Đó là ngày thứ Sáu sau khi Hazel đến, và Reddin phải đi đến một hội chợ giới thiệu ngựa mặc dù gã không muốn đi chút nào. Gã khá ngạc nhiên trước cảm giác buồn vì phải xa Hazel. Từ trước tới giờ gã chưa từng là người tình của bất cứ người đàn bà nào dù là trong cảm thức mơ hồ nhất. Gã chiếm lấy những gì gã muốn từ đàn bà theo kiểu gần giống như động vật. Gã cảm thấy khả năng sinh lý của đàn ông không phải thứ mà gã phải tìm kiếm. Nó sẵn có, và nó phải được thỏa mãn. Giờ đây gã bực mình khi nhận ra rằng gã cảm thấy có lỗi khi nghĩ tới những người đàn bà đó, và bực mình vì lúc nào gã cũng muốn có Hazel chứ không chỉ thỉnh thoảng như những người đàn bà khác. Gã đã quen nói tại các cuộc chè chén của các chủ ấp như thế này:
“Ồ, chết tiệt thật! Các ông muốn làm gì với đàn bà trong khoảng thời gian giữa lúc mặt trời mọc và lúc mặt trời lặn nhỉ?” Sự tục tĩu của gã đã nhận được những tiếng cười và sự quở trách. Giờ đây gã cảm thấy sự quở trách xác đáng hơn là tiếng cười. Cũng thật lạ lùng là không có Hazel ở bên gã cảm thấy mọi thứ đều tẻ nhạt. Hazel luôn có gì đó mới mẻ để nói về tất cả mọi thứ, và những cuộc cãi cọ của họ là những khoảnh khắc sôi nổi nhất mà gã từng biết. Hazel đủ nguyên sơ để trở nên nữ tính, đủ độc đáo để ngây thơ, và đủ bí ẩn để trở nên phấn khích. Như Vessons đã nói với con vịt đực, “Ôi, mày chưa bao giờ thấy ông chủ như thế đâu. Suốt ngày chỉ ‘Azel, ‘Azel, ‘Azel thôi và một người đàn ông tốt trước đây mới chỉ bị hư hỏng phần nào thì giờ đã hỏng hẳn rồi.”
Vessons và Hazel tranh cãi về lũ ong suốt cả buổi chiểu. Khi Reddin đi khỏi nhà, Hazel rũ bỏ vẻ nghiêm trang mới mẻ của nàng và trở lại làm kẻ bằng vai phải lứa với Vessons, bởi vì việc phải làm ra vẻ thế này thế nọ đối với nàng quả là buồn tẻ. Vessons chịu đựng sự có mặt của nàng bởi vì nó cho phép lão đưa ra những lời nhận xét ngọt ngào mà chua cay, nhưng chủ yếu bởi cảm giác thích thú khi lão nhớ tới cái quyết tâm sắp biến thành hành động của mình.
Họ ở trong khu vườn có tường bao, và trong khi Hazel nhắm mắt lim dim, những con ong vụt bay ra bay vào tạo thành những dải màu đen thật dài nối từ cửa tổ ong tới cánh đồng phía xa xa và tới tận đỉnh đồi. Bầy ong chụm lại thành hình nón trên những bức tường thấp lè tè trước mặt, và dông tụ lại trên các lỗ tổ ong theo cái cách náo động không mục đích xảy ra trước quá trình sáng tạo. Nhưng có con ong nào trong số chúng có ý định tạo ra một thành phố mới trong ngày hôm đó hay không thì cũng chẳng ai biết chắc được. Vessons nói rằng không. Hazel, người luôn dành chỗ cho những việc làm táo bạo, nói có, và nàng còn nói rằng nàng có thể nghe thấy tiếng ong chúa ở trong tổ kêu “ziiiiiiii” – rằng tiếng nhạc lạ lùng đó, cũng giống như tiếng te te khó ưa của kèn túi hoặc tiếng vĩ cầm của Ned Pugh, có sức mạnh quyến rũ những sinh vật sống khiến chúng rời bỏ tổ ấm yên ổn đầy mật ngọt để tới một miền không biết tới – ngọt ngào đến bí ẩn làm sao.
“Tôi chẳng nghe thấy gì hết,” Vessons nói một cách bướng bỉnh.
“Nghe đi! Ông điếc rồi, ông Vessons ạ.”
“Tôi điếc ư? Tôi nghe được nhiều như tôi muốn và còn hơn thế. Đúng! Tôi nghe được nhiều hơn tôi muốn!”
“Hừm, vậy thì tại sao ông lại không thể nghe thấy tiếng nhạc đó chứ? Bây giờ ông hãy thử nghe xem nào. Ông có nghe thấy âm thanh mà tôi nói đến không?”
“Tôi có nghe thấy âm thanh đó không ư?” Vessons cất cao giọng như sắp khóc vì tức tối. “Tôi có nghe thấy không ư? Tôi á! Làm cho một nghìn con ong, từng con từng con một, lọt qua cổ chai, giống như cho bò đi vắt sữa á! Tôi á! Có lẽ cô muốn dạy tôi làm người nuôi ong chứ gì?” Lão tiếp tục nói với vẻ mỉa mai chua chát. “Cô thì có! Tôi thì không đời nào!”
Lão bắt đầu rứt những chóp tổ ong.
“Ôi, ông Vessons, đừng cáu!” Hazel sợ rằng cái cảnh bắn chim hôm thứ hai sẽ lặp lại. “Ông dọn những chóp tổ ong thật khéo,” nàng nói thêm, cố gắng giữ lịch sự - “khéo như bố tôi vậy.”
“Cô nên biết rằng,” Vessons nói, “tôi làm còn khéo bằng vạn – phải! Khéo bằng vạn. Ong, bò sữa và những con thiên nga thủy tùng,” lão nói tiếp bằng giọng trầm ngâm, “tôi có thể làm tốt hơn bất cứ người đàn ông có vợ nào. Bởi vì những gì một người đàn ông dồn vào hôn nhân thì tôi dồn cho công việc của tôi. Bây giờ tôi hỏi cô” – lão nhìn nàng với ánh mắt của kẻ cuồng tín – “tôi hỏi cô, liệu có bao giờ một người nuôi ong hay một vị tướng hoặc một vị thuyền trưởng đã kết hôn lại có gì để mà khoe không? Không bao giờ! Hôn nhân giết chết trí tuệ! Tại sao lũ ong lại thông minh? Tại sao vào cuối mùa hè thùng ong lại luôn đầy mật? Bời vì tất cả lũ ong đều là những trinh nữ già!”
“Ong chúa không phải là trinh nữ. Ong chúa đẻ ra những con ong.”
Vessons nhìn nàng trừng trừng trong giây lát; rồi hiểu ra rằng mình đã thua, lão quay gót đi ra cho mấy con bê con ăn. Lão luôn có cách rất khéo để gọi lùa lũ bê con vảo ăn. Lão không có con chó nào; lão luôn mơ có một con chó. Nhưng lão luôn giải quyết ổn thỏa công việc của mình. Trước tiên lão mở cửa chuồng bê, sau đó lão thả mấy con lợn ra; tiếp đến lão xách xô đi ra cánh đồng nơi lũ bê con đang lang thang, và thế là lũ lợn hung tợn, hỗn loạn, luôn mồm rít rống bám theo lão. Lão đi vòng quanh chỗ đám bê con đang chơi, và đám bê con sợ lũ lợn hơn chó cứ thế trốn về nhà. Cái cách tiết kiệm mà hiệu quả này khiến Vessons thích thú và sự yên ả được duy trì và họ lại dọn bữa trà trong không khí thân thiện.
Khi Reddin trở về nhà trong sự đón chào của mùi bánh mì nướng thơm phức và những bím tóc óng mượt được chải và quấn gọn trên đầu Hazel, gã cảm thấy rất hài lòng với bản thân. Gã ngả người thư giãn trên chiếc ghế bành đỏ và choàng tay ôm lấy nàng. Đôi mắt xanh đầy vẻ cứng rắn của gã, cái miệng toát lên vẻ tàn nhẫn của gã, mỉm cười; gã cảm thấy mình có thể làm nên một cuộc hôn nhân thành công, mặc dù tay mục sư (như gã vẫn thường gọi Edward) không thể. Gã thầm nghĩ, đàn bà rất dễ điều khiển. “Chỉ cần cho họ thấy một cách rõ ràng ai là chủ, và thế là mọi chuyện đâu vào đấy cả.” Ở bên gã là Hazel, rạng rỡ, dịu dàng và nhu mì, với tất cả vẻ gai góc bề ngoài đã chuội đi từ hôm Chủ nhật. Tại sao gã lại cư xử một cách lạ lùng như vậy ở Rừng Của Thợ Săn nhỉ?
Ôi, ôi, gã phải quên chuyện đó đi mới được.
Trà nóng chảy xuống cổ họng gã mang lại cảm giác dễ chịu; bánh mì nướng là một sự kháng cự thú vị đối với hàm răng chắc khỏe của gã. Gã cảm thấy hài lòng với cuộc sống. Không nghi ngờ gì, rồi đây Hazel sẽ sinh con. Chuyện đó cũng tốt. Hai sự chiếm hữu bao giờ chẳng tốt hơn một, và gã có dư khả năng tài chính để nuôi những đứa con. Chưa bao giờ gã bỗng tự hỏi liệu Hazel có muốn có con hay không, cũng chưa bao giờ gã thấy tiếc vì những đau đớn đang chờ đợi nàng. Gã cảm thấy mình không ích kỷ chút nào khi nghĩ rằng, “Lúc nàng mang bầu không thể đi lại thoải mái được, thỉnh thoảng mình sẽ ngồi với nàng.” Đối với gã, đó là điều đáng nói. Vào những lúc như thế gã không mảy may nghĩ tới Sally Haggard.
“Tôi có thứ này cho em,” gã nói, cho tay vào túi lấy ra một vật gì đó.
“Ôi! Một con nhím!” Hazel reo lên đầy thích thú.
Reddin giật và xoắn những cái lông gai cho tới khi con nhím bật kêu – một tiếng kêu khẽ, đau đớn, rùng rợn, đáng thương, xưa cũ như tiếng kêu của con bướm đầu lâu, tiếng thét yếu ớt, ma quái như tiếng thét của một phù thủy bị tra tấn. Nỗi đau đớn của nhiều thế kỷ tích tụ lại trong tiếng kêu đó, trong nỗi kinh hoàng đã tồn tại từ lâu của kẻ yếu bị kìm kẹp và bất lực dưới lưỡi dao, và là tiếng kêu phản ánh cái nhìn của những con vật bị mắc bẫy hướng vào kẻ đi săn chất chứa sự thù hận và nỗi khiếp sợ khiến cho những con chim cúc cu trống chạy trong hoảng sợ trước khi cuộc thảm sát xảy ra với đàn chim nhỏ. Hazel biết rõ âm thanh đó. Đó là khẩu lệnh của những đứa bé sợ hãi, là mật khẩu của sự cảm thông tự nhiên đối với thế giới mà nàng thuộc vể.
Trước khi tiếng kêu đó ngừng lặng làm căn phòng im ắng chìm trong nỗi kinh hoảng sợ, nàng lao vào Reddin, không còn là kiểu phục tùng rất đàn bà nữa, mà là một sinh vật tuyệt vọng sẵn sàng xả thân trong các cuộc thập tự chinh, trong cuộc cứu giúp những kẻ yếu.
Trên mái đầu của Reddin, mái đầu mà một phút trước còn rất mượt mà, trên khuôn mặt mà một phút trước còn ôn tồn của gã, những quả đấm từ bàn tay nhỏ bé, cứng rắn của Hazel giội xuống như mưa. Không giống hầu hết những quả đấm của phụ nữ, những quả đấm của nàng không đáng kể, bởi đôi tay nàng là gốc rễ của lòng trắc ẩn, thứ có thể truyền sức mạnh cho đôi bàn tay run rẩy nhất thực hiện những việc phi thường.
Gã chộp được một bàn tay của nàng, nhưng bàn tay còn lại quá lanh lẹ.
“Dừng ngay việc hành hạ con vật đó lại!”
Con nhím lăn lông lốc trên sàn nhà, và con chó săn chạy đến hít ngửi nó. Reddin chộp được bàn tay kía của nàng.
“Cô muốn nói gì hả?” gã hỏi, giọng rất tức giận trong khi tai gã vẫn còn ong ong.
“Hãy để con vật đó được yên! Nó không làm hại gì ông cả. Nhìn kìa! Con chó săn!” nàng hét lên. “Bảo nó ra ngoài đi!”
“Tôi thích xem con chó giết chết con nhím đó đấy.”
Mặt Hazel trắng bệch.
“Ông không được làm thế! Không được, chừng nào tôi còn sống,” nàng nói. “Nó thuộc sự bảo vệ của tôi, và tôi sẽ bảo vệ nó.” Nàng giơ một chân ra đá con chó.
Tâm trạng của Reddin thay đổi. Gã cười phá lên.
“Em còn đáng sợ hơn cả bầy có săn,” gã nói. “Tôi không quan tâm, con vật đó có thể được tự do.”
Gã kéo người nàng xuống, để người nàng ngã trên đầu gối gã và hôn nàng.
“Hãy đuổi con chó ra ngoài đã.”
Khi con chó đã chạy ra ngoài và con nhím – giống như một quả bóng – được hưởng sự bình yên, Hazel lại trở về (như Reddin nghĩ) làm một cô gái biết điều.
Trong lúc xung đột họ đã không nghe thấy tiếng xe ngựa, vậy nên họ giật mình bởi động tác mở hé cửa để lẻn vào nhà rồi lập tức đóng ngay cửa lại của Vessons như thể lão đang đối mặt với một vị chủ nhà bị làm phiền liên tục, và bởi tiếng thì thầm chẳng khẽ khàng chút nào của lão:
“Mấy cô ả nhà Clombers đấy!” Lão thì thầm nghe như thể ý muốn nói, “Một khi ông đã để một người đàn bà vào ở trong nhà thì ông sẽ chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến đâu.”
“Bảo họ rằng tôi bị ốm - ốm không tiếp họ được!” ông chủ của lão nói. “Bảo với họ rằng tôi đang tắm – hoặc sao cũng được miễn là tống khứ được bọn họ!”
Họ nghe thấy tiếng Vessons nói như hát.
“Ông chủ rất xin lỗi, ông ấy bị đau bụng quá không gặp các cô được. Bụng ông chủ cứ trương lên, kinh khủng lắm, kinh khủng lắm, tôi chỉ còn nước cầu cho ông ấy nôn thốc nôn tháo ra!”
Mấy cô gái nhà Clombers sấn đến; chen bật lão ra và bước vào nhà.
“Họ muốn cái quỷ gì nhỉ?” Reddin lầm bầm. Gã đứng dậy với bộ mặt sưng sỉa.
“Tôi nghe nói,” cô chị cả nhà Clomber, người đã đọc thơ Bordello và là người rất láu lỉnh, lên tiếng, “rằng chàng Lochinvar trẻ tuổi đã kiếm cho mình một cô dâu.”
Lời nhận xét đó hoàn toàn đáp ứng được tiêu chuẩn thông thường của cô ta, bởi vì nó không chỉ mang hương vị của thơ ca, mà còn đầy tính châm biếm, bởi cô ta biết Hazel là ai.
“Gì cơ?” Reddin vừa hỏi vừa lắc lắc tay theo cái cách gã thường lắc ở trường đua ngựa.
“Giới thiệu với tôi đi chứ, ông Reddin!” Amelia Clomber nở nụ cười điệu đà. Cô ta cười kiểu đó trông thật khổ sở làm sao; miệng cô ta được tạo ra để thể hiện sự lạnh lùng.
Họ săm soi Hazel, người giờ đây đang co rúm lại trước ánh mắt của họ. Có gì đó trong ánh mắt họ khiến nàng cảm thấy như thể họ là những người đang phán xét nàng, như thể họ biết tất cả những gì xảy ra ở Rừng Của Thợ Săn.
Họ nhìn nàng với vẻ ghê tởm. Họ nghĩ đó là sự ghê tởm dành cho một kẻ tội đồ. Quả thật, sự ghê tởm đó dành cho người đàn bà, người mà chỉ vài tuần sau khi gặp Reddin, đã được gã yêu mến, và đi đến thất bại, mà đối với những người đàn bà khô khan như mấy chị em gái nhà Clomber, là thắng lợi như mơ ước.
Họ đến, như họ đã nói với nhau từ trước và sau chuyến viếng thăm này, để dập lửa trên khúc củi đang cháy. Còn lý do chính của mỗi người – niềm khao khát điên cuồng được trở thành bà chủ của Undern – thì họ tuyệt nhiên không đề cập tới.
Cô cả nhà Clomber đã lên tiếng phản đối chiếc váy bó của Amelia. Bởi vì Amelia có dáng người mà cô cả không có. Cô luôn đỏ mặt khi đọc câu này trong Kinh Thánh, “Em gái ta còn bé, ngực em chưa nở.”
Amelia ý thức được lợi thế của mình khi cô bắt chuyện được với Reddin. Gã thuận theo sự lôi kéo của cô em, bởi vì gã ghét cay ghét đắng cô chị, người hễ mở miệng ra là y như rằng nói, “Ông đã đọc…?”
Bời vì gã chưa bao giờ đọc bất cứ cuốn sách nào, gã nghĩ cô ta hỏi thế là có ý muốn chế nhạo gã.
“Hừm,” cô cả nhà Clomber vừa hỏi Hazel vừa cụp mi xuống như người mù, “tên thời con gái của cô là gì?”
“Woodus.”
“Cô kết hôn ở đâu?”
“Ở Núi Nhỏ.”
“Ở đó có nhà thờ không nhỉ?”
“Có! Nhà thờ của Ed’ard.”
“Edward?”
“Đúng! Anh ấy là mục sư.”
“Cô muốn nói đến cái nhà thờ đó hả. Vậy ra đó là giáo hội của cô. Bây giờ ông Reddin là một giáo dân rồi cơ đấy.”
Reddin trông có vẻ rất khó chịu.
“Vậy sự kiện trọng đại đó diễn ra khi nào thế?”
Trò mèo vờn chuột không thấm vào đâu so với trò mà cô Clomber thực hiện với một kẻ tội đồ.
Lúc này thì Reddin hiểu ra ý định của cô ta. Gã đang rất buồn ngủ, bởi gã đã ở hội chợ cả ngày và đã dùng một bữa trà thịnh soạn, và gã chưa bao giờ chống lại bất kỳ nhu cầu nào của cơ thể. Vậy nên gã cắt ngang lời bình luận của Amelia về cuộc hôn nhân với người-phụ-nữ-thích-hợp sẽ mang lại cảm giác thoải mái cho người đàn ông, và nói:
“Nếu đó là những gì cô muốn thì tôi xin thưa tôi chưa kết hôn.”
“Vậy thì người này là…” Cô cả nhà Clomber thốt lên, cảm thấy rằng giờ đây cô ta đã có được gã.
“Người tôi trông nom,” gã nói thẳng thừng. Gã nghĩ nghe thấy gã nói thế bọn họ sẽ bỏ về. Nhưng họ vẫn ngồi lì ra.Như cô chị cả sau đó đã nói, họ đã có một linh hồn để cứu rỗi. Cả hai người đều biết số phận của người được tham gia vào việc tuyệt vời này thú vi đến mức nào.
“A ha! Ông luôn gọi một cái mai là một cái mai, ông Reddin,” cô cả nhà Clomber vừa nói vừa liếc nhìn Hazel bằng ánh mắt lạnh lùng. “Ông đâu phải là người ăn nói ‘quanh co’ như ông Browning thân mến của chúng ta.”
“Trong lồng ngực của một người phụ nữ đích thực,” Amelia nói vẻ hách dịch, như một người bán cá nói về một con cá, “không có chỗ cho sự trách cứ.”
“Quỷ tha ma bắt người phụ nữ đích thực đi!”
Cô cả nhà Clomber nhận thấy rằng mục đích của ngày hôm nay thế là đã tiêu tan.
Đúng lúc đó Amelia kêu ré lên. Con nhím, được khuyến khích bởi sự tự do, và bởi bóng tối đã bắt đầu thâm nhập vào những căn phòng phía Bắc Undern – nơi mà đêm thường đến sớm – đã bắt đầu bò lung tung. Được bàn chân của Hazel bí mật hướng dẫn, nó bò xuống dưới váy của Amelia và đặt cái đầu tò mò lạnh lẽo của mình lên lớp tất mỏng nơi cổ chân cô ta.
Hazel bật lên một tràng cười giòn tan, và Amelia giờ đây càng căm ghét nàng hơn.
Vessons ở trong bếp lắc đầu.
“Từ khi cô gái đó đến đây mình chưa nghe thấy âm thanh nào giống như thế. Chưa từng!” lão lẩm bẩm.
“Hãy rời bỏ ông ta đi!” cô cả nhà Clomber nói với Hazel khi cô ta bước ra tới ngưỡng cửa. Cô ta định nói thêm “vì tôi”, nhưng rồi kịp chỉnh từ “tôi” thành từ “ông ta”. “Cô đang đẩy ông ta vào vòng tội lỗi đấy,” cô ta nói thêm.
“Tôi á?” Hazel cảm thấy rằng nàng luôn gây ra những điều không hay. Rồi nàng thở dài. “Tôi không thể bỏ ông ấy được.”
“Tại sao không?”
“Ông ấy không để tôi đi.”
Với câu nói hoàn toàn không cố ý đó, nàng đã trả thù chị em nhà Clomber một cách dữ dội nhất; bởi vì những điều nàng nói cứ vang vang bên tai họ suốt cả đêm, và họ biết rằng điều nàng nói là sự thật.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT