Elliott nhìn qua cửa sổ chờ chiếc taxi mà ông đã gọi. Sau khi đã lội bì bõm trong vũng nước ứ đọng bẩn thỉu trong nhà xe, ông cứ tưởng mình sẽ chẳng bao giờ có thể trút bỏ được cái mùi thum thủm đang bám chặt vào da thịt, song chỉ cần xối nước và thay quần áo sạch là ông đã trở lại dáng vẻ lịch sự. Để nước ngừng tuôn xối xả, ông đã phải khoá nguồn nước lại và buộc phải dùng nhờ buồng tắm nhà hàng xóm. Ông chỉ còn việc gọi thợ sửa ống nước tới, song việc này có thể để vài tiếng nữa làm cũng được. Ưu tiên lúc này của ông là vào thành phố để gặp con gái ông đang từ sân bay đến thẳng chỗ hẹn.
Ông nhìn mình trong gương. Trông vẻ bề ngoài, ông vẫn có thể khiến người ta lầm tưởng, song "bên trong" tất cả đều đã rệu rã: những cơn đau tức lồng ngực, nhức mỏi cơ, cảm giác đau rát ở dưới sống lưng... Căn bệnh ung thư đang hoành hành, chậm rãi nhưng chắc chắn.
Để tìm cho mình một chút kích thích, ông lục ngăn kéo chiếc tủ gỗ sơn mài và lấy ra một điếu thuốc hút dở không chỉ có thuốc lá bên trong. Ông lục tìm trong túi áo nhưng không thấy bật lửa đâu: chiếc Zippo mà con gái ông đã tặng vào dịp bước sang thiên niên kỷ mới. Bực bội, ông vào tận trong bếp và châm điếu thuốc có trộn cỏ thơm (Cỏ kích thích, một loại cỏ thuốc phiện có khả năng gây nghiện) bằng một que diêm. Ông hoàn toàn không phải là người nghiện ngập và cũng không đấu tranh để bảo vệ tác dụng y học của cây gai dầu (Một loại thuốc phiện). Cho dù như vậy thì hôm nay ông vẫn tự cho phép mình dùng một liều. Ông hít hai ba hơi liền và cảm thấy mỗi lúc một khoẻ khoắn hơn. Rồi ông nhắm mắt để thả lỏng toàn thân, cho tới khi tiếng còi xe kéo ông ra khỏi cơn mơ màng.
***
Ông đến Loris' Diner, nhà hàng mà con gái ông thích nhất, sớm vài phút so với giờ hẹn. Ông lên tầng trên và được cô phục vụ dẫn tới một bàn nhỏ cạnh lớp kính trông ra đường Powell. Ngồi vắt vẻo trên một chiếc ghế cao, Elliott thích thú quan sát vũ điệu của những đầu bếp đang nướng thịt bò bít tết, đập trứng và rán vàng những lát giăm bông trên một khay nướng khổng lồ. Đây là một chỗ rất đặc biệt, hoàn toàn được trang trí theo phong cách những năm năm mươi, phục vụ những suất ăn đầy ắp toàn những món cổ truyền của Mỹ trước thời kỳ có cholesterol và những món ăn kiêng. Những món mà người ta rất thích lớn tiếng gièm pha song ai cũng ngấm ngầm thèm thuồng: bánh mì tròn kẹp thịt, khoai tây rán hảo hạng, kem và sinh tố đánh kem sữa. Ở chính giữa phòng, một máy hát tự động màu sặc sỡ đang phát những bài hát của Elvis trong khi từ góc phòng, phía trên một dãy máy đánh bóng flipper, một chiếc Harley Davidson chính cống được treo trên trần bằng một hệ thống dây dợ chằng chịt.
Mỗi lần tới đây, Elliott luôn có cảm giác như đang ở trong bộ phim Trở về thời tương lai, và mỗi lần cánh cửa bật mở ra, ông gần như chờ đợi sự xuất hiện của Marty McFly theo sau là bác sĩ Brown và chú chó trung thành Einstein (Hai nhân vật (và chú chó của họ) trong bộ phim nói trên). Ông cũng vừa mới nghĩ tới điều đó thì một người khách mới bước vào trong nhà hàng. Song đó không phải là Marty...
Đó là một cô gái trẻ với mái tóc vàng và thẳng thả xuống xung quanh cô như một chùm ánh sáng.
Một cô gái khoảng hai mươi tuổi.
Một cô gái trẻ.
Con gái ông.
Angie.
Ông nhìn thấy cô từ đằng xa và trong giây lát ông nhìn cô mà cô không hề biết có người đang quan sát mình.
Không thể phủ nhận được, trông cô rất đẹp trong chiếc áo len dài bằng lông dê ca-sơ-mia ôm sát người, chiếc váy nhung ngắn - mà ông cho là quá ngắn - với đôi tất da chân đen ánh và đôi bốt da. Thật không may, ông không phải là người duy nhất trong phòng đang ngắm nhìn cô: từ bàn bên cạnh, một anh chàng nhút nhát đang ngây ngất trước đám bạn bè khi nhìn thấy "quả bom nguyên tử" đang đi về phía họ. Elliott ném cho cậu ta một ánh mắt đe doạ. Trong vai trò một người cha, ông căm ghét mà không loại trừ bất cứ một anh chàng nào mang trong người hóc-môn nam tính chỉ nhìn con gái ông như một phương tiện tình dục.
Cuối cùng Angie cũng nhìn thấy ông và hoan hỉ giơ một cánh tay lên vẫy ông.
Trong lúc cô đi về phía ông, rạng rỡ và tung tăng, ông bỗng ý thức rất rõ rằng con gái mình chắc chắn là điều mà ông đã thành công nhất trong cả cuộc đời mình. Đương nhiên, ông chẳng phải người cha đầu tiên có cảm giác đó, song điều đó lại mang một ý nghĩa rất đặc biệt vào lúc này khi ông đang bị hành hạ bởi căn bệnh và cái chết sẽ thắng trong trận chiến cuối cùng này.
Vậy mà trong suốt một thời gian dài ông đã không muốn có con!
Ông đã lớn lên trong một bầu không khí gia đình ngột ngạt, giữa chứng nghiện rượu của bố và sự yếu đuối về tinh thần của mẹ. Chẳng phải là một tuổi thơ khiến cho người ta muốn được trở thành bố. Ngay cả đến bây giờ, những kỷ niệm sống động nhất mà ông còn giữ được về thời kỳ đó vẫn là những hình ảnh về bạo lực và sợ hãi, và ông biết chúng đã khoá trái cánh cửa dẫn tới ý muốn trở thành một người cha trong ông. Thật khó để giải thích vì sao: rất có thể là do sự nghi ngại mình sẽ không biết cách yêu thương và sẽ lại làm cho đứa trẻ đau đớn...
Dù sao đi nữa thì cũng có một điều chắc chắn: ý nghĩ trở thành một người cha khiến ông nhớ lại những nỗi đau tuổi thơ đến mức ông đã từ chối có một đứa con ngay cả với người phụ nữ duy nhất mà ông yêu thương.
Và nghĩ lại điều đó ông cảm thấy trái tim mình tan nát không thể nào chịu đựng nổi.
Rồi Ilena qua đời và trong suốt mười năm kể từ ngày cô ra đi, ông đã sống trong một cơn ác mộng dài đằng đẵng. Ông đã ngập chìm trong một đường hầm đầy tuyệt vọng, chỉ giữ được cái đầu còn nổi trên mặt nước nhờ vào sự hiện diện của Matt và nhờ công việc mà ông cố bấu víu vào như một chiếc phao.
Tất nhiên, ông cũng đã gặp những người phụ nữ khác, nhưng họ đã đi qua đời ông mà chẳng hề dừng bước và chính ông đã thận trọng để không níu kéo họ. Nhưng rồi một ngày, trong một đợt hội thảo chuyên ngành tại Ý, ông đã gặp một nữ bác sĩ chuyên khoa tim từ Verona tới. Đó là một cuộc phiêu lưu ngắn ngủi, chỉ kéo dài trong một kỳ nghỉ cuối tuần, và họ cũng chẳng giữ liên lạc với nhau. Có điều chín tháng sau, cô đã thông báo với ông rằng cô vừa mới cho ra đời một bé gái và nó là con của ông. Lần này thì ông bị đặt trước sự đã rồi. Chẳng có cách nào trốn chạy được, chưa kể người mẹ cũng chẳng phải là một người nặng tình mẫu tử và cô hoàn toàn không có ý định một mình nuôi đứa nhỏ. Ba tháng sau ngày sinh của bé, Elliott đã sang Ý đón Angie và họ đã thoả thuận với nhau rằng cô bé sẽ chỉ gặp lại mẹ trong những kỳ nghỉ hè.
Chẳng hề được chuẩn bị trước, ông đã trở thành cha và cuộc sống của ông đã biến đổi hoàn toàn. Sau một quãng thời gian đắm chìm trong bóng tối, ông đã tìm lại được ý nghĩa cho sự tồn tại của mình. Từ đó, mỗi tối trước khi đi ngủ, công việc cuối cùng của ông là kiểm tra để chắc chắn rằng giấc ngủ của con gái được bình yên. Từ đó, khái niệm "tương lai" lại xuất hiện trong từ ngữ của ông, chiếm một vị trí rất đẹp bên cạnh các từ "bình sữa", "bỉm" và "sữa trẻ em".
Tất nhiên, môi trường vẫn ô nhiễm hơn bao giờ hết, tầng ô-zôn vẫn bị huỷ hoại, thế giới vẫn chậm rãi tiến dần đến sự suy thoái, xã hội tiêu thụ càng ngày càng khiến ông khó chịu và công việc chẳng để cho ông có được một phút rảnh rỗi nào. Song tất cả những điều đó đều chẳng còn trọng lượng gì khi đặt cạnh một bé gái chỉ nặng vài cân, với đôi mắt sáng rỡ và nụ cười mong manh.
Giờ đây, khi nhìn con gái đang đi về phía mình trong nhà hàng này, ông vẫn còn hình dung ra những năm đầu tiên, khi ông một mình nuôi dạy cô, chẳng hề có một người phụ nữ nào ở bên giúp đỡ. Thoạt đầu, ông cứ nghĩ mình sẽ chẳng thể làm được và ông đã thoáng hoảng sợ. Làm thế nào để trở thành một người cha được nhỉ? Ông không biết mà cũng chẳng ở đâu có lời giải thích. Đúng vậy, ông là một bác sĩ phẫu thuật bệnh nhi, nhưng điều đó chẳng giúp được gì nhiều cho ông trong cuộc sống hàng ngày. Nếu như cô bé cần ông khâu một chỗ hở tâm thất hoặc phẫu thuật một động mạch vành thì ông còn có thể có ích, đằng này lại chẳng phải như thế.
Thế rồi ông hiểu ra một bí mật lớn lao: người ta không sinh ra để làm cha, mà phải trở thành một người cha. Bằng cách từng ngày từng ngày một đưa ra những quyết định đúng đắn cho đứa con của mình.
Ông đã phải chờ đợi bốn mươi năm để hiểu được rằng chẳng hề có một câu trả lời nào, chẳng có giải pháp nào ngoài tình yêu.
Đó chính là điều mà ngày xưa Ilena vẫn luôn nói với ông, song hồi đó ông vẫn thường trả lời cô: "Cứ như dễ lắm ấy".
Vậy mà lại đúng thế thật.
***
- Bố, Angie vừa chào vừa cúi xuống hôn bố.
- Chào con, Wonder Woman (Người phụ nữ tuyệt vời), ông vừa đáp vừa ám chỉ chiếc váy ngắn và đôi bốt da của cô. Chuyến bay của con thế nào?
- Rất nhanh: con đã ngủ suốt cả chuyến!
Angie ngồi xuống chếc ghế đối diện với ông, đặt lên bàn một chùm chìa khoá to tướng và một chiếc điện thoại di động nhỏ xíu sơn màu bạc.
- Con đói ngấu rồi đây! Cô vừa nói vừa với lấy thực đơn và tìm xem món bánh mì tròn kẹp thịt mà cô yêu thích nhất có còn trong đó hay không.
Khi đã yên tâm về điểm này, cô liền lao vào một bài diễn thuyết nồng nhiệt được điểm xuyết bằng rất nhiều dẫn chứng về việc học tập chuyên ngành y khoa của cô cũng như về cuộc sống của cô ở New York. Angie là một cô gái thông minh và rộng lượng, rất có lý tưởng và luôn luôn cố gắng làm tốt mọi công việc của mình. Elliott chưa bao giờ thực sự hướng cô đi theo ngành y, song cô luôn hướng tới những người khác và cô khẳng định rằng mình đã được thừa hưởng đức tính đó từ ông.
Ông thấy cô rất thư giãn, rạng rỡ và tuyệt vời.
Bị cuốn theo những tràng cười trong trẻo của cô, ông tự hỏi làm sao có thể thông báo với cô về căn bệnh của ông. Thật chẳng dễ dàng gì với một cô bé hai mươi tuổi bỗng nhiên được biết bố mình đã mắc căn bệnh ung thư giai đoạn cuối và ông chỉ còn sống được hai hoặc ba tháng...
Elliott biết rõ con gái. Kể cả từ khi cô bé chuyển tới New York sống, hai bố con vẫn rất gần gũi với nhau. Mặc dù khá cao lớn và đã ra dáng một người phụ nữ, song cô vẫn còn là một đứa trẻ dễ xúc động và ông sợ rằng cô sẽ không thể giữ được bình tĩnh khi nghe thấy điều mà ông sắp phải nói với cô.
Trong nghề của ông, rất nhiều lần mỗi tuần, ông phải thông báo với những người đang ngập chìm trong nước mắt rằng con cái của họ, vợ chồng họ hay bố mẹ họ đã không vượt qua được một ca phẫu thuật. Đó luôn là những giây phút khó khăn, song theo thời gian ông đã học được cách chấp nhận khía cạnh đó của công việc.
Phải, là một bác sĩ, mỗi ngày ông đều phải kề cận với cái chết, nhưng đó là cái chết của những người khác không phải của chính ông...
Tất nhiên, ông cũng hơi sợ hãi về cái điều sẽ đến với ông. Ông không thật sự tin vào cuộc sống vĩnh cửu cũng như vào một sự luân hồi nào đó, Ông biết cái đang chờ đợi phía trước không chỉ là sự chấm dứt cuộc sống của ông trên trái đất, mà còn là sự kết thúc vĩnh viễn của cuộc sống ấy. Thân thể ông sẽ cháy rụi trong một lò hoá thân, chắn chắn Matt sẽ mang tro của ông đi rải ở một nơi nào đó khá đẹp đẽ và thế là xong! Cuộc chơi kết thúc!
Và đây là điều mà ông muốn bình tĩnh giải thích với con gái: cô không nên lo lắng cho ông, vì ông sẽ biết cách đối diện với hoàn cảnh đó. Hơn nữa, nếu suy nghĩ một cách khách quan, cái chết của ông hoàn toàn không phải là một điều kinh khủng: ông sẽ chẳng từ chối nếu sống thêm được vài chục năm nữa, nhưng ông cũng đã có thời gian để nếm trải mọi cay đắng ngọt bùi của cuộc sống, đã nhận đủ mọi niềm vui, nỗi đau, sự bất ngờ...
- Còn bố, bố khoẻ chứ ạ? Đột nhiên Angie hỏi, kéo tuột ông ra khỏi dòng suy nghĩ.
Ông nhìn cô trìu mến trong khi cô đưa tay vén một lọn tóc loà xoà che đôi mắt màu xanh.
Ông cảm thấy cổ họng nghẹn lại và cảm xúc trào dâng.
Khỉ thật, giờ không phải là lúc yếu đuối!
- Bố có chuyện phải nói với con, con gái yêu...
Trong một thoáng, nụ cười của Angie mờ đi, giống như cô đã linh cảm thấy một tin xấu.
- Có chuyện gì vậy bố?
- Bố có một khối u trong phổi.
- Gì cơ? Cô nói vẻ ngỡ ngàng.
- Bố bị ung thư, Angie ạ.
Choáng váng, cô lặng đi trong trong vài giây rồi hỏi bằng giọng nghẹn ngào:
- Bố, bố sẽ... qua khỏi chứ?
- Không con ạ, nó đã di căn ra khắp nơi rồi.
- Trời ạ...
Bàng hoàng, cô đưa tay ôm lấy đầu rồi từ từ ngước lên. Một giọt nước mắt lăn dài trên má, nhưng cô vẫn chưa hoàn toàn từ bỏ mọi hy vọng.
- Nhưng... bố đã tới khám các bác sĩ chuyên khoa chưa? Ngày nay có rất nhiều kỹ thuật mới để điều trị ung thư cho từng tế bào. Rất có thể...
- Quá muộn rồi... Ông ngắt lời bằng giọng cả quyết.
Cô lấy tay áo chùi nước mắt, song chẳng ích gì: những giọt nước mắt cứ lã chã rơi xuống mà cô chẳng thể nào ngăn lại được.
- Thế bố biết từ lúc nào?
- Hai tháng nay.
- Nhưng... sao bố không nói gì cho con biết?
- Để bảo vệ con, để không làm con buồn...
Cô nổi giận:
- Vậy là từ hai tháng nay, mỗi lần nói chuyện với con qua điện thoại, bố cứ để mặc cho con kể đủ thứ chuyện linh tinh mà chẳng hề cho rằng cần phải nói cho con biết bố bị ung thư!
- Con mới bước vào ngoại trú năm thứ nhất, Angie, đây là một thời kỳ căng thẳng đối với con và...
- Con ghét bố! Cô hét lên và đứng dậy rời khỏi bàn.
Ông cố giữ cô lại, nhưng cô đẩy ông ra và chạy ra khỏi nhà hàng.
***
Mưa rơi như trút nước khi Elliott chạy ra bên ngoài. Bầu trời được che kín bằng một dải mây đen và sấm đang gầm gào. Bác sĩ thấy tiếc vì đã không cầm theo ô hoặc áo mưa, vì chiếc áo khoác bằng vải lanh của ông đã ướt sũng chỉ trong vòng chưa đầy hai giây. Ngay lập tức, ông hiểu ra rằng ông khó có thể tìm được Angie. Giao thông đang tắc nghẽn, taxi và xe buýt chen chúc trên đường.
Thoạt đầu ông định tìm cách đi ra bến xe điện ở ngã giao nhau giữa đường Powell và đường Market, nhưng rất nhanh chóng ông buộc phải từ bỏ ý định đó: mưa đã không làm nhụt chí từng đoàn khách du lịch đang hối hả về phía đó để xem những người điều khiển đang dùng tay xoay chuyển những chiếc xe. Ông áng chừng sẽ phải chờ rất lâu và quyết định tốt hơn là đi về phía Union Square với hy vọng có thể bắt kịp một trong những khoang xe đang chạy. Hai khoang đầu tiên lướt qua chất đầy người đến nỗi ông chẳng buồn thử đuổi theo. Tuy vậy, ông đã bắt kịp khoang xe thứ ba đúng vào đoạn nó chuẩn bị leo lên dốc.
Ông ngồi trong khoang xe điện cho tới trạm cuối cùng: Fisherman's Wharf, một cảng cá cũ của San Francisco, nay bị lấn chiếm bởi các nhà hàng dành cho khách du lịch và các cửa tiệm bán đồ lưu niệm. Run lẩy bẩy vì lạnh, Elliott băng qua các quầy đồ hải sản nơi những người bán cá đang hồ hởi xé mai những con cua bể còn sống nguyên trước khi nhấn chúng vào trong những chiếc nồi khổng lồ xếp dọc theo vỉa hè. Khi ông tới quảng trường Ghirardeli thì mưa càng trở nên nặng hạt. Ông đi ngang qua khu xưởng lâu đời chuyên sản xuất sô-cô-la để tới pháo đài Mason.
Lập cập và run rẩy vì cái lạnh thấu xương, ông tiếp tục rảo bước. Gió rít thành từng cơn chói tai trộn lẫn nước mưa quất vào mặt ông. Vì phải cố sức, các vết thương trong phổi và bên dưới thắt lưng lại càng trở nên rát bỏng, song chúng chẳng thể ngăn ông thôi tìm con gái. Ông biết có một nơi cô thường hay tìm tới những lúc buồn.
Cuối cùng ông cũng ra được đến bờ cát nằm giữa Marina Green và một vùng đất xưa kia là bãi chiến trường thuộc Crissy Field. Biển động dữ dội và những đợt sóng lừng hắt tung bọt biển lên xa hàng chục mét. Elliott nheo mắt nhìn: cầu Cổng vàng gần như đã biến mất trong đám sương mù và những làn mây thấp lè tè. Bãi biển vắng tanh, hoàn toàn bị bao phủ bởi một làn mưa dày đặc. Ông tiến nhanh hơn về phía trước và hét điên cuồng:
- Angie! Angie!
Thoạt đầu, chỉ có tiếng gió đáp lại lời ông. Đôi mắt ông nhoà đi và ông chợt cảm thấy mình yếu đuối, mệt mỏi, gần như kiệt sức.
Rồi dường như ông thấy tiếng cô, mà không nhận rõ ra được từ nơi nào vọng tới, cho tới khi ông nghe thật rõ:
- Bố!
Angie đang chạy về phía ông, xuyên thủng màn mưa đang đổ xuống như trút nước.
- Bố đừng chết! Cô van vỉ. Bố đừng chết!
Ông ôm chặt cô vào lòng và hai cha con đứng ôm nhau như vậy hồi lâu, ướt sũng, kiệt quệ, tan nát bởi nỗi đau và cảm xúc.
Vừa tìm cách an ủi con gái, Elliott vừa tự hứa với mình phải cố gắng hết sức để chống chọi cái chết và đẩy lùi nó tới tận cùng giới hạn.
Rồi tới giờ phút thiên định ấy, ông sẽ ra đi, tâm hồn thanh thản, vì ông biết rằng vẫn còn một phần nào đó của ông còn lưu lại ở bên kia cõi vĩnh hằng.
Và ông hiểu ra rằng có lẽ vì thế mà người ta cần người nối dõi.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT