“Tớ vẫn cho rằng nó vô nghĩa,” Kate nói. “Nó thực sự không thể xảy ra, đúng không? Ông ta có ý định tẩy não những người chống lại ông ta? Ông ta có cần đưa họ vào Máy Thì Thầm để làm thế không? Còn những người ở các quốc gia khác thì sao?”
Sticky vẫy vẫy một tập sách nhỏ. “Ông ta đã xây dựng hẳn một hệ thống các Viện Mất trí trên toàn thế giới. Có bản đồ ở phía sau cho thấy vị trí của chúng đấy.”
Kate tỏ ý không tin, cau mày tò mò. Cô bé vừa để ý đến cạnh của một khung cửa phía sau những cái bàn gấp đang dựa vào tường.
“Thật khó hiểu, bằng cách nào ông ta làm được nó nhỉ, tuy vậy,” Reynie nói; “Sticky, còn nhớ lúc ông ta bảo bọn mình rằng Máy Thì Thầm sẽ là một ‘thiết bị chữa trị’, nó sẽ mang đến yên bình cho hàng nghìn tâm hồn đang đau khổ-không?”
“Thậm chí là hàng triệu ấy chứ,” Sticky rùng mình nói. “Tớ nhớ.”
Kate chui vào phía sau mấy cái bàn và tìm thấy một bàn phím điện tử.
“Nhưng liệu có thể không? Có quá nhiều người bị tẩy não trong một thời gian quá ngắn? Đó là một chiến dịch lớn - có khi phải mất hàng thế kỷ để chuẩn bị ấy chứ.” Cảm giác lạc quan bùng nổ trong lòng Reynie. “Có lẽ bọn mình gặp may! Có lẽ bọn mình vừa kịp lúc. Nếu không tìm ra ngay làm thế nào...”
“Các cậu?” Kate thò đầu ra từ phía sau mấy cái bàn. “Có một cái cửa ở đằng kia. Các cậu nhìn xem cái gì ở phía bên kia nhé.” Giọng cô bé hoảng hốt, cứ như vừa nhìn thấy một người chết.
Mắt Sticky mở to. Cậu bé lắc đầu. “Tớ không muốn. Reynie, cậu xem thế nào đi và sau đó kể lại nó cho tớ.” Nhưng Reynie đã túm lấy tay Sticky, và cả hai cùng nhau đi đến và nhìn qua cánh cửa.
“Ôi,” Reynie nói.
“Ôi, không,” Sticky nói.
“Đó có phải là cái mà tớ đang nghĩ không?” Kate hỏi. “Chúng giống như những chiếc máy sấy tóc cũ.”
“Tớ e là vậy,” Reynie nói.
Những cái máy xếp thành từng hàng dài - hàng nối hàng rồi lại nối hàng - lấp đầy cả một nhà kho rộng lớn dưới lòng đất. Một hàng chữ được treo khéo léo trên trần nhà: CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI TRẠM KÝ ỨC. Dọc theo một bên tường là hàng trăm thùng gỗ xếp chồng lên nhau. Reynie cong người kiểm tra cái gần nhất. Nó được chất đầy bởi hàng bó giấy và được dán nhãn với một địa chỉ ở Trung Quốc. Thùng hàng cạnh đó mang cùng địa chỉ nhưng chứa đầy các chi tiết máy - bao gồm, cậu để ý, một cái mũ bảo hiểm màu đỏ và một cái màu xanh nước biển.
“Nó thực sự đang diễn ra.” Kate nói. “Tớ không thể tin được.”
“Vậy có gì trong những cái thùng này?” Constance nói.
Chúng quay lại và thấy Constance đang đứng ở ngay cửa ra vào phía sau chúng. “Việc đứng gác có chuyện gì à?” Sticky thét lên.
“Các cậu đi lâu quá!”
Mắt Sticky lồi ra, nhưng Reynie đã kịp cắt ngang trước khi cậu bé bắt đầu lớn tiếng. “Cậu ấy nói đúng đấy. Bọn mình ở trong này quá lâu. Cần rời khỏi đây trước khi quá muộn.”
Dù vậy, khi chúng chạy nhanh ra khỏi Trạm Ký Ức và đi lên lối đi bí mật dài, Reynie không thể ngừng suy nghĩ. “Nhưng quá trễ mất rồi! Quá trễ rồi!”
Đêm đó trời mưa, quảng trường vắng tanh. Khi ánh đèn từ khu rừng phía xa thôi không nhấp nháy nữa, Sticky quay lại từ phía cửa sổ. “Họ muốn bọn mình đợi câu trả lời. Tớ đoán có nhiều thứ phải tính toán cẩn trọng.”
Có nhiều thứ để bất kỳ ai cũng phải suy nhĩ.
Không đứa nào trong bọn trẻ nói một lời. Chỉ lặng im chờ đợi.
Một giờ dài vô tận đã trôi qua. Constance đã ngủ trong khi vẫn ngồi bắt chéo chân, còn Kate nhiều lần yêu cầu chơi trò đấu vật ngón cái với Reynie để giết thời gian. Reynie từ chối. Thậm chí trò đấu vật ngón cái cũng có vẻ vượt quá khả năng của cậu lúc này. Mọi thứ đều vậy. Cậu hy vọng rằng ngài Benedict sẽ tìm ra cách giải cứu chúng - giải cứu mọi người - mà không yêu cầu bất kỳ điều gì từ mình nữa. Reynie chẳng nghĩ ra mình có thể làm được gì nữa, không phải vì Máy Thì Thầm. Cậu lo lắng, cực kỳ lo lắng, rằng Máy Thì Thầm sẽ làm lộ ra thực sự cậu là ai.
Từ cửa sổ Sticky đột nhiên ngồi bật dậy. “Thông điệp này!” Cậu chỉnh lại kính và nhìn chăm chú về phía đất liền. “Biết… kẻ thù... của chúng ta.” Sau một phút Sticky trèo xuống. “Nó đấy. ‘Biết kẻ thù của chúng ta’.”
Kate nhìn Reynie hy vọng. “Tớ không cho là cậu biết ngài ấy muốn nói gì, đúng không? Ngay từ đầu?”
Reynie lắc đầu. “Hoàn toàn không.”
Kate thở dài. “Vậy tớ cho rằng bọn mình sẽ phải gọi Constance dậy. Kể ra cũng thoải mái đấy chứ, khi mà không có ai cau có hay phụng phịu trong vài phút.”
Bọn trẻ đánh thức Constance (cô bé cứ khăng khăng là không phải mình đang ngủ) và chụm đầu vào nhau. Thông điệp đó có thể có ý nghĩa là gì mới được chứ? Không phải họ đã biết ngài Curtain là kẻ thù rồi sao?
“Ít nhất thì tại sao họ lại nói như thế?” Constance thì thầm. “Có vẻ ngu ngốc.” “Một câu nói cũ,” Reynie nói. “Đó là cách nó thường được nói.”
“Ít nhất là trong bản dịch đầu tiên,” Sticky nói. “Ban đầu xuất hiện trong một cuốn sách của Sun Tzu có tên là Nghệ thuật Chiến tranh. Nó nằm ở cuối chương ba.”
Những đứa khác nhìn cậu bé.
“Ừ, đúng vậy,” Sticky nói.
“Tớ nghĩ chúng ta cần nhiều hơn thế.” Kate nói. “Thời gian đang quá gấp mà bọn mình thì không hiểu họ đang nói về cái gì. Yêu cầu đưa ra gợi ý khác đi.”
Những đứa khác đồng ý - vì việc yêu cầu cũng chẳng làm đau ai - nên Sticky quay lại với cái cửa sổ và gửi một thông điệp tiếp theo: Kẻ thù nào? Nhưng lần này cậu bé không nhận được hồi âm. Sticky gửi lại thông điệp thêm một lần nữa, nhưng cũng đành ngậm ngùi chấp nhận sự thật là sẽ không có câu trả lời. Sticky đang định thử lần ba thì Reynie ngăn lại.
“Chắc hẳn phải có lý do để họ không trả lời,” Reynie nói. “Cậu có chắc bờ biển không có ai không?”
Sticky co rúm lại. “Tớ đã không nghĩ về điều đó.” Cậu bé hé nhìn ra ngoài cửa sổ. “Quảng trường trống không... vườn đá cũng vậy... đường bờ biển và cái cầu khó nhìn rõ hơn, nhưng theo những gì tớ thấy thì chúng đều vắng tanh.”
“Để tớ xem,” Kate nói, trèo lên cạnh cậu bé và đảo mắt từ trái sang phải. “Sticky nói đúng, có vẻ như không có ai.” Cô bé lôi cái kính viễn vọng ra và quan sát lại lần nữa. “Không, không ai ở đó - ôi, không!”
Kate nhảy khỏi cửa sổ, và Sticky, do được cảnh báo, cũng nhoài về phía sau, ngã lên người Reynie và Constance - may mắn là cả hai vừa mới kịp che đầu lại đề phòng có thứ gì đó sắp sửa lao vào phòng.
“Xin lỗi!” Kate ngượng ngùng. “Ổn rồi. Tớ đã nghĩ anh ta đang nhìn chằm chằm về phía mình cơ đấy. Nhưng anh ta đang ở quá xa để làm thế, tất nhiên. Kính viễn vọng khiến anh ta trông có vẻ gần hơn.”
Chân tay rã rời, những đứa khác tự động quay về chỗ.
Kate lại nhìn ra cửa sổ lần nữa. “Nhưng mà, đúng là anh ta đang thực sự nhìn về phía này đấy. Ôi, nó làm tớ gai cả người. Có chắc anh ta đang không nhìn về cửa sổ của chúng ta không nhỉ? Ở đây tối kia mà. Chắc anh ta không thể thấy tớ đâu.”
“Cậu đang nói về ai đấy, Kate?” Reynie hồi hộp hỏi.
“Một Tuyển dụng viên. Anh ta đang đứng ngay dưới cái cầu ấy.” Cô bé hạ thấp kính viễn vọng và lia vào chỗ tối đó. “Không ngạc nhiên là Sticky đã không thấy anh ta. Nếu không có kính viễn vọng, trông anh ta chỉ như cái bóng của một trong số những chần cầu thôi.”
“Có thể thông điệp đó là lời cảnh báo,” Constance nói. “Để chúng ta biết có kẻ thù ở ngoài đó đang theo dõi.”
“Nó vô nghĩa, Constance!” Sticky mất bình tĩnh nói “Nếu họ thấy hắn ở đó, họ sẽ không gửi bất cứ thông điệp nào.”
“Cậu mới không có nghĩa,” Constance đáp lại. “Họ đáng lẽ không nên gửi cậu đến đây một chút nào.”
“Ý của cậu là gì? Tớ không biết cậu nghĩ cậu là ai…”
“Bình tĩnh đi nào, hai cậu,” Reynie nói. “Một lần phát thông điệp vừa bắt đầu, các cậu không để ý à? Nó làm bọn mình cáu kỉnh hơn bình thường.”
Đúng như vậy. Mặc dù các thông điệp chưa bao giờ dễ chịu - và hiện trở nên ngày càng thường xuyên mà ngài Curtain đã có một số lần ghi lại - bọn trẻ đang dần quen với chúng. Đôi khi chúng không ngay lập tức nhận ra nguyên nhân chúng đột nhiên cáu kỉnh.
“Không sao,” Constance nói, dù mọi người đều nhận thấy rằng bản thân cô bé chẳng thèm nói lời xin lỗi.
Kate vẫn đang theo dõi tên Tuyển dụng viên. Cô bé bực tức nói, “Tại sao gã đó không rời đi? Hắn không biết chúng ta có thông điệp cần phải nhận à?”
“Có thể hắn biết,” Reynie nghi ngờ, “và đang đợi để đọc nó.”
Sticky gãi đầu. “Cậu thực sự nghĩ vậy? Cậu cho rằng chúng ta đã bị phát hiện? Bây giờ họ đang theo dõi chúng ta?”
“Tớ không biết, nhưng có điều gì đó cực kỳ đáng ngờ khi hắn đang đứng một mình trong bóng tối. Những Tuyển dụng viên không bao giờ đứng một mình cả - họ luôn đi thành nhiều cặp. Và hắn hiển nhiên không muốn bị phát hiện. Thực tế là, từ góc này, chúng ta là những người duy nhất có thể thấy hắn phía dưới… Đợi một phút.”
“Các cậu nghĩ hắn muốn chúng ta nhìn thấy hắn, đúng không?” Kate nói, lại nâng kính viễn vọng của cô bé lên. “Hắn thực sự đang nhìn về hướng này! Cứ đứng đó chẳng hề di chuyển. Và ở đây có điều gì đó kỳ quái mà tớ chưa để ý trước đó. Các cậu nghĩ hắn định làm gì?”
Reynie nghĩ rằng mình biết. “Không phải hắn nhắc cậu nhớ đến ai đấy chứ, Kate?”
“Hắn nhắc tớ... ? Tất nhiên! Tớ không thể tin được là mình lại không nhận ra!” Cô bé gõ nhẹ lên trán. “Đó là Milligan!”
“Milligan đang ở đây?” Sticky thét lên, không thể kìm nén sự phấn khích.
Reynie nhãn nhở. “Đó là điều họ muốn nói thông qua câu ‘Biết Kẻ Thù Của Chúng Ta.’ Và đó là lý do họ đã không trả lời thông điệp thứ hai - họ cần đảm bảo chúng ta đã tìm thấy ông ấy. Sticky, gửi thông điệp với nội dung ‘Đã Biết Kẻ Địch’.”
Sticky gửi thông điệp.
Ngay khi cậu bé vừa gửi xong, ánh đèn trong rừng bắt đầu nháy gửi thông điệp với tốc độ cực nhanh: Đi ngay. Nhanh. Nhanh. Nhanh.
Bọn trẻ nhanh chóng bật dậy, tim chúng đập thật nhanh. Cái gì thế? Chúng bị phát hiện à? Các cậu bé xỏ vội chân vào mấy đôi giày, Kate thu lại sợi dây vẫn đang lơ lửng trên trần nhà, còn Constance trèo lên lưng cô bé. Sticky liếc nhìn lần cuối ra ngoài cửa sổ. “Nó vẫn đang nháy ‘Nhanh!’” - và bọn trẻ bay ra khỏi phòng, xuống hành lang tối đen, lao vào bóng đêm.
Chúng đã nhìn ra cửa sổ đủ nhiều để biết nơi tối nhất ở đâu, và cứ thẳng tiến về nơi tối nhất ấy. Tránh đi qua quảng trường, nơi cực kỳ dễ bị lộ, bọn trẻ lao nhanh như những con mèo dọc theo chân đồi cạnh ký túc xá, mất dạng sau một khoảng đá phiến đá đổ nát, hướng thẳng ra biển. Cuối cùng, sau khi bò xuống một cái dốc đá, cả lũ cũng ra đến bờ biển. Nếu cúi thấp được, chúng sẽ không dễ bị phát hiện, cái dốc sẽ chắn cho bọn trẻ khỏi tầm nhìn từ Học viện. Tiếp tục cúi thấp, và bước cẩn thận trên bờ biển đá, bọn trẻ tiến về phía cây cầu.
Trời đã ngừng mưa, nhưng không khí buổi đêm vẫn lạnh và nhiều gió. Trước khi bọn trẻ đi được nửa đường tới cây cầu, gió bắt đầu thổi mạnh, vị mặn bay vào mũi chúng. Một mùi nước hoa quen thuộc. Chúng dừng lại và nhìn xung quanh, nhưng chẳng thấy gì cả. Sau đó một cái bóng tự tách ra từ dốc đá và có dáng từa tựa - chưa nói là chính xác - của Milligan. Chú ấy chắc chắn có mùi thơm giống như một Tuyển dụng viên, Reynie nghĩ, nhưng vì lý do nào đó cậu thấy vẫn chưa thực sự giống một Tuyển dụng viên cho lắm. Chú Milligan mặc một bộ quần áo vừa vặn, đeo đồng hồ ở cả hai cổ tay, và tóc, dù khá ướt như Kate từng nói, vẫn được chải chuốt kỹ lưỡng. Vậy đó là cái gì?
Nụ cười, Reynie nhận ra. Chú ấy chưa bao giờ ở gần một Tuyển dụng viên, những kẻ rất ít khi cười, và chắc chắc cũng không phải là người lúc nào cũng buồn da diết.
“Chú xin lỗi vì đã không tự mình tìm các cháu,” Milligan nói, “nhưng cách này an toàn hơn. Một Tuyển dụng viên trên bờ biển một mình có thể có hoặc không gây nghi ngờ, nhưng một Tuyển dụng viên ở trong ký túc xá thì gần như là có.”
“Chuyện gì đang diễn ra vậy, chú Milligan?” Kate hỏi.
“Chú phải mang các cháu đi,” Milligan nói.
Bọn trẻ sững sờ.
“Mang đi?” Reynie nhắc lại. “Ý chú là rời khỏi hòn đảo này?” Milligan lấy ra bốn cái áo khoác đen - không ai biết nó được lấy từ đâu- và đưa cho bọn trẻ. “Mặc mấy cái này vào đi và buộc chặt lại. Chúng sẽ giúp che giấu các cháu. Nếu chúng ta gặp rắc rối, hãy ẩn mình và đừng lo lắng nhé. Chú sẽ chết trước khi để các cháu bị bất kỳ tổn thương nào đấy.”
“Đừng lo lắng?” Sticky nói. “Đừng lo? Chú đang nói về cái chết và bảo bọn cháu đừng lo lắng? Chuyện gì đang diễn ra vậy, chú Milligan?”
“Không đủ thời gian giải thích đâu, Sticky. Chú không thể đưa các cháu vào đất liền, nhưng chúng ta phải tìm đường sang phía bên kia hòn đảo, và sẽ đi từ từ thôi.”
“Nhưng tại sao chúng cháu phải đi?” Kate nói.
“Nhiệm vụ của các cháu đã hoàn thành.”
Reynie cảm thấy một áp lực cực lớn được trút khỏi vai. Hoàn thành! Điều đó có nghĩa cậu sẽ khỏng phải làm bài kiểm tra nào nữa! Không còn phải lo lắng làm mọi người thất vọng. Cậu có thể rời hòn đảo này mà không bao giờ phải đối mặt với Máy Thì Thầm nữa. Đúng, đến lúc phải đi rồi. Chỉ cần nghĩ đến việc Máy Thì Thầm nhồi sự mong mỏi vào trong đầu mình cũng đủ khiến cậu muốn chạy đi thật xa rồi.
“Hoàn thành?” Kate nói. Cô bé có vẻ nghi ngờ. “Nó có nghĩa là ngài Benedict đã có kế hoạch đúng không? Ngài ấy nghĩ rằng mình có thể ngăn cản Curtain?”
“Cháu không phải lo lắng về điều đó, Kate,” Milligan nói. “Mặc áo vào đi nào.”
Kate ném áo khoác xuống đất. “Chú chưa trả lời câu hỏi của cháu. Ngài Benedict có cho rằng ngài ấy có thể chặn ngài Curtain hay không?”
Milligan cau mày. “Nó không còn liên quan đến các cháu nữa, Kate. Sự Cải tiến được thực hiện quá kín đáo. Ngài Benedict muốn các cháu tránh xa nơi này, đến một nơi an toàn.”
“Cháu sẽ không nhúc nhích cho đến khi nhận được câu trả lời của chú!” Kate bình tĩnh nói. “Ngài Benedict có thể ngăn cản Cải tiến không? Nói thật cho bọn cháu biết đi ạ!”
Những đứa khác đang cầm áo trong tay, hết nhìn Kate lại quay sang Milligan hoang mang hết mức.
Milligan nhìn ra phía xa, có vẻ không muốn phải trả lời chút nào. Cuối cùng chú Milligan thở dài, “Không, các cháu ạ. Chúng ta không có cách nào ngăn cản. Các cháu sẽ phải rời khỏi đây - tất cả chúng ta đều vậy. Chúng ta cần tiếp tục di chuyển, cố gắng tránh bọn Tuyển dụng viên... nhưng ngài Benedict tin rằng ngài ấy có thể đảm bảo cho các cháu được an toàn, và các cháu có lời hứa của chú rằng chú sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ các cháu. Cố gắng đừng lo lắng nhé. Ngài Benedict sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Chú có thể đảm bảo với các cháu như vậy. Ngài ấy sẽ làm việc không mệt mỏi, và có thể lúc nào đấy sẽ tìm ra cách làm mất tác dụng các thông điệp của ngài Curtain - để làm sạch tâm trí các cháu.”
Kate không quan tâm đến nó. “Còn Constance thì sao?” cô bé hỏi. “Điều gì xảy ra với cậu ấy khi ngài Curtain tăng cường năng lượng hết mức? Cậu ấy đã nghe thấy các âm thanh rồi, chú biết đấy!”
Milligan buồn bã nhìn Constance. “Chú không biết. Chẳng ai biết cả. Chú xin lỗi - các cháu sẽ gặp nguy hiểm cho dù có đi bất cứ đâu.”
Lúc này, Constance ngồi xuống một tảng đá và che mặt. Trông cô có vẻ nhỏ bé hơn bao giờ hết - nhỏ đến mức cơn gió ở bến cảng có thể thổi tung cô bé lên như một tờ giấy và mang cô bé đi xa, xa mãi tận chân trời.
Lúc đó Reynie hiểu rằng chúng không thể rời đi.
Đáng lẽ không cần Kate phải chỉ cho mình biết, cậu nghĩ. Khát vọng giải cứu bản thân đã khiến cậu không nhìn thấy điều này ngay từ đầu, nhưng ít nhất bây giờ cậu đã thấy. Reynie cảm thấy nó từ trong xương tủy, một cảm giác tồi tệ, ngoại trừ việc: Chúng không thể rời đi. Không phải chỉ vì Constance tội nghiệp, mà còn cả chú Bloomburg, và Milligan, và cả nhóm người giúp việc, và tất cả những người mà ngài Curtain có ý định tẩy não trong tương lai, chưa kể đến bản thân cô Perumal nữa. Ngài Benedict sẽ không bao giờ đòi hỏi ở cậu điều này, nhưng cậu phải tự đòi hỏi chính mình.
“Chú Milligan, xin hãy nói với ngài Benedict là cháu cảm ơn ông ấy” Reynie nói. “Nhưng cháu sẽ ở lại.”
Kate khoanh tay trước ngực và nói “Ôi, tớ đã hy vọng cậu sẽ nói vậy, Reynie! Vì tớ cũng ở lại. Chúng ta phải làm như vậy, đúng không?”
Sticky dường như sắp khóc. “Các cậu ở lại? Nhưng... nhưng...” Cậu bé quay lại và nhìn đầy khát khao về phía đất liền. Cậu đã biết họ sẽ nói điều này. Và cậu biết là họ đúng.
“Sticky?” Kate gọi.
“Tớ cho là chúng ta không có nhiều sự lựa chọn,” Sticky nói. “Chúng ta cũng không có nhiều cơ hội. Nhưng chúng ta là những người duy nhất ngài Benedict cần.”
Milligan cố lần nữa, cố để kéo dài thời gian nhưng anh càng ép bọn trẻ, chúng càng tỏ rõ sự cương quyết. Cuối cùng Milligan cũng phải từ bỏ. “Vậy thì chú sẽ gửi các cháu một thông điệp từ ngài Benedict.”
“Một thông điệp?” Constance nói. “Tại sao chú không nói với bọn cháu từ trước?”
“Ngài Benedict có cảm giác các cháu sẽ chọn ở lại. ‘Đó chính xác là bản chất của bọn trẻ,’ ngài ấy nói vậy đấy. Ngài Benedict hy vọng có thể làm các cháu thay đổi quyết định này và mang các cháu đến nơi an toàn. Nhưng nếu các cháu cương quyết từ chối - và chỉ khi đó chú mới được đưa cho các cháu thông điệp này.”
“Vậy nó là cái gì?” Kate hỏi.
“Ngài Benedict cho rằng từng cá nhân các cháu đều cần thiết cho sự thành công của nhóm - lúc này hơn bao giờ hết, các cháu phải dựa vào nhau trong mọi chuyện.” Chú Milligan lấy lại áo khoác từ chỗ bọn trẻ. “Cái nữa,” chú ấy nói, nhét chỗ áo choàng vào bên trong phần chân quần, “các cháu cũng phải tin chú. Cho dù mọi chuyện tiến triển thế nào, chú luôn ở đây để giúp các cháu. Chú sẽ ở trên đảo này. Khi cần thiết, đây sẽ là nơi để liên hệ với chú.”
“Bọn cháu làm thế bằng cách nào?” Reynie hỏi.
Milligan chỉ lại về phía con đường chúng vừa đi qua. “Cách đây không xa là một ống thoát nước cũ đổ vào con kênh. Đó là một cột mốc tốt. Để lưu lại thông điệp, giấu nó ở một nơi khô ráo trong vòng hai mươi bước sau khi vào ống nước, và đặt hai cục đá lên nó. Chú sẽ kiểm tra thường xuyên, và trong lúc đó chú sẽ để mắt đến các cháu trong khả năng tối đa có thể.” Nói đến đó, Milligan quay lưng chuẩn bị đi.
“Đợi một phút,” Kate nói. “Chú không định chúc bọn cháu may mắn à?”
“May mắn?” Milligan nói, mà không quay lại. “Chú vừa chúc các cháu may mắn từ lúc mới gặp các cháu. Thứ chú muốn chúc các cháu bây giờ là một phép lạ.”