Anh nói sẽ đến trong vòng 5 phút nhưng chưa đầy 3 phút đã thấy có mặt ở sảnh rồi.Anh chưa vào bên trong toà nhà bao giờ, và trông cực kì lạc lõng... có lẽ vì anh không xăm mình hay xỏ khuyên như tất cả những người đang đi ngang bàn tiếp tân lúc này.
Hoặc có lẽ vì anh đẹp trai hơn hẳn những người khác, đứng đó với mái tóc bù xù như vừa ngủ dậy (mặc dù tôi biết anh đã dậy cách đây phải mấy tiếng rồi - anh chạy bộ buổi sáng mà), cùng với chiếc quần jeans và chiếc áo khoác bằng da nhàu nhĩ.
"Chào em," anh nói khi thấy tôi.
"Chào," tôi cố mỉm cười, nhưng không được, thế nên tôi chỉ nói, "cảm ơn anh đã đến."
"Không có gì," anh nói, ngó qua phòng TV, ngay trước cửa căng-tin, nơi mà Rachel vừa được TS. Jessup mặt xám ngoét nhập hội cùng với nửa tá nhân viên khu nhà mặt mày hớt hơ hớt hải, đang đi qua đi lại đầy vẻ căng thẳng và âu sầu buồn bã.
"Cảnh sát đâu hết rồi?" anh hỏi.
"Họ đi cả rồi," tôi nói, cố giữ cho giọng mình không tỏ ra cay đắng. "Vừa có một vụ đâm chết 3 người trong căn hộ trên một tiệm bánh ở Broadway. Chỉ có anh kia còn ở lại canh giếng thang máy cho đến khi bên giám định pháp y đến mang xác cô bé đi. Người ta đã kết luận cái chết của cô bé là tai nạn nên có lẽ họ nghĩ chẳng còn lý do gì để ở lại cả."
Đây là một câu trả lời rất ngoại giao so với những gì tôi thật sự muốn nói về tay thanh tra Canavan và các đồng sự của ông ta. "Nhưng em nghĩ họ đã sai," Cooper nói. Đó là một nhận xét, chứ không phải một câu hỏi.
"Ai đó đã lấy cắp chìa khoá, Coop ạ," tôi nói. "Rồi lén để lại chỗ cũ khi không có người để ý. Em không bịa chuyện đâu. Em không điên."
Tuy nhiên, cái kiểu giọng vóng lên ở chữ "điên" ấy đã khiến cho tuyên bố của tôi rất dễ phải xem xét lại.
Nhưng Cooper có mặt ở đây không phải để xem xét lại chuyện đó.
"Anh biết," Cooper nói nhẹ nhàng. "Anh tin em. Anh đã chẳng ở đây rồi sao?"
"Em biết," tôi nói, hối hận về cơn bộc phát của mình. "Cảm ơn anh. Mình đi thôi." Cooper ngần ngừ,
"Khoan đã. Đi đâu?"
"Phòng Roberta," tôi nói, giơ cái chìa vừa lấy từ hộp khoá lên. "Em nghĩ chúng ta nên kiểm tra phòng cô bé trước."
"Để làm gì?"
"Em không biết, " tôi nói. "Nhưng ta phải bắt đầu ở đâu đó chứ."
Cooper hết nhìn cái chìa rồi lại nhìn tôi.
"Anh muốn em biết," Cooper nói, "rằng anh không nghĩ đây là một ý kiến hay đâu."
"Em biết," tôi nói. Tôi cũng biết vậy mà.
"Thế tại sao còn làm như vậy?"
Chỉ khoảng 5 giây nữa thôi là tôi sẽ bật khóc. Tôi đã cảm thấy như thế từ lúc Jessica xông vào văn phòng của tôi, báo tin lại có một vụ tử vong nữa vừa xảy ra, và màn bẽ mặt ê chề trước thanh tra Canavan rốt cuộc cũng chẳng giúp được gì hơn.
Nhưng tôi cố giữ cho giọng mình khỏi cơn quá khích.
"Bởi vì chuyện này đang xảy ra trong toà nhà của em. Nó đang xảy đến với những cô gái của em. Và em muốn chắc chắn là chuyện này đang xảy ra theo đúng như lời cảnh sát và mọi người nói, và rằng nó không phải là... anh biết rồi đấy... là cái mà em đang nghĩ."
"Heather," Cooper nói. "Em có nhớ hồi ’Sugar Rush’ mới ra mắt, biết bao nhiêu thư hâm mộ bắt đầu đổ về văn phòng Cartwright Records, và em thì cứ khăng khăng đòi đọc hết, đòi tự tay trả lời từng bức một không?"
Tôi xù lông lên. Không thể dừng được nữa.
"Xin lỗi anh," tôi nói. "Hồi đó tôi mới 15 tuổi thôi."
"Không quan trọng," Cooper nói. "Bởi vì sau 15 năm, em vẫn chẳng thay đổi gì cả. Em vẫn cảm thấy mình trực tiếp dính líu đến tất cả những người mà em đụng phải, kể cả những người em chưa gặp bao giờ. Cứ như thể em sinh ra trên quả đất này là để canh chừng cho tất cả nhân loại vậy."
"Không phải thế," tôi nói. "Và cũng chỉ mới 13 năm thôi."
"Heather," Cooper nói, phớt lờ tôi. "Nhiều lúc trẻ con làm những chuyện rất dại dột. Rồi những đứa khác cũng chỉ là trẻ con, lại bắt chước những đứa kia. Và chúng chết. Chuyện xảy ra như vậy. Không nhất thiết có nghĩa là một tội ác đâu em."
"Hử?" tôi càng xù lông hơn bao giờ hết. "Thế còn cái chìa khoá? Cái chìa khoá thì sao?"
Trông anh vẫn chẳng có vẻ gì bị thuyết phục.
"Anh muốn em biết," anh nói, "rằng anh làm chuyện này chỉ để tránh cho em không làm tung toé cái mớ hổ lốn này thêm nữa - một việc mà hình như lúc nào em cũng làm rất giỏi."
"Anh biết không Coop," tôi nói. "Tôi rất cảm ơn lòng tin tưởng của anh. Tôi thật sự biết ơn anh về điều đó đấy."
"Anh chỉ không muốn em bị mất việc thôi," anh nói. "Anh không đủ tiền để chi thêm phúc lợi y tế cộng với tiền nhà tiền phòng nữa đâu."
"Cám ơn," tôi gầm gừ. "Cám ơn nhiều."
Nhưng điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Vì anh vẫn đi cùng tôi.
Chuyến cuốc bộ lên phòng Roberta Pace ở tầng 16 kéo dài lê thê. Lẽ dĩ nhiên chúng tôi không thể đi thang máy, vì nó đã bị tắt. Âm thanh duy nhất tôi nghe được, khi cả 2 rốt cuộc cũng leo lên tới cái hành lang dài, trống hươ trống hoác, là tiếng thở của chính tôi và Cooper. Đặc biệt là của tôi, thở dốc.
Ngoài ra, tất cả đều im lặng. Tĩnh mịch đến rợn người. Mà lúc này còn chưa đến buổi trưa. Hầu hết các sinh viên - những đứa còn chưa bị tiếng còi cứu thương, cưú hoả đánh thức - vẫn đang ngủ bù cơn say rượu tối qua.
Tôi chỉ đường bằng chùm chìa khoá và bắt đầu rảo bước đến phòng 1622. Cooper theo sau, đưa mắt ngó những tấm poster treo trên tường ở sảnh - những tấm poster khuyến khích sinh viên xuống Dịch vụ Khám sức khoẻ nếu nghi ngờ mình đã mắc bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục hoặc thông báo cho chúng biết về một đêm chiếu phim miễn phí ở trung tâm sinh viên.
Đứa Ra ở tầng 16 có vẻ mê Snoopy. Hình cắt dán Snoopy có ở khắp nơi. Thậm chí còn có hẳn một cái poster in hình Snoopy đang cầm một cái khay thật bằng bài nhỏ có mũi tên chỉ vào đó, ghi "Bao cao su miễn phí được tài trợ bởi Dịch vụ sức khoẻ New York College: Ê, nộp tới 40.000 đô một năm, sinh viên phải được cho không cái gì chớ!"
Cái khay, dĩ nhiên, trống trơn.
Trên cửa vào phòng 1622 có một miếng giấy ghi nhớ màu vàng, loại xoá được, nhưng chẳng có gì ghi trên đó cả.
Ngoài ra còn có một miếng dán hình Ziggy.
Nhưng ai đó đã xỏ cho Ziggy một cái khuyên mũi và một ai khác đã viết vào một cái bong bóng trên đầu Ziggy, "Quần lót của tui đâu?"
Tôi giơ chùm chìa khoá lên rồi dùng nó đập mạnh vào cánh cửa.
"Văn phòng quản lý đây," tôi gọi. "Có ai trong đó không?"
Không có tiếng trả lời. Tôi gọi thêm lần nữa, rồi tra chìa vào khoá, mở cửa.
Bên trong, một chiếc quạt điện trên nóc tủ đang quay vù vù, mặc dù căn phòng này, cũng như mọi căn phòng khác ở Fischer Hall, đều có hệ thống điều hoà không khí trung tâm. Trừ cái quạt, không có bất cứ thứ gì khác chuyển động. Cũng chẳng thấy bạn cùng phòng của Roberta đâu, con bé này lúc về chắc sẽ sốc nặng đây, bỗng nhiên lại thấy mình giờ chỉ còn một mình một phòng cho đến hết năm.
Chỉ có môt cái cửa sổ, rộng mét tám, cao khoảng mét rưỡi, có 2 bên tay cầm để đóng mở. Xa xa, qua những tầng mái trồng cây thành vườn và các tháp nước, tôi thấy dòng Hudson đang nghiêm trang chảy, những tia mặt trời phản chiếu trên mặt gương phẳng lặng.
Cooper chớp mắt nhìn vài bức ảnh gia đình đặt trên một chiếc bàn cạnh giường. Anh nói, "Con bé bị chết. Tên nó là gì?"
"Roberta," tôi nói.
"Thế thì giường của nó đây." Con bé đã thuê một hoạ sĩ đường phố cắt tên mình thành một dải chữ màu cầu vồng. Dải chữ đó được treo bên trên cái giường bừa bộn hơn, cạnh cửa sổ. Cả 2 chiếc giường đều có những dấu hiệu chứng tỏ trước đó đã có người ngủ, và cả 2 đứa bạn cùng phòng này đều có vẻ như chả quan tâm gì đến chuyện dọn nhà. Chăn thì nhăn nhúm, còn khăn trải giường - không đồng màu, thường khăn trải giường lúc nào cũng thế - thì xiên xẹo. Nửa căn phòng phía Roberta được trang trí mang đậm mô-típ của Ziggy. Giấy ghi nhớ in hình Ziggy dán khắp nơi, một quyển lịch Ziggy ở ngay trên tường, và trên một chiếc bàn có hẳn một bộ văn phòng phẩm Ziggy.
Cả 2 cô bé, theo tôi nhận thấy, đều là fan của Jordan Cartwright. Chúng có một bộ hoàn chỉnh các CD của Easy Street, cộng với album Baby, be mine.
Chả đứa nào có lấy dù chỉ một CD của tôi. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên lắm. Tôi lúc nào cũng được đám tween yêu thích hơn.
Cooper quỳ gối xuống và bắt đầu quan sát gầm giường của cô bé đã chết. Việc này làm tôi vô cùng phân tâm. Tôi cố tập trung vào việc dòm quanh căn phòng, nhưng cặp mông của Cooper thật sự rất đáng yêu. Nhìn cặp mông được ôm vừa vặn đến thế trong chiếc quần Levi’s đã sờn khi anh cúi xuống, quả thật rất khó lòng tập trung vào bất cứ việc gì khác, cho dù, việc ấy nghiêm túc lắm chứ chẳng phải chơi.
"Nhìn này," Cooper nói, rụt đầu và vai ra khỏi gầm giường của Roberta, mớ tóc đen lúc này đã rối bù lên. Tôi nhanh chóng chỉnh lại hướng mắt sao cho trông không có vẻ như mình vừa nhìn chằm chặp vào phía dưới thắt lưng Cooper. Hy vọng anh không để ý. "Cái gì thế?" tôi hỏi môt cách thật thông minh.
"Nhìn đi."
Lủng lẳng trên chóp một cây bít chì Ziggy mà Cooper đã lôi ra từ hộp bút trên bàn Roberta là một thứ đùng đục, bèo nhèo. Nhìn kĩ hơn, tôi nhận ra nó là cái gì.
Một cái bao cao su đã qua sử dụng. "Ừm," tôi nói. "Eo!"
"Còn khá mới," Cooper nói. "Đảm bảo đêm qua Roberta vừa có một cuộc hẹn hò nóng bỏng."
Anh nhoài cánh tay còn lại nhặt lấy một cái phong bì trong mớ văn phòng phẩm Ziggy nằm trên bàn của Roberta, rồi thả cái bao cao su vào đấy.
"Anh làm gì vậy?" tôi hốt hoảng hỏi. "Như vậy không phải là vọc vào chứng cớ hay sao?"
"Chứng cớ gì?" Cooper gấp cái phong bì lại mấy lần, rồi nhét nó vào túi áo khoác. "Cảnh sát đã xác định là chẳng có vụ án nào cơ mà."
"Ừ, thế thì anh còn lấy cái đó làm gì?"
Cooper nhún vai rồi vứt cái bút chì đi, "Có một điều anh đã học được khi theo đuổi cái nghề này là: ta chẳng bao giờ biết trước được điều gì."
Anh nhìn quanh phòng Roberta và lắc đầu, "Đúng là kì cục. Ai lại đi lướt thang máy khi vừa mới làm tình xong chứ? Ngược lại thì còn hiểu được - kiểu như là, adrenalin tăng hay gì đó, vì vừa mạo hiểm tính mạng mình, đâm ra người ta trở nên kích động. Chứ còn làm tình trước? Trừ khi đấy là một kiểu tình dục quái dị nào đó."
Tôi mở to mắt, "Ý anh là một thằng thích làm tình với bạn gái rồi đẩy con bé đó ra khỏi nóc thang máy hay sao?"
"Đại loại thế," Cooper trông không được thoải mái lắm. Anh vốn không thích nói về những kiểu tình dục quái dị với tôi, nên lập tức đổi đề tài, "Thế còn con bé kia? Đứa đầu tiên ấy. Em nói em sẽ kiểm tra, và nó không có khách nào đến thăm vào cái đêm nó chết à?"
"Không," tôi nói. "Nhưng em đã kiểm tra trước khi anh đến đây, và Roberta cũng chẳng đăng kí cho ai vào hồi đêm qua cả." Rồi tôi chợt nghĩ ra một điều,
"Nếu... nếu cũng có một chuyện tương tự như thế trong phòng Elizabeth - một cái bao cao su gì đó, ý là thế - thì cảnh sát cũng chưa tìm thấy, đúng không?"
"Đúng, nếu họ không tìm. Và nếu họ thật sự tin cái chết của con bé là do tai nạn, như lần này, thì họ cũng chẳng kiểm tra làm gì đâu."
Tôi cắn môi dưới, "Chưa có ai chuyển vào chỗ của Elizabeth cả. Bạn cùng phòng của nó hiện giờ vẫn ở đó một mình. Chúng ta đến đó kiểm tra đi."
Cooper trông có vẻ hơi nghi ngờ.
"Anh công nhận con bé này chết như thế quả là kì lạ, Heather ạ." anh nói. "Đặc biệt là sau khi mình phát hiện ra vụ cái bao cao su và chiếc chìa khoá. Nhưng điều em đang ám chỉ..."
"Anh ám chỉ trước đấy chứ," tôi nhắc. "Với lại ta có thể kiểm tra xem thế nào mà, đúng không? Có mất mát chết chóc gì ai đâu?"
"Ngay cả nếu ta làm thế thì con bé cũng đã chết cách đây một tuần rồi," anh chỉ ra. "Anh nghi là ta sẽ chẳng tìm thấy gì đâu."
"Không thử thì sao biết được," tôi nói, hướng ra cửa. "Ta đi nào."
Cooper chỉ nhìn tôi
"Tại sao em cứ nhất quyết phải chứng minh bằng được là những cô gái này không tự gây ra cái chết cho chính họ?" anh hỏi tôi.
Tôi chớp mắt, "Gì cơ?"
"Em nghe anh nói rồi đó. Tại sao em lại quyết tâm phải chứng minh những cái chết này không phải là do tai nạn?"
Dĩ nhiên, tôi không thể nói cho Cooper nghe được. Bởi vì tôi không muốn mình trở thành cái thứ mà Sarah hẳn sẽ dán mác cho tôi - một con tâm thần. Bởi vì tôi biết tôi sẽ giống thế, nếu tôi nói cho anh nghe tôi nghĩ như thế nào... rằng tôi nợ toà nhà này - nợ chính Fischer Hall - cái việc phải làm cho ra nhẽ những gì đã xảy ra ở đây. Bởi vì Fischer Hall - cũng như Cooper - đã cứu sống tôi, theo một cách nào đó.
Ừ thì, họ chỉ cứu thoát tôi khỏi cảnh phải làm bồi bàn quần quật suốt phần đời còn lại ở quán Senor Swanky.
Nhưng chà lẽ như thế còn chưa đủ hay sao? Tôi biết điều này chẳng có nghĩa lý gì - rằng Sarah đã buộc tội tôi đã chuyển tình yêu thương vốn dành cho bố mẹ hoặc bồ cũ vào một đống gạch xây từ năm 1859 - nhưng tôi thật sự cảm thấy mình có nghĩa vụ phải chứng minh bằng được, rằng điều đang xảy ra không phải lỗi của Fischer Hall, không phải lỗi của các nhân viên toà nhà đã không nhận thấy những cô gái này đang tuộc dốc, hay gì gì đó - hay những cô gái, những người có vẻ quá thông minh để làm một việc ngu xuẩn như vậy - hay thậm chí là chính toà nhà này đã không đủ ấm cúng nọ kia. Báo trường đã cho đăng một báo cáo "chi tiết" về những nguy hiểm của trò lướt thang máy. Ai mà biết trước được ngày mai nó sẽ đăng những gì?
Thấy chưa. Tôi đã bảo là nghe rất ngu mà lại.
Nhưng đấy chính là cảm giác của tôi.
Nhưng tôi không thể giải thích điều này với Cooper được. tôi biết có cố cũng chẳng ích gì.
"Vì bọn con gái không đời nào lại đi lướt thang máy," cuối cùng tôi chỉ thốt ra được có mỗi câu ấy.
Tôi cứ tưởng Cooper sẽ bỏ đi, như thanh tra Canavan, chẳng nói thêm lời nào, tức giận vì tôi đã làm mất thời gian của anh.
Nhưng thay vào đó, anh chỉ thở dài và nói. "Được rồi. Vậy là ta còn một phòng nữa phải kiểm tra."
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT