, dù có một ngày một trong hai bị họa diệt môn, truyền kỳ của họ sẽ vẫn lưu lại dưới một dạng nào đó.
Lúc A Tư Mạc đến khoảnh sân dưới gốc cây dương liễu, đã thấy Chu sư phó cùng Chu Thái Nghĩa sư huynh đứng đợi sẵn. Chu sư phó đương đứng giữa sân, hai mắt nhăm nghiền, hệt như đang vừa đứng vừa ngủ, còn Chu sư huynh lại đang dựa vào gốc cây dương liễu thở dốc, trên người lầm tấm mồ hôi. Nhìn qua cũng có thể thấy, huynh ấy vừa bị sư phó dần cho một trận, A Tư Mạc suốt quãng thời gian luyện thể hơn sáu năm nay, đã kinh qua vô số lần như vậy, tự nhiên có chút cảm thông. Hắn chỉ hiếu kỳ, Chu Thái Nghĩa sư huynh, có mặt ở đây làm gì vậy? Song rất nhanh, câu trả lời cho câu hỏi của hắn đã có. Vừa khởi động làm nóng người xong, đã thấy Chu sư phó vô cùng tự nhiên ném ra một câu:
- Được rồi, Chu Thái Nghĩa, ngươi từ nay bắt đầu chỉ dạy A Tư Mạc luyện đao pháp, hiện tại cũng nên cùng hắn đấu qua một trận chứ?
- Dạ?
Không chỉ A Tư Mạc, mà cả Chu Thái Nghĩa sư huynh nghe thấy vậy cũng không khỏi bất ngờ, hai người theo đó quay ra nhìn nhau có chút lúng túng. Tuy đồng môn so đấu cọ sát không phải là chuyện lạ gì, song chênh lệch tu vi giữa hai người thường phải không quá lớn, chứ không thể như A Tư Mạc cùng Chu Thái Nghĩa lại kêu nhau đi so đấu được.
Chu Thái Nghĩa sư huynh là thủy hỏa thổ hàn bán nguyên tu giả, đồng thời cũng là đơn linh căn hỏa tu giả. Huynh ấy hiện tại đã là Nguyên Anh kỳ đệ tam tầng tu giả, tu vi cao hơn Thương Hùng sư huynh hiện tại mới là Kim Đan kỳ đệ tứ tầng tu giả không biết bao nhiêu lần.
Pháp bảo của huynh ấy là Vân Tiêu Đao, đao dài ba thước (1.2m), nặng trăm cân, lưng đao cũng sắc, một khi thi triển, đao phong bức người. Lưỡi đao trong suốt vô ngần, không phải sắt cũng không phải ngọc, mà là do kỳ kim từ ngoài thiên ngoại rơi xuống địa cầu, Chu Thái Nghĩa sư huynh nhờ kỳ duyên mới phát hiện được. Huynh ấy lại dùng nội lực tinh thuần mà luyện ra nhân hỏa, dùng trận pháp dẫn lên địa hỏa, dùng bảo kính thu lấy thiên hỏa, ba loại lửa hợp lại, luyện thiên ngoại kỳ kim chín chín tám mươi mốt lần mới ra được. Vân Tiêu Đao xếp cạnh các loại pháp bảo khác, cũng là hảo đao vạn thanh có một, sắc bén vô cùng.
Về pháp quyết, Chu Thái Nghĩa sư huynh sau khi tham gia kỳ lục đường luận võ hội trước liền nổi danh với hai bộ tuyệt học Tiên Trảm Tam Tuyệt cùng Thiên Thủ Thần Quyền. Năm đó Chu Thái Nghĩa sư huynh mới tu vi Kim Đan kỳ tầng thứ sáu, song cùng hai bộ pháp quyết này đã đánh bại hết các đối thủ ngáng đường, vào đến tận vòng chung kết mới bại dưới tay đại đệ tử Khương Tịch Nhai bên chi phái chính. Mà Khương sư huynh cũng chính là Ngọc Tiết cung chưởng môn đời tiếp theo, tự nhiên là trọng điểm bồi dưỡng của toàn bộ môn phái, bại dưới tay huynh ấy cũng không thể tính là đáng xấu hổ.
Còn A Tư Mạc? Xét cả tu vi, pháp bảo, pháp quyết, dù A Tư Mạc nhìn thế nào đi chăng nữa, hắn cũng không bằng một góc của Chu Thái Nghĩa sư huynh. Chu sư phó nếu kêu Chu Thái Nghĩa sư huynh chỉ dạy cho hắn thì là một chuyện, song người rõ ràng nói so đấu, đấy là chuyện khác. Chỉ dạy thì người dạy đè nén tu vi xuống tầng thứ chỉ cao hơn người học một chút, qua đó kích thích người học mạnh lên. Song so đấu, là hai người dùng thực lực tối đa của mình, tuy không phải là đánh cho tới chết, song trong nhiều trường hợp, cũng không khác là bao.
- Chu bá mẫu, A Tư Mạc vừa mới đột phá, tu vi hẳn còn chưa ổn định. Con hiện tại nếu chẳng may quá tay khiến đệ ấy trọng thương…
- Chu Thái Nghĩa, ngươi thẻ vận công hết sức xem.
Chu sư huynh nghe thấy sư phó cắt lời mình bằng một câu như vậy, nét e ngại trên gương mặt tuy giảm nhiều, song ngược lại có chút hiếu kỳ, liền quay ra bảo A Tư Mạc:
- Đệ lùi lại một chút.
A Tư Mạc đương nhiên không chậm trễ, lùi đến sát rìa sân tập. Mà theo đó, Chu sư huynh liền vào thế tần, hít vào một hơi thật sâu, rồi hô:
- Ha.
Tiếng vừa dứt, kình phong lấy huynh ấy làm trung tâm, liền nổi lên như bão, quật ra tám phía. A Tư Mạc dẫu đứng ở rìa sân tập, hơn nữa cũng đã chuẩn bị sẵn, song vẫn bị kình phong quật ngã túi bụi. Mà áp lực từ Chu sư huynh tỏa ra không ngừng gia tăng, đủ khiến hắn muốn thở cũng khó, cảm giác như toàn thân bị cả tảng đá đè lên người vậy. Một tích tắc sau, Chu sư huynh liền tản công, song đối với hắn, hệt như cả thế kỷ đã trôi qua vậy. A Tư Mạc tuy không bị kình phong ép nằm dí xuống đất nữa, song cũng chỉ có thể chống tay chân gượng dậy, bảy lỗ cùng thở, phải một phân thời gian sau mới miễn cưỡng đứng lên được.
- Thế nào? Ngươi an tâm cùng nó so đấu rồi chứ?
- Dạ, thưa bá mẫu.
Cái gì?
- Sư phó, sư huynh, hai người nói cái gì vậy? Chẳng nhẽ hai người không thấy con vừa bị kình phong của huynh đánh cho tàn tạ sao? Đến khí kình tản ra đã như vậy, Chu sư huynh mà gõ vào người con một cái… Đệ nói có gì sai sao?
A Tư Mạc vì bảo vệ tính mạng mà bắt buộc phải lên tiếng. Song lời còn chưa dứt, hắn đã nhận ra, không tính Chu sư phó đang day day hai bên thái dương, vẻ mặt rất phiền, thì còn có Chu Thái Nghĩa sư huynh đang vô cùng ngơ ngác nhìn nó. Mà câu trả lời của huynh ấy, khiến A Tư Mạc tương tự đứng như trời trồng:
- A Tư Mạc, đệ không thấy à? Huynh hiện tại, không thể vận công mạnh hơn Trúc Cơ kỳ đỉnh tầng tu giả là bao.
Hả?
- Hừ, nếu như nó mà thực sự vận công lực Nguyên Anh kỳ lên, ngươi còn ở đó mà than vãn sao? Đừng nói Nguyên Anh kỳ, đến Kim Đan kỳ tu giả mà vận công hết sức lên, đối với ngươi cũng không khác bị ném vào biển lửa rồi.
A Tư Mạc bị hai người đáp trả, tự nhiên chưng hửng, song rất nhanh, tiếng của lão thái gia Mặc Tư Tháp Pháp liền vang lên trong đầu:
- Nhìn thật kỹ tên kia vào.
Tiếng lão thái gia rất nhỏ, y như đang cố nói thầm, song A Tư Mạc vừa nghe, liền không khỏi nheo mắt nhìn Chu sư huynh, hệt như có ai điều khiển cơ thể hắn vậy. Chỉ thấy xung quanh người Chu sư huynh, như có như không có những sợi tơ bé nhỏ trong suốt từ trong người Chu sư huynh thoát ra, bay về phái… cây dương liễu. Mà theo ánh mắt hắn nhìn, Chu sư phó liền lãnh đạm giảng giải cho hắn hiểu:
- Ngươi thấy rồi chứ? Nếu hai người cùng ở trong sân tập có thực lực chênh lệch quá nhiều, tu vi của người cao hơn theo đó sẽ bị đè nén xuống xấp xỉ bằng người kia. Nếu không phải như vậy, vừa này ngươi đã bị nội lực của Chu Thái Nghĩa nướng chín rồi.
- Dạ… khoan đã, như thế có nghĩa là, trước đây con cùng sư phó so đấu, người khi đó cũng chỉ có tu vi tương đương luyện khí kỳ thôi sao?
Đáp lời A Tư Mạc, chỉ là một sự im lặng có phần gượng gạo, rồi sư phó rất nhanh lại kêu hắn cùng Chu Thái Nghĩa so đấu, tương đương chứng thực suy nghĩ của hắn. Trước đây A Tư Mạc vẫn nghĩ, sư phó dù sao cũng là Phân Thần kỳ tu giả, bản thân đấu thua sư phó, không có gì là lạ. Song giờ biết được, bình thường sư phó vẫn là đè nén nội lực xuống bằng mình, kết quả vẫn cứ là bản thân thua, A Tư Mạc cũng chỉ biết lấy nước mắt xoa vào lòng tự trọng bị tổn thương, rồi gồng mình hướng tới Chu sư huynh quyết chiến.
Quần thảo gần một canh giờ, A Tư Mạc mới đưa ra nhận định, đấu với Chu sư huynh, còn khó hơn cả đối phó với sư phó.
Khác biệt giữa Luyện Khí kỳ sơ tầng tu giả với Luyện Khí kỳ đỉnh tầng tu giả, tất nhiên phải nhỏ hơn khác biệt giữa Trúc Cơ kỳ sơ tầng và Trúc Cơ kỳ đỉnh tầng tu giả. A Tư Mạc theo đó rất nhanh hiểu ra, cái việc đột phá Trúc Cơ hắn mấy năm nay hắn vẫn hướng tới, trên thực tế không hề có gì to tát cả, quãng đường phía trước còn gian nan trắc trở hơn nhiều. Ngay cả ở nhân gian, cứ hơn năm người cũng đã có một người có tu vi Trúc Cơ kỳ sơ tầng trở lên, mà trung bình tới gần hai mươi tư người mới có một người có thực lực trên Trúc Cơ kỳ đỉnh tầng, đủ thấy sự phân hóa giữa tu giả cùng một, lớn tới mức nào. Phân hóa mạnh mẽ như vậy, tất nhiên thực lực giữa các tầng thứ cũng phải khác nhau rõ rệt. Nếu không phải A Tư Mạc mấy năm nay luyện thể không ngừng tiến bộ, thì chỉ sau một khắc thời gian, hắn đã mình mẩy thâm tím, nằm đo ván dưới nền đất rồi.
Càng khiến A Tư Mạc khổ sở, đấy là “nhịp điệu” chiến đấu của Chu Thái Nghĩa sư huynh trên thực tế lại rất giống hắn, chuyên lấy cứng đấu cứng, trọng đơn giản mà mạnh mẽ. A Tư Mạc dẫu đánh trúng bao nhiêu chiêu đi chăng nữa, huynh ấy vẫn như con trâu rừng hồng hộc lao tới, dày xéo tất cả mọi cố gắng của hắn, bức hắn phải tránh né liên tục. Song muốn né được cũng khó, Thiên Thủ Thần Quyền quả thực không phải là tên suông, A Tư Mạc mới tránh được quyền thứ nhất, quyền thứ hai đã ở sát cạnh người, ép hắn không kịp thở, mà quyền thứ ba, cũng đã sẵn sàng phát động. A Tư Mạc theo đó bị Chu Thái Nghĩa sư huynh quần thảo hơn một canh giờ, có thể vẫn còn đứng được trên hai chân, đã là vô cùng may mắn.
- Được rồi. Có thể mới Trúc Cơ kỳ sơ tầng đã quần thảo với Trúc Cơ kỳ đỉnh tầng tu giả suốt một canh giờ, trong môn phái hiện tại không phải ai muốn cũng làm được. Coi như mấy năm nay, ngươi cũng có không ít cố gắng. Nghỉ ngơi chút đi, tí nữa chúng ta sẽ bắt đầu luyện tiếp.
A Tư Mạc nghe giọng nói lãnh đạm của sư phó mà như tù nhân được đại xá, hai chân cà nhắc lết tấm thân tàn tạ đến bên bờ tường đứng nghỉ, toàn thân đãm mồ hôi, mũi miệng thở dốc. Bắp tay bắp chân hắn đều đau rần, so ra bình thường luyện thể cùng sư phó, cũng chẳng khác gì, chỉ là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa mà thôi. May mắn là với Dược Đường, thứ gì có thể không có, song đan dược chưa bao giờ thiếu. Nuốt xuống một bình Tinh Hoa Đan Chu sư phó đưa cho, A Tư Mạc có thể cảm nhận, huyết nhục của hắn điên cuồng hấp thu lấy dược lực, cảm giác đau nhức toàn thân sau một phân thời gian liền giảm mạnh, lại thêm khoảng nửa khắc thì hồi phục lại trạng thái đỉnh phong.
Đối với luyện thể tu giả mà nói, cần rất nhiều linh dược, bảy phần tâm pháp thì ba phần dược, có thể thấy nó quan trọng ra sao. Song linh dược giá cả trân quý, tu giả có môn phái hay gia tộc chống lưng còn đỡ, bọn họ được môn phái định kỳ cung cấp, thiền tu không môn phải thì thảm rồi. Tỷ như một lần tắm dược A Tư Mạc trải qua năm xưa, đối với nhiều luyện thể tu giả mà nói, là giấc mơ không bao giờ có thể với tới. Đó cũng là lý do vì sao luyện thể tu giả không môn không phái so với bất cứ loại tu giả nào khác cũng chẳng bằng, cuộc sống cực kỳ gian khổ. trước ngưng mạch, ngoại trừ cậy sức ra chẳng có bản lĩnh gì, chỉ có thể làm cu li.
A Tư Mạc sau khi hồi phục sức lực, mới cùng Chu sư phó luyện Tẩy Trần Võ Kinh đệ tứ đẳng Tẩy Tạng Quyết hết một canh giờ. Mà đây cũng là lần đầu tiên hắn vừa sử dụng đan dược vừa tu luyện, đan dược lần này hắn phục dụng, gọi là Trục Tà Hoàn. Mỗi khi dùng lại ngậm lấy một viên trong miệng, theo thời gian, dược hoàn từ từ tan chảy thì nuốt xuống, lại chiếu theo Tẩy Tạng Quyết tu luyện liền xuất hiện dược lực tan vào trong thân thể. Mỗi viên Trục Tà Hoàn có thể dùng trong một canh giờ, đến khi đó trên người A Tư Mạc cũng tích tụ lại một tầng tro đen, múc nước đổ lên người một cái là có thể gột rửa sạch sẽ.
Hết một canh giờ, Chu sư phó liền chuyển giao công việc sang cho Chu Thái Nghĩa sư huynh, vốn suốt một canh giờ trước vẫn ngồi ở rìa sân tập chờ A Tư Mạc. Ném cho hắn một thanh sài đao đã mài sắc bén, rồi Chu sư huynh chợt khựng người, hình như vốn định nhảy vào bài học luôn, song lại như nhớ ra cái gì nên thôi. Chi thấy huynh ấy lấy từ trong Nạp Hư giới ra mấy kiện pháp bảo đưa cho A Tư Mạc:
- Mấy người kia trước khi về, có bảo huynh chuyển cho đệ mấy thứ này. Đây dẫu sao cũng là tâm ý của bọn họ, đệ nhận rồi vứt vào một góc trong giới chỉ cũng được.
A Tư Mạc vừa đưa hai tay ra nhận quà vừa cười thầm. Tối hôm qua, mấy sư huynh bên Khí Đường cứ nhất mực muốn mỗi người tặng cho hắn một món quà mừng hắn Trúc Cơ, khiến A Tư Mạc cứ phải tìm cớ từ chối mãi. Đến cuối cùng, hắn cũng chỉ có thể thuyết phục được mấy người buổi sáng thua cược hắn coi mấy thứ chiến lợi phẩm từ vụ cá cược đó là quà luôn đi, hơn nữa coi như Bảo Úc hạp là quà của cả Đổ Bát Vạn lẫn Đổ Nhất Đồng (Trên thực tế, A Tư Mạc sau đó liền đổi Bảo Úc Hạp của hắn lấy Bảo Úc Hạp của Sơn Thái Tuệ sư huynh, hắn có cả thủy hỏa thổ tam hành bổn nguyên, tự nhiên có thể dùng được nó) Lại như Chu Thái Nghĩa sư huynh cũng không cần tặng quà, bởi huynh ấy trong thời gian tới, trừ huấn luyện hắn đao pháp, còn dạy cho hắn cả về trận pháp nữa, coi đó là quà của huynh ấy là được rồi.
Tính ra còn nhị sư huynh Quyền Thái Lễ, tam sư huynh Nguyễn Thái Lạc cùng bát sư huynh Lý Thái Trọng là tặng quà cho hắn. Cả ba bọn học đều là Trúc Cơ kỳ tu giả, trong đó Quyền Thái Lễ và Nguyễn Thái Lạc là đỉnh tầng, còn Lý Thái Trọng cùng Trương Thái Đức là hai người đệ tứ tầng cuối cùng của Khí Đường, bởi vậy pháp bảo bọn họ làm ra, A Tư Mạc trong thời gian còn là Trúc Cơ kỳ, sử dụng hẵng còn vừa tay chán.
Pháp bảo đầu tiên là một cái chuông gió, gọi là Lục Liễm Phong Linh. Bên ngoài là hộp cộng hưởng của chuông làm từ gỗ trúc màu bích lục, trên khắc hình một con thần thú, gọi là Tù Ngưu. Tù Ngưu có hình dạng như một con rồng nhỏ, màu vàng, có sừng như sừng lân. Nó vốn ham mê thanh nhạc, nên hay ngự trên đầu dóng đàn để thưởng thức âm nhạc, vì thế người xưa hay dùng hình tượng tù ngưu để trang trí cho cây đàn. Sách Long Sinh Cửu Tử có ghi: “Tù Ngưu, long chủng, bình sinh hiếu âm nhạc, kim hồ cầm đầu thượng khắc thú thị kì di tượng.” Lục Liễm Phong Linh tuy không phải là đàn, song cũng có thể coi là một loại nhạc cụ, nên trên thân gỗ mới khắc hình Tu Ngưu.
Bên trong hộp có tám chiếc chuông ngọc xếp thành vòng tròn, trên mỗi chiếc cũng đều khắc phù trận. Chính giữa chuông căng một sợi chỉ, chính giữa sợi chỉ là một cái gõ, đầu dưới sợi chỉ là cái đón gió bằng ngọc thạch, trên viết một chữ “phong” vô cùng thanh thoát. A Tư Mạc thử nhấc chiếc chuông lên cao quá đầu, rồi thổi vào cái đón gió, Lục Liễm Phong Linh liền ngân vang một thanh âm thanh thoát. Mà thần thức A Tư Mạc cũng lại rung lên theo tiếng chuông ngân nga, chút đau nhức khi trước còn lưu lại khi trước cũng tức thì biến mất.
- Lục Liễm Phong Linh này có thể phát ra Đại Thanh Âm Chú, người nghe an thần sảng khoái, nhanh chóng khôi phục tinh thần, là một loại pháp bảo thực dụng hiếm có. Sau này đệ luyện pháp quyết phong hành, cũng nên tìm chỗ treo nó lên trước khi tu tập. Mỗi lần đệ đánh ra phong thuộc tính pháp quyết, Lục Liễm Phong Linh có thể hấp thụ lấy một phần chân khí, sau này trời không nổi gió, vẫn phát ra được Đại Thanh Âm Chú, tiện dụng vô cùng.
Pháp bảo theo kiểu dáng tinh tế thế này, A Tư Mạc không chút nghi ngờ, hẳn phải là của Quyền Thái Lễ sư huynh. Cũng thật trùng hợp, có Lục Liễm Phong Linh, hắn tu luyện Dương Thái Tức, hẳn sẽ có ích lợi nhất định. Thu lấy nó vào trong giới chỉ, A Tư Mạc mới nhìn đến hai món còn lại.
Quà của Nguyễn Thái Lạc sư huynh là một khối ngọc bội hình dáng cổ kính, thuần một loại ngọc lam khắc thành, xanh lam không lẫn một tia tập chất. Ngọc bội chiều dài tầm ngón tay út, chiều rộng thì một nửa. A Tư Mạc chỉ đứng cạnh phiến ngọc thôi, cũng cảm thấy cảm giác mát lạnh truyền tới toàn thân. Viên ngọc chạm khắc hình hai con thần thú đầu rồng, song cả hai không phải rồng. Con thứ nhất mình cá, miệng rộng, thân ngắn, đang quẫy nước. Con thú thứ hai tuy có chân và đuôi như rồng, song thân thì không phải; bộ dáng nó đang đứng dạng bốn chân ra trên mặt nước, sóng nước đánh tới chân nó, liền yên lặng cả lại. Thủ công hoa văn trên thân miếng ngọc không tinh tế tỉ mỉ như những món đồ chạm khắc ngà voi sừng tê mà A Tư Mạc từng thấy bá bá bày trong nhà, chỉ là vài nét điểm xuyết. Có điều tuy thô sơ, song lại lột tả được cái thần khí ẩn tàng trong sự đơn giản cổ phác.
- Khối Si Công Hải Bích này làm từ ngọc cổ ngàn năm dưới đáy biển, là tác phẩm mà Nguyễn Thái Lạc tương đối tâm đắc, ta cũng không ngờ đệ ấy lại tặng đệ món pháp bảo này đâu. Chắc là y vẫn chưa nguôi ngoai vụ sáng hôm qua bị Trương Thái Đức chơi cho một vố, nên mới lấy thứ này ra tặng. Tính ngọc vốn nhuận, ở trong nước biển ngâm tẩm bấy lâu, càng làm tăng thêm cái tính nhuận ấy. Si Vũ và Công Phúc đều là con của rồng, cũng là anh em với Tù Ngưu. Chúng đều là linh thú ưa nước; Si Vũ đập sóng làm mưa, trừ đi hỏa hoạn cho dân, còn Công Phúc cai quản, điều hòa nước, ngăn ngừa lũ lụt. Hai loại thần thú này theo đó ứng với hai phù trận của tam đệ khắc lên: Kị Hỏa Quanh Thuẫn và Nhâm Thủy Thần Ngự Trận. Trận pháp đầu tiên một khi khởi động, vạn hỏa bất xâm, chỉ có điều lực phòng hộ chống lại các loại pháp quyết không phải hỏa thuộc tính thì hơi yếu. Còn Nhâm Thủy Thần Ngự Trận có thể tăng thêm cảm ứng cùng năng lực ngự thủy cho người dùng. Đệ sau này chủ tu linh thực pháp quyết, hẳn sẽ thấy nó vô cùng thực dụng.
Mà món quà cuối cùng, là Giáp Mộc Cương Long Toản của Lý sư huynh. Lý Thái Trọng tu vi kém Quyền Thái Lễ và Nguyễn Thái Lạc một tầng, tự nhiên pháp bảo luyện ra, cũng không đặc sắc được như hai người kia. Giáp Mộc Cương Long Toản dài năm tấc, mũi khoan dài ba tấc. Nửa chuôi khoan tạo hình Thanh Long uốn lượn, nửa còn lại hình cá sấu, trên khắc chữ Giác Tú. Giáp Mộc Cương Long Toản là mộc hành pháp bảo, chỉ cần lấy thủy sinh mộc, truyền thủy hành chân khí vào, nó sẽ lớn thành năm thước (2m); lại lấy mộc khắc thổ, Giáp Mộc Cương Long Toản khoan đất cứng như chọc đậu phụ, xuyên lòng núi như trở bàn tay. Được thêm một điểm, đó là do mộc sinh hỏa, Giáp Mộc Cương Long Toản còn có khả năng định vị hỏa thuộc tính chân khí. Tỷ như có tu giả hỏa thuộc tính bị chon vùi trong hầm đá, nếu món pháp bảo này trong phạm vi mười trượng (40m), liền có thể đào thẳng tới đây. Thậm chí nếu có dị hỏa trong lòng đất, Giáp Mộc Cương Long Toản cũng có thể tìm ra. Chỉ là phạm vi định vị mười trượng thật quá nhỏ, truy tùng tung tích dị hỏa chẳng bao giờ khoanh vùng được dưới mười dặm (5km) bán kính, nếu chỉ dùng Giáp Mộc Cương Long Toản, thật không biết tìm đến khi nào.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT