Vũ hội hàng năm của Lady Mottram là một sự kiện đông đúc, như mọi khi, nhưng những nhà quan sát của xã hội không thể không nhận thấy rằng Lord và Bridgerton không xuất hiện. Lady Mottram khăng khăng rằng họ đã hứa hẹn sẽ tham dự, và Bổn Tác Giả chỉ có thể suy đoán việc gì đã giữ đôi tân hôn tại nhà...

Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 13 tháng 6 năm 1814

Khuya đêm đó, Anthony đang nằm nghiêng trên giường, ôm lấy vợ anh, đã rúc lưng cô vào ngực anh và hiện đang ngủ rất say.

Đó là một may mắn, anh nghĩ, bởi vì trời đã bắt đầu mưa.

Cô đã cố kéo tấm chăn lên che lấy tai để không thể nghe được tiếng mưa đập vào kính cửa sổ, nhưng cô trong lúc ngủ cũng như lúc thức luôn cựa quậy không yên, và anh không thể kéo tấm chăn lên quá khỏi cổ cô trước khi cô đẩy nó ra.

Anh vẫn chưa thể biết được liệu cơn bão có trở nên dữ dội với sấm chớp hay không, nhưng sức mạnh của cơn mưa đã tăng lên và gió đã nổi lên cho đến khi nó hú xuyên qua màn đêm, đập ầm ầm vào những cành cây nằm ở bên cạnh ngôi nhà.

Bên cạnh anh Kate đang trở nên hơi bồn chồn, và anh làm những âm thanh shhhh khi anh vuốt tóc cô với bàn tay anh. Cơn bão đã không đánh thức cô, nhưng nó chắc chắn là đã xâm nhập vào giấc ngủ của cô. Cô đã bắt đầu lẩm nhẩm trong giấc ngủ, lăn qua lăn lại và xoay chuyển cho đến khi cô cuộn tròn lại một bên, đối mặt với anh.

“Điều gì đã xảy ra khiến em ghét cơn mưa này đến vậy?” Anh thì thầm, vén một lọn tóc ra sau tai cô. Nhưng anh không phán xét cô vì nỗi sợ hãi của cô; anh biết rất rõ những nỗi sợ hãi vô căn cứ và những linh cảm. Sự chắc chắn của anh về cái chết sắp xảy đến, là một ví dụ, đã ám ảnh anh từ khoảnh khắc anh cầm bàn tay mềm oặt của cha anh lên và đặt nó trên bộ ngực bất động của ông.

Nó không phải là thứ anh có thể giải thích được, hay ngay cả thứ gì đó anh có thể hiểu được. Nó chỉ là điều gì đó mà anh biết.

Anh chưa bao giờ sợ cái chết, không thật sự. Ý thức đó đã là một phần của anh từ quá lâu rồi nên anh chỉ đơn giản là chấp nhận nó, cũng như những người đàn ông khác chấp nhận những sự thật làm nên vòng tuần hoàn của sự sống. Mùa xuân nối tiếp mùa đông, và mùa hè sau đó. Đối với anh, cái chết cũng chỉ thôi.

Cho đến bây giờ. Anh đang cố chối bỏ nó, cố đẩy cái ý niệm nhỏ bé đó ra khỏi đầu anh, nhưng cái chết đã bắt đầu thể hiện gương mặt đáng sợ của nó.

Hôn nhân của anh với Kate đã rẽ cuộc đời anh sang một con đường khác, không nhất thiết là anh đã cố gắng thế nào để tự thuyết phục mình rằng anh có thể giới hạn hôn nhân của họ không gì hơn ngoài tình bạn và tình dục.

Anh quan tâm đến cô. Anh quan tâm đến cô quá nhiều. Anh khao khát ở bên cạnh cô khi họ ở cách xa nhau, và anh mơ về cô trong đêm, ngay cả khi anh đang ôm cô trong vòng tay.

Anh không sẵn sàng gọi nó là tình yêu, nhưng nó vẫn khiến anh kinh hãi như thế.

Và bất cứ điều gì đó đang thiêu đốt giữa họ, anh không muốn nó kết thúc.

Điều đó là, tất nhiên, sự trớ trêu tàn bạo nhất của tất cả mọi thứ.

Anthony nhắm mắt lại khi anh thở ra một hơi mệt mỏi và căng thẳng, tự hỏi anh sẽ làm cái quái gì với mối rắc rối đang nằm bên cạnh anh trên giường này đây. Nhưng ngay cả khi đôi mắt anh đang nhắm, anh thấy một ánh chớp thắp sáng đêm đen, chuyển màu đen sau mí mắt anh thành một màu cam đỏ như máu.

Mở mắt ra, anh thấy rằng họ đã để những tấm rèm hé mở khi họ đi ngủ trước đó vào buổi tối. Anh phải đóng chúng lại; chúng sẽ giúp giữ cho ánh chớp không thắp sáng căn phòng.

Nhưng khi anh di chuyển và thử trượt ra khỏi tấm chăn, Kate chụp lấy cánh tay anh, nhưng ngón tay cô bấu điên cuồng vào những thớ thịt của anh.

“Shhh, nào, ổn rồi mà,” anh thì thầm, “anh chỉ đi đóng rèm lại thôi.”

Nhưng cô không nới lỏng tay, và khi một tiếng sấm rung chuyển màn đêm, tiếng rên rỉ thoát ra từ môi cô gần như làm tan vỡ trái tim anh.

Một ánh trăng bạc mờ áo rọi xuyên qua kính cửa sổ, chỉ đủ để chiếu sáng những đường nét căng thẳng trên gương mặt cô. Anthony nhìn xuống để chắc chắn là cô vẫn đang ngủ, rồi gỡ hai bàn tay cô ra khỏi cánh tay anh và đứng lên để khép rèm lại. Anh cho rằng những ánh chớp sẽ vẫn nhìn thấy được từ trong phòng, cho nên khi anh đã khép rèm xong, anh thắp một ngọn nến lên và đặt nó trên cái bàn đầu giường của anh. Nó không quá nhiều ánh sáng đủ để đánh thức cô - ít nhất thì anh hy vọng như thế - nhưng cũng giúp căn phòng thoát khỏi vẻ tăm tối hoàn toàn.

Và chẳng có gì khiến người ta giật mình hơn là một ánh chớp cắt ngang qua bóng đêm.

Anh chui lại vào giường và ngắm Kate. Cô vẫn đang ngủ, nhưng không theo một cách bình yên. Cô cuộn tròn lại trong tư thế của một bào thai và hơi thở cô khó khăn. Ánh chớp không có vẻ làm phiền cô nhiều, nhưng mỗi khi căn phòng rung lên với tiếng sấm thì cô rúm lại.

Anh cầm lấy bàn tay cô và vuốt tóc cô, và trong vài phút anh chỉ nằm với cô, cố gắng an ủi cô khi cô ngủ. Nhưng cơn bão đang trở nên mạnh hơn, với sấm chớp gần như liên tiếp nhau. Kate đang trở nên bồn chồn hơn với từng giây, và rồi, khi một tiếng sấm gầm quá to nổ ra trong không trung, đôi mắt cô bừng mở to, gương mặt cô là sự sợ hãi tột độ.

“Kate?” Anthony thì thầm.

Cô ngồi lên, thụt lùi ra sau cho đến khi xương sống cô ép vào đầu giường vững chãi. Cô trông như một bức tượng đài của sự kinh hãi, cả người cô cứng ngắt và đóng băng tại chỗ. Đôi mắt cô vẫn mở to, chỉ hơi nhấp nháy, và mặc dù cô không di chuyển đầu, chúng quét ánh nhìn bấn loạn xung quanh cô, xem xét cả căn phòng, nhưng không thấy bất cứ thứ gì.

“Ôi, Kate.” Anh thì thầm. Việc này còn tệ hơn rất, rất nhiều so với những gì cô đã trải qua vào đêm trong thư viện ở Aubrey Hall. Và anh có thể cảm thấy sức mạnh nỗi đau của cô cứa xuyên qua tim anh.

Lẽ ra không một ai phải cảm thấy nỗi sợ hãi như thế này. Và nhất là vợ anh.

Di chuyển chậm chạp, để không làm cô giật mình, anh đến bên cô, cẩn thận đặt một cánh tay qua hai vai cô. Cô đang run rẩy dữ dội, nhưng cô không đẩy anh ra.

“Liệu em có còn nhớ bất cứ thứ gì của việc này vào buổi sáng không?” Anh thì thầm.

Cô không trả lời, nhưng anh cũng không trông chờ cô làm thế.

“Nào, nào,” Anh nói dịu dàng, cố gắng nhớ lại những từ ngữ mẹ anh dùng để an ủi mỗi khi con bà gặp ác mộng. “Giờ thì tốt rồi. Em sẽ ổn thôi.”

Những cơn run rẩy của cô hơi chậm lại, nhưng cô rõ ràng vẫn bị bối rối, và khi tiếng sấm tiếp theo rền vang căn phòng, cả người cô rúm lại, và cô vùi mặt vào cổ.

“Không.” Cô rên rỉ. “Không, không.”

“Kate?” Anthony chớp mắt liên hồi, rồi nhìn vào cô thật chăm chú. Cô nghe rất khác, không tỉnh ngủ nhưng lại sáng suốt, nếu điều đó là có thể.

“Không, không.”

Và cô nghe rất...

“Không, không, đừng đi.”

... nhỏ.

“Kate?” Anh ôm cô thật chặt, không chắc nên làm gì. Anh có nên đánh thức cô? Đôi mắt cô có thể đang mở, nhưng cô rõ ràng là đang ngủ và nằm mơ. Một phần của anh muốn đánh thức cô khỏi cơn ác mộng, nhưng một khi cô thức, cô vẫn ở đúng nơi này - trên giường vào giữa một cơn bão sấm chớp kinh khủng. Liệu cô có cảm thấy khá hơn không?

Hay anh nên để cô ngủ? Có lẽ nếu cô bộc lộ cơn ác mộng này anh có thể hiểu được một ít về những gì đã gây ra nỗi sợ hãi của cô.

“Kate?” Anh thì thầm, như thể cô thật sự có thể gợi ý cho anh cách nào để tiếp tục.

“Không.” Cô rên rỉ, trở nên kích động hơn với mỗi giây. “Khôôôôông.”

Anthony ấn môi anh vào thái dương cô, cố gắng an ủi cô với sự có mặt của anh.

“Không, làm ơn...” Cô đã bắt đầu khóc, cả người cô co giật với những tiếng thở gấp gáp thật lớn khi những giọt nước mắt của cô thấm ướt vai anh. “Không, không, không... Mama!”

Anthony cứng người lại. Anh biết Kate luôn luôn gọi mẹ kế cô là Mary. Có lẽ cô đang thật sự nói về mẹ ruột của cô, người phụ nữ đã ban cho cô cuộc sống và đã mất từ nhiều năm trước?

Nhưng khi anh còn đang xem xét điều đó, cả người Kate cứng lại và cô bật lên một tiếng thét cao và chói tai.

Tiếng thét của một cô bé con.

Trong một chốc, cô xoay người, và rồi cô nhảy xổ vào vòng tay anh, chộp lấy anh, bấu vào hai vai anh với một sự tuyệt vọng kinh hãi. “Không, Mama.” Cô khóc ré lên, cả người cô run bần bật vì những tiếng thét của cô. “Không, mẹ không thể đi được! Ôi, Mama Mama Mama Mama Mama Mama...”

Nếu Anthony đã không ngồi ngay đầu giường, cô có lẽ đã tung anh bật ngửa ra, sức mạnh cơn sốt của cô mạnh đến thế.

“Kate?” Anh thốt ra, ngạc nhiên bởi âm vực của sự kinh hãi trong giọng anh. “Kate? Ổn rồi mà. Em ổn rồi. Sẽ tốt đẹp thôi. Không có ai sẽ đi đâu cả. Em có nghe anh nói không? Không ai cả.”

Nhưng những lời của cô tan biến đi, và tất cả những gì còn lại là tiếng khóc nho nhỏ đến từ sâu thẳm trong tâm hồn cô. Anthony ôm cô, và rồi khi cô đã yên lặng hơn, anh đặt cô nằm xuống cho đến khi cô lại nằm nghiêng một bên, và rồi anh ôm cô thêm một lát nữa, cho đến khi cô rơi vào giấc ngủ.

Mà, anh nhận ra một cách mỉa mai, đúng ngay vào lúc tiếng sấm và chớp cuối cùng xé tan màn đêm lùa vào căn phòng.

Khi Kate thức dậy vào buổi sáng hôm sau, cô ngạc nhiên khi thấy chồng cô đang ngồi trên giường, nhìn chăm chăm xuống cô với một vẻ lạ lùng nhất... một vẻ lẫn lộn giữa lo lắng, và hiếu kì, và có lẽ có một tí thương hại trong đó. Anh không nói gì khi cô mở mắt ra, ngay cả khi cô có thể thấy rằng anh đang quan sát gương mặt cô chăm chú. Cô đợi, để xem anh sẽ làm gì, nhưng cuối cùng cô nói, hơi ngập ngừng, “Anh trông mệt mỏi.”

“Anh không ngủ ngon giấc.” Anh thừa nhận.

“Anh đã không?”

Anh lắc đầu. “Trời đã mưa.”

“Trời mưa?”

Anh gật đầu. “Và có sấm.”

Cô nuốt xuống căng thẳng. “Và có chớp nữa, em nghĩ vậy.”

“Có.” Anh nói, gật đầu lần nữa. “Nó là một cơn bão.”

Có điều gì đó rất sâu sắc trong cái cách anh đang nói những câu ngắn gọn, điều gì đó khiến cho lông ở sau gáy cô dựng đứng lên. “V-vậy thì thật là may mắn vì em đã bỏ lỡ nó.” Cô nói. “ Anh biết em không chịu được những cơn bão lớn mà.”

“Anh biết.” Anh nói đơn giản.

Nhưng có một ý nghĩa sâu xa trong những từ đó, và Kate cảm thấy nhịp tim cô tăng lên. “Anh Anthony,” cô hỏi, không chắc là cô muốn biết câu trả lời, “chuyện gì đã xảy ra tối qua?”

“Em có một cơn ác mộng.”

Cô nhắm mắt lại trong một giây. “Vậy mà em nghĩ là em đã vượt qua chúng từ lâu rồi.”

“Anh đã không nhận ra em đã từng phải trải qua những cơn ác mộng.

Kate thở một hơi dài và ngồi lên, kéo chăn lên theo cô và nhét nó vào dưới cánh tay cô. “Khi em còn nhỏ. Bất cứ khi nào có bão, em được nói lại như vậy. Em không biết sự thật; em chưa bao giờ nhớ được bất cứ thứ gì. Em đã nghĩ là em - ” cô phải ngừng lại một lúc; cổ họng cô cảm giác như bị đóng lại, và những lời của cô dường như đang khiến cô ngộp thở.

Anh đưa tay ra và nắm lấy tay cô. Nó là một hành động giản dị, nhưng nó lại chạm đến trái tim cô hơn bất cứ từ ngữ nào có thể làm được. “Kate?” Anh hỏi ôn tồn. “Em có ổn không?”

Cô gật đầu. “Em nghĩ là em đã ngừng gặp ác mộng rồi thôi.”

Anh không nói gì trong một lúc, và cả căn phòng trở nên quá yên lặng đến mức Kate chắc là cô có thể nghe được cả tiếng tim đập của cả người hai họ. Cuối cùng, cô nghe một tiếng hít sâu qua môi Anthony, và anh hỏi, “Em có biết là em nói trong giấc ngủ không?”

Cô không đang đối mặt với anh, nhưng với lời nói đó, đầu cô ngước lên đột ngột về bên phải, đôi mắt cô bắt gặp mắt anh. “Em có à?”

“Em đã làm thế vào tối qua.”

Những ngón tay cô nắm chặt vải trải giường. “Em đã nói gì?”

Anh ngập ngừng, nhưng khi những lời của anh bật ra, chúng vững chắc và rõ ràng. “Em đã gọi mẹ em.”

“Mary?” Cô thì thầm.

Anh lắc đầu. “Anh không nghĩ thế. Anh chưa bao giờ nghe em gọi Mary là bất cứ gì khác ngoài Mary; đêm qua em đang khóc vì ‘Mama’. Em nghe như...” Anh ngừng lại và hít một hơi đứt quãng. “Em nghe như một đứa trẻ.”

Kate liếm môi, rồi gặm môi dưới. “Em không biết phải nói với anh điều gì.” Cuối cùng cô nói, sợ phải khơi vào ký ức sâu kín nhất của cô

"Anh nghĩ,” anh nói dịu dàng, “rằng em nên hỏi Mary.”

Kate ngay lập tức lắc đầu. “Em còn không biết Mary khi mẹ em mất. Kể cả cha em cũng không biết. Người chắc là không biết tại sao em lại gọi mẹ em.”

“Cha em có lẽ đã kể cho bà điều gì đó.” Anh nói, nâng tay cô lên môi anh và đặt một nụ hôn dỗ dành lên đó.

Kate để cho ánh mắt cô rơi vào lòng mình. Cô muốn biết tại sao cô lại sợ những cơn bão đến vậy, nhưng đào sâu vào nỗi sợ hãi sâu kín nhất của một người cũng gần như đáng sợ như chính nỗi sợ hãi đó vậy.

Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô khám phá ra điều gì đó mà cô không muốn biết? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu -

“Anh sẽ đi với em.” Anthony nói, ngắt ngang dòng suy nghĩ của cô.

Và bằng cách nào đó điều này khiến mọi chuyển đều ổn.

Kate nhìn vào anh và gật đầu, mắt cô ngấn nước. “Cảm ơn anh.” Cô thì thầm. “Cảm ơn anh rất nhiều.”

* * *

Ngày hôm đó, cả hai người họ đi bộ lên những bậc thềm ngôi nhà nhỏ của Mary. Người quản gia đã dẫn họ vào phòng khách, và Kate ngồi trên ghế sofa xanh dương quen thuộc trong khi Anthony đi đến bên cửa sổ, nghiêng người trên khung cửa và nhìn ra ngoài.

“Anh thấy điều gì khiến anh quan tâm à?” Cô hỏi.

Anh lắc đầu, mỉm cười ngượng ngùng khi anh xoay lại đối diện với cô. “Anh chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ thôi.”

Kate nghĩ có một điều gì thật ngọt ngào kinh khủng về việc đó, mặc dù cô không thật sự nắm bắt được đó là gì. Mỗi ngày lại có vẻ bộc lộ một thói quen nhỏ trong tính cách của anh, một vài thói quen đáng yêu duy nhất buột họ lại còn gần hơn nữa vào nhau. Cô thích biết được những điều kỳ lạ nhỏ nhặt về anh, như việc anh luôn luôn vỗ gối phồng lên gấp đôi trước khi đi ngủ, hay việc anh ghét mứt cam nhưng lại yêu thích mứt chanh.

“Em trông có vẻ hướng nội.”

Kate giật mình chú ý. Anthony đang nhìn chằm chằm vào cô hơi trêu chọc. “Em như đã ngủ gục,” anh nói với một vẻ mặt thích thú, “và em có một nụ cười mơ mộng nhất ở trên mặt.”

Cô lắc đầu, đỏ mặt và làu bàu. “Chẳng có gì đâu.”

Cái khịt mũi trả lời của anh đầy ngờ vực, và khi anh đi tới ghế sofa, anh nói, “Anh sẽ đưa cho em một trăm bảng cho những suy nghĩ đó.”

Kate được cứu khỏi phải trả lời khi Mary đi vào. “Kate!” Mary thốt lên. “Một ngạc nhiên thú vị. Và Lord Bridgerton, thật là tuyệt được gặp cả hai.”

“Mẹ thật sự nên gọi con là Anthony.” Anh nói hơi cộc cằn.

Mary mỉm cười khi anh nắm lấy tay bà chào hỏi. “Ta nên nhớ để làm thế.” Bà nói. Bà ngồi xuống đối diện Kate, rồi chờ cho Anthony ngồi xuống trên ghế sofa trước khi nói, “Edwina đã ra ngoài rồi, ta e là thế. Cái anh chàng Bagwell của nó đã bất ngờ đến thành phố. Họ đã đi dạo bộ ở công viên rồi.”

“Chúng ta nên trao Newton cho họ.” Anthony nói ân cần. “Một người hộ tống năng lực nhất mà cháu có thể tưởng tượng được.”

“Chúng con thật ra đến đây để gặp người, Mary.” Kate nói. Giọng Kate có một âm vực nghiêm túc không như thường lệ, và Mary trả lời ngay lập tức. “Có chuyện gì?” Bà hỏi, đôi mắt bà hết quay sang Kate đến Anthony. “Mọi chuyện vẫn ổn chứ?”

Kate gật đầu, nuốt xuống khi cô tìm những lời chính xác để nói. Thật buồn cười làm sao cô đã lặp lại những gì phải hỏi vào sáng nay, nhưng giờ cô lại không nói được. Nhưng rồi cô cảm thấy bàn tay Anthony đặt lên tay cô, sức nặng và sự ấm áp của nó có khả năng an ủi kỳ lạ, và cô nhìn lên với Mary, “Con muốn hỏi người về mẹ của con.”

Mary trông hơi giật mình, nhưng bà nói, “Tất nhiên. Nhưng con biết là ta không biết về mẹ con qua kinh nghiệm bản thân. Ta chỉ biết những gì cha con nói với ta về bà ấy.”

Kate gật đầu. “Con biết. Và người có lẽ không có câu trả lời cho mọi câu hỏi của con, nhưng con không biết hỏi ai khác cả.”

Mary cựa quậy trên chỗ ngồi của bà, đôi tay bà nắm lại vững chắc trong lòng. Nhưng Kate nhận thấy những đốt ngón tay bà đã chuyển thành màu trắng.

“Được thôi.” Mary nói. “Con muốn biết gì nào? Con biết là ta sẽ nói với con bất cứ thứ gì ta biết.”

Kate lại gật đầu và nuốt xuống, miệng cô đã trở nên khô khốc. “Bà mất như thế nào vậy Mary?”

Mary chớp mắt, rồi hơi sụm xuống, có lẽ là với sự nhẹ nhõm. “Nhưng con đã biết điều đó rồi. Đó là do bệnh dịch. Hay một kiểu lao phổi nào đó. Những vị bác sĩ chưa bao giờ chắc chắn cả.”

“Con biết, nhưng...” Kate nhìn sang Anthony, người đang gật đầu trấn an cô. Cô hít sâu vào và thở ra. “Con vẫn còn sợ những cơn bão, Mary. Con muốn biết tại sao. Con không muốn phải sợ hãi thêm nữa.”

Môi Mary hé mở, nhưng bà im lặng trong nhiều giây khi bà nhìn chằm chằm vào con gái kế của bà. Da bà dần dần trở nên tái đi, một màu kỳ lạ, trong mờ, và đôi mắt bà như bị ám ảnh. “Ta đã không nhận ra.” Bà thì thầm. “Ta đã không biết con vẫn còn -”

“Con giấu nó kĩ.” Kate nói nhẹ nhàng.

Mary đưa tay lên và chạm vào thái dương bà, đôi tay bà run rẩy. “Nếu ta mà biết, ta đã...” Những ngón tay bà di chuyển đến trán, vuốt qua những nếp nhăn lo lắng khi bà tìm lời. “Chà, ta không biết ta sẽ làm gì. Nói với con, ta nghĩ vậy.”

Tim Kate ngừng đập. “Nói với con cái gì?”

Mary thở ra một hơi dài, cả hai bàn tay b giờ đã ở trên mặt bà, ấn vào đường viền trên của hốc mắt. Bà nhìn như thể bà có một cơn nhức đầu khủng khiếp, gánh nặng của thế giới gõ vào sọ bà, từ trong ra ngoài.

“Ta chỉ muốn con biết,” bà nói trong một giọng bị nghẹt lại, “rằng ta đã không nói với con bởi vì ta đã nghĩ con không nhớ. Và nếu con không nhớ, thì, thật là không đúng khi bắt con phải nhớ.”

Bà nhìn lên, và có nước mắt lăn trên gương mặt bà.

“Nhưng rõ ràng là con có nhớ,” bà thì thầm, “nếu không thì con đã không sợ hãi đến thế. Ôi, Kate. Ta rất xin lỗi.”

“Con chắc là mẹ không có gì để phải xin lỗi cả.” Anthony nói nhẹ nhàng.

Mary nhìn sang anh, đôi mắt bà trong một lúc đầy ngạc nhiên, như thể bà đã quên mất là anh có ở trong phòng. “Ồ, nhưng có chứ.” Bà nói buồn bã. “Ta đã không biết Kate vẫn còn phải chịu đựng từ những nỗi sợ hãi của nó. Ta phải nên biết. Đó là điều mà một người mẹ phải cảm nhận được. Ta có thể không phải là người đã không ban cho con bé cuộc sống, nhưng ta đã cố để trở thành một người mẹ thật sự của nó -”

“Người đã làm được.” Kate nói sốt sắng. “Người mẹ tuyệt vời nhất.”

Mary quay sang cô, giữ yên lặng trong vài giây trước khi nói, trong một giọng khách quan kỳ lạ, “Con được ba tuổi thì mẹ con mất. Thật ra, đó là ngày sinh nhật của con.”

Kate gật đầu, mê mải.

“Khi ta kết hôn với cha con ta đã lập ba lời thề. Là lời thờ ta dành cho cha con, trước Chúa trời và những người chứng kiến, trở thành vợ ông ấy. Nhưng trong trái tim ta ta đã lập hai lời nguyện khác. Một là cho con, Kate. Ta nhìn vào con, thật lạc lõng và mất mát với đôi mắt nâu to tròn đó - và chúng rất buồn bã, ôi, chúng rất buồn bã, đôi mắt mà không một đứa trẻ nào nên có - và ta thề ta sẽ yêu con như chính con ruột của ta, và nuôi dạy con với tất cả những gì ta có trong con người ta.”

Bà ngừng lại để lau mắt, lấy cái khăn tay Anthony đưa cho một cách biết ơn. Khi bà nói tiếp, giọng bà chỉ là tiếng thì thầm. “Lời thề khác ta lập dành cho mẹ con. Ta đã đi thăm mộ bà, con biết đấy.”

Cái gật đầu của Kate được theo sau bởi một nụ cười bâng khuâng. “Con biết. Con đã đi với người trong vài dịp.”

Mary lắc đầu. “Không. Ý ta là trước khi ta lấy cha con. Ta đã quỳ ở đó, và đó là lúc ta lập lời nguyện thứ ba. Bà ấy đã là một người mẹ tốt đối với con; mọi người đều nói vậy, và bất cứ kẻ ngốc nào cũng có thể thấy rằng con nhớ bà ấy với tất cả trái tim. Cho nên ta hứa với bà ấy tất cả những điều ta hứa với con, là một người mẹ tốt, yêu thương và chăm sóc con như con đẻ của ta.” Bà ngước đầu lên, và đôi mắt bà hoàn toàn rõ ràng và thẳng thắn khi bà nói. “Và ta thích nghĩ là ta đã đem lại cho bà ấy một chút bình yên. Ta không nghĩ là có người mẹ nào có thể chết thanh thản trong khi để lại một đứa con còn nhỏ dại như thế.”

“Ôi, Mary.” Kate thì thầm.

Mary nhìn vào cô và mỉm cười buồn bã, rồi quay sang Anthony. “Và điều đó, thưa ngài, là lý do vì sao ta thấy hối lỗi. Ta phải nên biết, phải nên thấy rằng con bé đau khổ.”

“Nhưng Mary,” Kate phản đối, “con đã không muốn người thấy. Con đã trốn trong phòng, dưới gầm giường, trong tủ quần áo. Bất cứ đâu để người không thấy.”

“Nhưng tại sao, bé con?”

Kate hít vào giấu một giọt nước mắt. “Con không biết. Con không muốn người lo lắng, con nghĩ vậy. Hay có lẽ con chỉ sợ tỏ ra yêu đuối.”

“Con lúc nào cũng cố gắng tỏ ra mạnh mẽ.” Mary thì thầm. “Ngay cả khi con chỉ là một đứa trẻ.”

Anthony cầm lấy bàn tay Kate, nhưng anh nhìn qua Mary. “Cô ấy mạnh mẽ. Và mẹ cũng thế.”

Mary nhìn ngắm gương mặt Kate trong một phút dài, đôi mắt bà buồn và luyến tiếc quá khứ, và rồi, trong một giọng nhỏ đều đều, bà nói, “Khi mẹ con mất, việc đó là... Ta đã không ở đó, nhưng khi ta lấy cha con, ông ấy đã kể toàn bộ cho ta nghe. Ông ấy biết ta đã yêu thương con rồi, và ông nghĩ nóp ta hiểu con hơn.”

“Cái chết của mẹ con diễn ra rất nhanh. Theo như cha con, thì bà ngã bệnh vào Thứ Năm và chết vào Thứ Ba. Và trời mưa suốt khoảng thời gian đó. Đó là một trong những cơn bão tồi tệ không bao giờ dứt, đập ầm ầm không thương tiếc vào nền đất cho đến khi những con sông dâng lên và những con đường không thể sử dụng được nữa.

“Ông ấy nói ông chắc là bà sẽ khá hơn nếu cơn mưa ngừng lại. Điều đó thật ngu ngốc, ông ấy biết, nhưng mỗi buổi tối ông đi ngủ và cầu nguyện mặt trời ló ra khỏi những đám mây. Cầu nguyện cho bất cứ thứ gì có thể mang lại cho ông một tia hy vọng.”

“Ôi, Papa.” Kate thì thầm, những lời đó trượt ra khỏi môi cô.

“Con bị bắt phải ở trong nhà, tất nhiên, điều mà rõ ràng là làm con khổ sở không ngớt.” Mary nhìn lên và mỉm cười với Kate, kiểu nụ cười nói lên nhiều năm kỉ niệm. “Con luôn yêu thích được ra ngoài trời. Cha con đã nói với ta rằng mẹ con thường đưa xe nôi của con ra ngoài trời và ru con trong không khí trong lành.”

“Con đã không biết điều đó.” Kate thì thầm.

Mary gật đầu, rồi tiếp tục câu chuyện. “Con đã không nhận ra mẹ con đã bị bệnh ngay lập tức. Họ giữ con cách xa bà ấy, sợ con bị lây nhiễm. Nhưng ngay cả như vậy con nhất định cũng đã cảm thấy có điều gì đó không ổn. Trẻ con thường luôn như thế.”

“Vào đêm bà chết cơn mưa trở nên tồi tệ hơn, và ta đã được bảo là sấm chớp đêm đó rất đáng sợ mà chưa có ai từng được thấy.” Bà ngừng lại, rồi hơi nghiêng đầu qua một bên khi bà hỏi. “Con có nhớ cái cây già gầy gò trong khu vườn phía sau nhà không - cái cây mà con và Edwina thường leo lên ấy?”

“Cái cây bị chẻ làm đôi đó sao?” Kate thì thầm.

Mary gật đầu. “Nó xảy ra vào đêm đó. Cha con nói đó là âm thanh khủng khiếp nhất mà ông từng nghe. Sấm chớp đến liên tiếp nhau, và một tia sét đã chẻ đôi cái cây ấy vào đúng lúc sấm rền khắp mặt đất.”

“Ta nghĩ rằng con đã không thể ngủ được.” Bà nói tiếp. “Ta còn nhớ cơn bão đó, ngay cả khi ta tỉnh lân cận. Ta không biết làm sao mà bất cứ ai có thể ngủ được với cơn bão đó. Cha con ở cùng với mẹ con. Bà đang hấp hối, và mọi người biết điều đó, và trong nỗi đau đớn họ đã quên mất con. Họ đã rất cẩn trọng giữ con ở ngoài, nhưng vào đêm đó, sự chú ý của họ đã để ở đâu đó khác.”

“Cha con nói với ta rằng ông đang ngồi bên cạnh mẹ con, cố gắng nắm lấy tay bà khi bà qua đời. Đó không phải là một cái chết nhẹ nhàng, ta e là thế. Những căn bệnh lao phổi thường như thế.” Mary nhìn lên. “Mẹ ta đã chết cũng vì căn bệnh đó. Ta biết. Kết thúc không hề yên bình. Bà hấp hối, nghẹn thở ngay trước mắt ta.”

Mary nuốt xuống run rẩy, rồi dán chặt mắt bà vào mắt Kate. “Ta chỉ có thể đoán,” bà thì thầm, “rằng con đã chứng kiến điều tương tự.”

Bàn tay Anthony nắm tay Kate chặt hơn.

"Nhưng trong khi ta đã hai mươi lăm tuổi vào lúc mẹ ta chết,” Mary nói, “thì con chỉ mới có ba. Nó không phải loại chuyện mà trẻ con nên thấy. Họ đã cố khiến cho con bỏ đi, nhưng con đã không làm vậy. Con cắn và cào cấu và thét và thét và thét, và rồi -”

Mary ngừng lại, nghẹn lời. Bà nâng cái khăn tay Anthony đã đưa cho bà lên, và một khoảng thời gian dài trôi qua trước khi bà có thể nói tiếp.

“Mẹ con đang gần kề với cái chết.” Bà nói, giọng bà thấp đến nỗi nó gần như chỉ là một tiếng thì thầm. “Và vừa lúc họ tìm được một người đủ khỏe để đem đứa trẻ kích động như thế ra khỏi phòng, một ánh chớp cắt qua căn phòng. Cha con đã nói -”

Mary ngừng lại và nuốt xuống. “Cha con đã nói với ta những việc xảy ra tiếp theo là khoảnh khắc ma quái và kinh khủng nhất mà ông từng chứng kiến. Tia sét - nó thắp sáng căn phòng như ban ngày. Và ánh sáng lóe của nó không tắt trong một giây như nó phải như thế; nó gần như đóng băng trong không trung. Ông ấy nhìn vào con, và con như đông cứng lại. Ta sẽ không bao giờ quên cái cách ông ấy tả về nó. Ông nói con trông như một bức tượng nhỏ.”

Anthony giật người.

“Chuyện gì thế?” Kate hỏi,

Anh lắc đầu vẻ khó tin. “Đêm qua em trông đúng như thế.” Anh nói. “Một cách chính xác. Anh đã nghĩ đến đúng những từ đó.”

“Em...” Kate nhìn từ Anthony sang Mary. Nhưng cô không biết phải nói gì.

Anthony siết tay cô một lần nữa khi an quay sang Mary và giục. “ Xin mẹ nói tiếp đi.”

Bà gật đầu. “Đôi mắt con dán chặt vào mẹ con, và vì thế nên cha con quay sang để nhìn thấy điều gì đã khiến con kinh hãi đến thế, và đó là lúc ông ấy... lúc ông ấy thấy...”

Kate dịu dàng gỡ tay ra khỏi tay Anthony và đi đến ngồi cạnh Mary, kéo ra một ghế nệm dài ngay sát bên cạnh ghế bà. Cô nắm lấy hai bàn tay của Mary trong cả hai tay cô. “Ổn mà, Mary.” Cô thì thầm. “Người có thể nói cho con biết mà. Con cần phải biết.”

Mary gật đầu. “Đó là khoảnh khắc cái chết đến với bà ấy. Bà ngồi thẳng dậy. Cha con đã nói bà ấy đã không nhấc nổi thân người lên khỏi gối từ nhiều ngày rồi, nhưng lúc đó bà ngồi thẳng dậy. Ông nói bà cứng người, đầu bà ngửa ra sau, và miệng bà há ra như thể bà đang thét lên, nhưng bà không thể thốt ra được âm thanh nào cả. Và rồi tiếng sấm đến, và con chắc đã nghĩ âm thanh đó bật ra từ miệng bà, bởi vì con hét lên không giống với bất cứ thứ gì mà mọi người từng nghe và con chạy đến, nhảy lên chiếc giường và vòng tay ôm mẹ con.”

“Họ đã cố gỡ con ra, nhưng con không buông tay. Con cứ thét và thét và gọi tên bà, và rồi xuất hiện tiếng đổ vỡ khủng khiếp. Mảnh kiếng vỡ ở khắp mọi nơi, gió, mưa, sấm, nhiều ánh chớp hơn nữa, và trong suốt quãng thời gian đó con không ngừng la hét. Ngay cả khi bà ấy đã chết và rơi trở lại gối nằm, hai cánh tay nhỏ của con vẫn còn bám vào cổ bà, và con hét lên, khóc lóc, cầu xin bà hãy tỉnh lại và đừng ra đi.”

“Và con vẫn không buông tay ra.” Mary thì thầm. “Cuối cùng họ phải chờ cho đến khi con mệt lả đi và rơi vào giấc ngủ.”

Căn phòng im lặng như tờ trong đầy một phút, và cuối cùng thì Kate thì thầm, “Con đã không biết. Con đã không biết rằng con chứng kiến

“Cha con bảo rằng con không muốn nói về việc đó.” Mary nói. “Mà con cũng không thể nói ngay sau đó được. Con đã ngủ hàng giờ, hàng giờ liền, và khi con tỉnh lại, thì rõ ràng là con đã bị lây căn bệnh của mẹ con. Không phải cùng với sự trầm trọng như thế; mạng sống của con không bị nguy hiểm. Nhưng con bị bệnh, và không ở trong một trạng thái có thể nói về cái chết của mẹ. Và khi con đã hồi phục, con không chịu nói về điều đó. Cha con đã cố, nhưng ông nói mỗi lần ông đề cập đến việc đó, con lại lắc đầu và vít chặt tay con lên tai. Và dần dần ông ấy ngừng cố gắng đó lại.”

Mary đưa cho Kate một cái nhìn chăm chú. “Ông ấy nói con có vẻ hạnh phúc hơn khi ông ngừng cố gắng an ủi con. Ông ấy chỉ làm những gì mình nghĩ là tốt nhất cho con.”

“Con biết.” Kate thì thầm. “Và vào lúc đó, nó chắc chắn là điều tốt nhất. Nhưng giờ thì con cần phải biết.” Cô quay sang Anthony, thực sự không phải để được trấn an, nhưng một kiểu xác nhận nào đó, và cô lặp lại. “Em cần phải biết.”

“Hiện giờ em cảm thấy thế nào?” Anh hỏi, giọng anh nhẹ nhàng và thẳng thắn.

Cô nghĩ về điều đó trong một lúc. “Em không biết. Tốt, em nghĩ vậy. Nhẹ nhõm hơn một chút.” Và rồi, không nhận ra cô đang làm gì, cô mỉm cười. Đó là một nụ cười ngập ngừng và chậm chạp, nhưng vẫn là một nụ cười. Cô quay sang Anthony với đôi mắt ngạc nhiên. “Em cảm thấy như một gánh nặng rất lớn đã được cất khỏi vai vậy.”

“Giờ con nhớ ra chứ?” Mary hỏi.

Kate lắc đầu. “Nhưng con vẫn cảm thấy khá hơn. Con không thể lí giải nó, thật sự đấy. Thật là tốt khi biết được mọi chuyện, ngay cả khi con vẫn không thể nhớ ra.”

Mary làm một loại tiếng động như bị nghẹn và rồi bà rời khỏi ghế của mình và đến ngồi bên cạnh Kate trên ghế nệm dài, ôm lấy cô với tất cả sức lực của bà. Và họ cùng khóc, những tiếng khóc kỳ lạ, mạnh mẽ hòa vào với tiếng cười. Có nước mắt, nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc, và khi Kate cuối cùng cũng buông ra và nhìn lên Anthony, cô thấy rằng anh cũng đang chùi một bên khóe

Anh rụt bàn tay lại, tất nhiên, và làm ra một vẻ mặt điềm tĩnh, nhưng cô đã thấy anh. Và vào khoảnh khắc đó, cô biết là cô đã yêu anh. Với mọi ý nghĩ, mọi cảm xúc, mọi mảnh ghép của con người cô, cô yêu anh.

Và nếu anh không bao giờ yêu cô - vậy thì, cô không muốn nghĩ đến điều đó. Không phải bây giờ, không phải trong thời khắc sâu sắc này.

Có lẽ là không bao giờ.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play