Một người đàn ông với sức quyến rũ là một thứ giải trí, và một người đàn ông với vẻ đẹp, tất nhiên, một mỹ quan để chiêm ngưỡng, nhưng một người đàn ông với danh dự - à, chàng là người mà, độc giả thân mến, những quý cô trẻ nên tụ tập quây quần.

Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 2 tháng 5 năm 1814

Vào tối đó, sau khi bữa ăn tối đã xong và những người đàn ông đi uống rượu của họ trước khi trở lại với những quý bà với vẻ cao ngạo trên mặt, như thể họ vừa mới nói về điều gì đó nặng nề hơn là con ngựa nào sẽ thắng trong giải Royal Ascot; sau khi mọi người đã kết thúc những lượt chơi đố chữ đôi khi tẻ ngắt và đôi khi thì vui nhộn; sau khi Lady Bridgerton đã hắng giọng và bí mật gợi ý có lẽ đã đến lúc đi nghỉ; sau khi các quý bà quý cô đã đem theo những cây nến của họ và hướng về phong ngủ; sau khi những quý ông đã bắt đầu theo sau...

Kate không thể ngủ được.

Rõ ràng, nó là một trong những đêm nằm-nhìn-chằm-chằm-vào-vết-nứt-trên-trần-nhà. Chỉ trừ là không có vết nứt nào trên trần nhà ở Aubrey Hall. Và mặt trăng cũng không hiện lên, cho nên không có một ánh sáng nào lọt qua màn cửa, có nghĩa là nếu có vết nứt đi chăng nữa, thì cô cũng sẽ không thể thấy được chúng, và...

Kate rên rỉ khi cô đẩy mền ra và đứng lên. Một ngày nào đó cô sẽ phải học cách buộc não cô phải ngừng chạy đua về tám hướng cùng một lúc. Cô đã nằm trên giường gần một tiếng đồng hồ rồi, nhìn chằm chằm vào màn đêm tối đen như mực, nhắm mắt lại lúc này lúc khác và cô bắt mình phải ngủ.

Nó không có hiệu quả.

Cô không thể ngừng nghĩ về vẻ mặt của Penelope Featherington khi ngài tử tước lao đến giải cứu cô ấy. Vẻ mặt của cô, Kate chắc chắn, cũng phải gần giống như thế - một tí sững sờ, một chút hân hoan, và cả mớ cảm xúc như thể cô sắp tan chảy xuống sàn nhà ngay phút

Bridgerton cừ đến thế.

Kate trải qua cả ngày hoặc quan sát hoặc trao đổi với người nhà Bridgerton. và một điều đã được làm rõ: mọi thứ được nói về Anthony và tình yêu của anh dành cho gia đình - tất cả đều là sự thật.

Và trong khi cô không hoàn toàn sẵn sàng rút lại ý kiến của cô về việc anh là một kẻ trác táng và một tên lêu lỏng, cô đang bắt đầu nhận ra rằng anh có thể là những thứ đó và điều gì khác nữa.

Điều gì đó tốt đẹp.

Điều gì đó, nếu cô đang cố hoàn toàn khách quan trong vấn đề này, mà cô thừa nhận là rất khó mà làm được, thật sự phải không loại bỏ anh khỏi khả năng làm chồng cho Edwina.

Ôi, tại sao tại sao tại sao anh ta phải trở nên tử tế như thế? Tại sao anh ta không thể cứ là kẻ khéo léo nhưng phóng đãng hời hợt mà thật dễ dàng để tin cơ chứ? Giờ anh là điều gì đó nữa, một ai đó mà cô sợ là cô có thể thực sự thích.

Kate cảm thấy mặt cô đỏ lên, ngay cả trong bóng tối. Cô phải ngừng nghĩ về Anthony Bridgerton. Cứ đà này cô sẽ chẳng thể nào ngủ được trong một tuần.

Có lẽ nếu cô có gì đó để đọc. Cô đã thấy một thư viện to lớn và rộng rãi vào tối nay; chắc chắn nhà Bridgerton có vài quyển sách sẽ bảo đảm cô ngủ được.

Cô mặc thêm một cái áo choàng và đi rón rén tới cửa, cẩn thận không đánh thức Edwina. Chẳng phải đó là một việc dễ dàng. Edwina luôn ngủ như chết. Theo lời Mary, cô ấy còn ngủ suốt cả đêm ngay từ khi còn là một đứa trẻ - từ ngày đầu tiên cô được sinh ra.

Kate trượt chân vào đôi giày vải, rồi di chuyển nhẹ nhàng vào hành lang, cẩn thận nhìn trước nhìn sau trước khi đóng cửa phòng lại đằng sau cô. Đây là chuyến viếng thăm ngôi nhà thôn quê đầu tiên cô có, nhưng cô đã nghe một hai điều về những dạng hội họp này, và điều cuối cùng mà cô muốn là chạm mặt ai đó đang trên đường đến phòng ngủ không phải của mình.

Nếu có ai đó đang tán tỉnh một người không phải vợ chồng của mình, Kate quyết định, cô không muốn biết về điều đó.

Một ngọn đèn đơn độc chiếu rọi ở hành lang, thắp sáng không gian tối bằng một quầng sáng nhảy múa mờ ảo. Kate đã chụp lấy cây nến trên đường đi ra, nên cô đi tới và mở nắp ngọn đèn để mồi cây nến của cô. Một khi ngọn lửa đã sáng lên, cô bắt đầu đi lên cầu thang, đảm bảo dừng lại ở mọi ngã rẽ và kiểm tra cẩn thận nếu có người đi ngang qua.

Một vài phút sau cô thấy mình ở trong thư viện. Nó không phải kiểu rộng theo lệ thường, nhưng những bức tường được bao phủ từ sàn lên đến nóc nhà với những giá sách. Kate đẩy cửa cho đến khi nó gần như đóng lại - nếu có ai đó đang ở ngoài hành lang, cô không muốn làm náo động họ bởi hiện diện của cô bằng tiếng tách của nắm cửa - và đi đến giá sách gần nhất, nhìn vào tiêu đề. “Hmmm,” cô thì thầm với chính mình, rút ra một quyển sách và nhìn vào tấm bìa, “cây cảnh.” Cô rất thích làm vườn, nhưng đôi khi một quyển sách đầy chữ về chủ đề này nghe không hấp dẫn lắm. Có lẽ cô nên tìm một cuốn tiểu thuyết sẽ thu hút sự chú ý của cô, hay cô nên lựa những văn bản khô khan sẽ dễ làm cô buồn ngủ hơn?

Kate đặt lại cuốn sách và di chuyển tới giá sách tiếp theo, đặt cây nến xuống trên một cái bàn gần đó. Nó có vẻ là khu vực triết học. “Hoàn toàn không.” Cô lầm bầm, trượt cây nến dọc theo cái bàn khi cô di chuyển một giá sách sang bên phải. Cây cảnh có thể giúp cô ngủ, nhưng triết học thì chắc chắn sẽ làm cho cô mụ mị trong nhiều ngày.

Cô di chuyển cây nến thêm một tí về bên phải, nghiêng người tới trước để nhìn vào những giá sách tiếp theo, khi một tia chớp hoàn toàn bất ngờ thắp sáng căn phòng.

Một tiếng thét ngắn, ngắt quãng trào ra khỏi phổi cô, và cô nhảy về phía sau, va mông cô vào bàn. Không phải bây giờ, cô thầm van xin, không phải ở đây.

Nhưng khi tâm trí cô dừng đến chữ “ở đây,” cả căn phòng bùng nổ trong một tiếng sấm như bom dội.

Và rồi nó lại tối sầm lại, để lại Kate run rẩy, những ngón tay cô bấu chặt vào cái bàn mạnh đến mức những khớp xương của cô khoá chặt lại với nhau. Cô ghét chuyện này. Ôi, cô ghét chuyện này quá. Cô ghét tiếng sấm và ánh chớp, và áp lực bùng nổ trong không trung, nhưng nhiều nhất là những gì chúng khiến cô cảm thấy.

Thật đáng sợ đến mức cô không thể cảm thấy gì hết.

Nó đã như thế này suốt cuộc đời cô, hoặc ít nhất từ khi cô có thể nhớ được. Khi cô còn nhỏ, cha cô và Mary đã an ủi cô mỗi khi trời mưa bão. Kate có nhiều ký ức về một trong hai người ngồi bên mép giường cô, nắm tay cô và thì thầm những lời an ủi khi sấm và chớp vỡ ra xung quanh cô. Nhưng khi cô lớn lên, cô cố gắng thuyết phục mọi người rằng cô đã vượt qua nó. Ôi, mọi người vẫn biết cô ghét trời giông bão. Nhưng cô đã giữ được nỗi sợ hãi cho riêng mình.

Nó có vẻ là dạng yếu đuối tồi tệ nhất - chẳng có một nguyên nhân cụ thể nào, và không may là, chẳng có một cách chữa trị rõ ràng nào.

Cô đã không nghe tiếng mưa đập vào cửa sổ; có lẽ cơn bão sẽ không trở nên tệ hơn. Có lẽ nó đã bắt đầu từ xa và đang di chuỷên đến nơi khác. Có lẽ -

Một chớp loé khác thắp sáng căn phòng, bóp chặt một thét khác từ phổi Kate. Và lần này sấm đã đến gần hơn với ánh chớp, chứng tỏ là cơn bão đang đến gần hơn.

Kate thấy mình tụt dần xuống sàn nhà.

Nó quá to. Quá to, và quá sáng, và quá -

BÙM!

Kate rúc vào dưới cái bàn, đôi chân cô xếp lại, hai cánh tay vòng quanh đầu gối, chờ trong nỗi kinh hoàng đến lượt tiếp theo.

Và rồi cơn mưa bắt đầu.

* * *

Mới quá nửa đêm một chút, và tất cả những người khách (những người đang bám lấy giờ ở thôn quê) đã đi ngủ, Anthony vẫn ở trong phòng làm việc, gõ những ngón tay vào cạnh bàn cùng với cơn mưa đập vào khung cửa sổ. Lúc này lúc khác lại có một ánh chớp loé lên chiếu khắp căn phòng trong một ánh sáng chói lòa, và một tiếng sầm rền lại to và bất ngờ, anh nảy người lên trên chiếc ghế.

Chúa ơi, anh yêu những cơn giông bão.

Khó mà giải thích được vì sao. Có lẽ chỉ là vì bằng chứng của quyền lực thiên nhiên đối với con người. Có lẽ đó là do năng lượng mạnh mẽ của ánh chớp và tiếng sấm nện vào nhau ở xung quanh anh. Bất cứ lý do gì, nó khiến cho anh thấy mình còn sống.

Anh đã không hoàn toàn mệt mỏi khi mẹ anh đã đề nghị họ đi nghỉ, và có vẻ là ngu ngốc nếu không sử dụng khoảng thời gian ít ỏi của sự cô độc này để đến với những cuốn sách ở Aubrey Hall mà người quản gia đã để sẵn cho anh. Có Chúa mới biết mẹ anh sẽ sử dụng những phút giây của anh để nhồi sọ về những vấn đề liên quan đến những phụ nữ trẻ phù hợp vào ngày mai.

Nhưng sau khoảng một giờ cần cù kiểm tra, đầu bút lông đã khô của anh gõ vào mỗi cột số trong cuốn sổ lớn khi anh cộng và trừ, nhân và đôi khi là chia, mí mắt anh bắt đầu sụp xuống.

Nó là một ngày dài, anh thừa nhận, đóng cuốn sổ lớn lại nhưng để một mảnh giấy thừa ra để đánh dấu trang. Anh đã dành phần lớn thời gian của buổi sáng để đi thăm những người tá điền và kiểm tra những công trình xây dựng. Một gia đình nọ cần chỉnh sửa một cánh cửa. Một gia đình khác gặp rắc rối khi gặt hái vụ mùa của họ và không thể trả tiền thuê đất, vì người cha bị gãy chân. Anthony đã nghe và giảng hòa những cuộc cãi vã, đến thăm và ngưỡng mộ những em bé mới sinh, và cả giúp chỉnh lại một mái nhà bị thủng. Đó là tất cả phần việc của một chủ đất, và anh thích thú tận hưởng nó, nhưng nó gây mệt mỏi.

Trò Pall Mall là một quãng thư giãn tốt, nhưng một khi đã về lại nhà, anh bị đẩy và vai trò chủ nhà cho buổi tiệc của mẹ anh. Cũng gần khiến cho kiệt sức như chuyến viếng thăm những tá điền. Eloise chỉ vừa mới được mười bảy tuổi và rõ ràng là cần có ai đó để giám sát cô, cô gái Cowper lẳng lơ đó đã tra tấn Penelope Featherington tội nghiệp, và ai đó phải làm điều gì đó về chuyện này, và... Và còn thêm Kate Sheffield. Nguyên nhân suy sụp sự tồn tại của anh. Và mục tiêu của những khao khát của anh. Tất cả cùng một lúc.

Đúng là một mớ bòng bong. Anh được cho là đang theo đuổi em gái cô, vì lòng kính Chúa. Edwina. Người đẹp của mùa vũ hội. Xinh đẹp không thể so sánh được. Ngọt ngào và hào phóng và tính tình hòa nhã.

Và thay vào đó thì anh lại không thể ngừng nghĩ về Kate. Kate, người mà, mặc dù cô làm cho anh nổi điên, không ngừng đòi hỏi sự tôn trọng của anh. Làm sao anh có thể không ngưỡng mộ một người bám chắc một cách kiên định vào những suy xét của mình? Và Anthony phải thừa nhận rằng điểm then chốt của những lời suy xét của cô - tình yêu thương dành cho gia đình - là một nguyên tắc mà anh đặt trên mọi thứ khác.

Với một cái ngáp, Anthony đứng lên từ sau chiếc bàn và vươn hai cánh tay. Giờ chắc chắn là dành cho giấc ngủ. Với bất cứ may mắn nào, anh sẽ ngủ ngay vào lúc đầu anh chạm gối. Điều cuối cùng anh muốn là thấy mình nhìn chằm chằm lên trần nhà, nghĩ về Kate. Và tất cả những thứ anh muốn làm với Kate. Anthony nhấc một cây nến lên và đi về phía đại sảnh trống không. Có điều gì đó thanh bình và kích thích sự tò mò về một ngôi nhà tĩnh lặng. Ngay cả khi cơn mưa đang đập vào những bức tường, anh có thể nghe được từng tiếng động của giày anh va vào sàn - gót, mũi, gót, mũi. Và ngoại trừ khi tia chớp nhoáng lên trên nền trời, ánh nến của anh là ánh sáng duy nhất trong đại sảnh. Anh thích thú vẫy ánh nên phía này phía khác, quan sát những cái bóng nhảy múa trên tường và trên những tấm thảm treo tường. Đó là một cảm giác kiểm soát kỳ lạ, nhưng...

Một bên mày anh nhướng lên tự hỏi. Cánh cửa phòng thư viện đang mở hé vài inch, và anh có thể thấy một ánh nến mờ hắt qua khe.

Anh chắc chắn chẳng có ai còn thức. Và chắc chắn là không có tiếng động nào vang lên từ trong thư viện. Có ai đó đã đến tìm một cuốn sách và để lại cây nến đang cháy. Anthony cau mày. Đó là một việc làm vô trách nhiệm. Lửa có thể phá hủy một ngôi nhà nhanh hơn bất cứ thứ gì, ngay cả khi giữa một cơn bão, và thư viện - đầy đến tận nóc với những cuốn sách - là một nơi lý tưởng để bắt đầu một ngọn lửa.

Anh đẩy cánh cửa mở ra và đi vào phòng. Một bên tường của thư viện hoàn toàn bị choáng hết bởi những cửa sổ cao, vì vậy âm thanh của tiếng mưa ở đây nghe to hơn là ở trong đại sảnh. Một tiếng sấm rền làm rung cả nền nhà, và, gần như liền kề nó, một ánh chớp lóe xé tan màn đêm.

Luồng điện học lúc đó làm cho anh cười toét miệng, và anh sải chân tới cây nến đáng ghét đang cháy đó. Anh nghiêng người tới, và thổi tắt nến, và rồi...

Anh nghe thấy gì đó.

Đó là âm thanh của hơi thở. Sợ hãi, nặng nhọc, với một tiếng thút thít nhỏ.

Anthony nhìn quanh phòng. “Có ai ở đây không?” Anh gọi to. Nhưng anh chẳng thấy ai cả.

Rồi anh nghe thấy nó lần nữa. Từ bên dưới.

Giữ cho cây nến của mình chắc chắn, anh quỳ xuống để nhìn dưới chiếc bàn.

Và hơi thở của anh bị hút ra khỏi người.

“Chúa tôi.” Anh thì thầm. “Kate.”

Cô đang cuộn người lại như một trái banh, đôi tay quấn quanh đôi chân đang co lại rất chặt đến mức nó trông như thể cô sắp vỡ tan ra.

Đầu cô nghiêng xuống, hốc mắt đặt trên gối, và cả người cô đang run rẩy dữ dội với những cơn rùng mình nhanh, mạnh mẽ.

Máu của Anthony như đóng băng. Anh chưa từng nhìn thấy ai lại run rẩy như thế.

“Kate?” Anthony nói lần nữa, đặt cây nến xuống sàn nhà khi anh di chuyển đến gần hơn. Anh không thể nói được rằng cô có thể nghe anh không. Cô có vẻ như đang thu mình lại, tuyệt vọng tìm cách trốn thoát khỏi điều gì đó. Có phải đó là cơn bão? Cô đã nói cô ghét mưa, nhưng đây lại là chuyện khác. Anthony biết rất nhiều người không thích thú gì với những cơn bão điện chớp như anh, nhưng anh chưa từng nghe đến ai đó bị tác động đến mức này.

Cô trông như thể sẽ vỡ ra thành triệu mảnh nếu anh chỉ chạm nhẹ vào cô.

Tiếng sấm làm rung cả căn phòng, và cơ thể cô rụt lại với sự tra tấn đến mức Anthony cảm thấy nó tận trong gan anh. “Ôi, Kate” Anh thì thầm.

Nhìn thấy cô thế này khiến trái tim anh như vỡ ra. Với một bàn tay thận trọng và vững vàng, anh với tới cô. Anh vẫn không chắc liệu cô có nhận biết sự hiện diện của anh không; làm cô giật mình có thể sẽ giống như đánh thức một người mộng du.

Dịu dàng, anh đặt một bàn tay lên cánh tay cô và bóp nhẹ. “Ta ở đây, Kate.” Anh thì thầm. “Mọi chuyện

Ánh chớp xé tan màn đêm, thắp sáng căn phòng với một tia điện sáng rực, và cô thu mình lại như một trái banh nhỏ hơn, nếu điều đó có thể. Anh nhận ra cô đang cố giấu đôi mắt mình bằng cách giữ cho mặt cô ở trên gối.

Anh di chuyển đến gần hơn và cầm lấy một bàn tay cô trong tay anh. Da cô lạnh như băng, những ngón tay cứng ngắt vì sợ hãi. Thật khó để dứt cánh tay cô ra khỏi chân cô, nhưng dù vậy anh vẫn có thể kéo tay cô tới miệng anh, và anh áp môi mình lên da cô, cố gắng làm cho cô ấm lên.

“Ta ở đây, Kate.” Anh lặp lại, không chắc nên nói điều gì khác. “Ta ở đây. Sẽ ổn thôi.”

Sau đó anh cố gắng thu mình lại dưới cái bàn để cho anh có thể ngồi bên cạnh cô trên sàn nhà, với cánh tay anh vòng qua đôi vai đang run của cô. Cô có vẻ thả lỏng một ít bởi sự đụng chạm của anh, làm cho anh cảm thấy rất kỳ lạ - gần như là một ý thức tự hào rằng anh là người đã có thể giúp cô. Điều đó, và một cảm giác sâu tận xương đầy nhẹ nhõm, bởi vì nó đang giết anh khi nhìn thấy cô bị dằn vặt đến vậy.

Anh thì thầm những từ êm dịu vào tai cô và nhẹ nhàng vuốt ve vai cô, cố gắng an ủi cô với sự hiện diện của anh. Và chầm chậm - rất chậm; anh không biết là đã bao nhiêu phút trôi qua khi anh ngồi ở dưới bàn với cô - anh có thể cảm thấy những cơ bắp của cô bắt đầu lỏng ra. Da cô đã mất đi cảm giác lạnh lẽo khủng khiếp đó, và hơi thở của cô, dù vẫn còn gấp, không còn nghe quá sợ hãi nữa.

Cuối cùng, khi anh cảm thấy cô có lẽ đã sẵn sàng, anh chạm hai ngón tay vào dưới cằm cô, sử dụng lực ép nhẹ nhất có thể tưởng tượng được để ngước mặt cô lên cho anh có thể thấy mắt cô. “Nhìn vào ta đi, Kate.” Anh thì thầm, giọng anh dịu dàng nhưng vẫn đầy quyền uy. “Nếu em chỉ cần nhìn ta thôi, em sẽ biết rằng em đang an toàn.”

Những thớ thịt nhỏ xung quanh mắt cô co giật trong khoảng mười giây nữa trước khi mí mắt cô cuối cùng cũng chớp chớp. Cô đang cố gắng mở mắt, nhưng chúng đang từ chối. Anthony có rất ít kinh nghiệm với loại sợ hãi này, nhưng có vẻ như anh có thể hiểu được rằng mắt cô chỉ là không muốn mở ra, rằng chúng đơn giản chỉ là không muốn nhìn thấy bất cứ thứ gì quá khủng khiếp đã làm cô sợ.

Sau thêm nhiều giây chớp chớp của mí mắt cuối cùng cô cũng có thể mở mắt hoàn toàn và gặp ánh mắt anh.

Anthony cảm thấy như anh bị đấm vào ruột.

Nếu thật sự đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, thì có điều gì đó đã tan vỡ bên trong Kate Sheffield vào tối đó. Cô trông như bị săn đuổi, bị ám ảnh, và hoàn toàn lạc hướng và bơ vơ.

“Em không nhớ.” Cô thì thầm, giọng cô chỉ vừa đủ nghe.

Anh cầm lấy một bàn tay cô, mà anh sẽ không bao giờ thả ra, và đem nó tới môi anh lần nữa. Anh đặt một nụ hôn dịu dàng, gần như của một người cha vào lòng bàn tay cô. “Em không nhớ gì kia?”

Cô lắc đầu. “Em không biết.”

“Em có nhớ đã đến thư viện không?”

Cô gật đầu.

“Em có nhớ cơn bão không?”

Cô nhắm mắt lại trong một lúc, như thể việc giữ cho chúng mở ra đã làm cạn kiệt hết năng lượng mà cô có. “Cơn bão vẫn còn.”

Anthony gật đầu. Điều đó đúng. Mưa vẫn đang đập vào những cửa sổ với sự dữ dội như trước, nhưng đã vài phút trôi qua từ khi tiếng sấm và ánh chớp cuối cùng xé tan màn đêm.

Cô nhìn vào anh với đôi mắt tuyệt vọng. “Em không thể... em không...”

Anthony bóp nhẹ tay cô. “Em không cần phải nói gì cả.”

Anh cảm thấy cơ thể cô run rẩy và thả lỏng, rồi nghe cô thì thầm. “Cám ơn ngài.”

“Em có muốn ta nói chuyện với em không?” Anh hỏi.

Cô nhắm mắt lại - không chặt như lúc trước - và

Anh mỉm cười, ngay cả khi anh biết cô không thể thấy điều đó. Nhưng có lẽ cô có thể cảm nhận được nó. Có lẽ cô có thể nghe được nụ cười trong giọng nói anh. “Để xem nào,” anh trầm ngâm, “ta có thể nói với em về điều gì đây?”

“Nói với em về căn nhà đi.” Cô thì thầm.

“Ngôi nhà này sao?” Anh hỏi ngạc nhiên.

Cô gật đầu.

“Được rồi.” Anh trả lời, cảm thấy hài lòng một cách vô lý khi cô quan tâm đến những cột đá và gạch vữa có ý nghĩa rất nhiều đối với anh. “Ta lớn lên ở đây, em biết đó.”

“Mẹ ngài đã kể cho em.”

Anthony cảm thấy một tia chớp của điều gì đó ấm áp và mạnh mẽ trong ngực anh khi cô nói. Anh đã nói với cô rằng cô không cần phải nói gì cả, và cô rõ ràng là rất biết ơn vì điều đó, nhưng giờ cô đang thật sự tham gia vào cuộc trò chuyện. Chắc chắn điều đó có nghĩa là cô đang cảm thấy tốt hơn. Nếu cô mở mắt ra - nếu họ không đang ngồi dưới một cái bàn - nó có thể gần như cuộc trò chuyện bình thường.

Và thật là bất ngờ khi anh lại muốn trở thành người giúp cô cảm thấy khá hơn đến thế.

“Liệu ta có nên kể với em về lần em trai ta dìm con búp bê yêu thích nhất của em gái ta không?” Anh hỏi.

Cô lắc đầu, rồi co rúm lại khi gió thổi mạnh hơn, khiến cho mưa đập vào những cánh cửa sổ với một sự mãnh liệt mới. Nhưng cô giữ nguyên cằm mình và nói, “Kể với em điều gì đó về ngài.”

“Được thôi.” Anthony nói chậm chạp, cố gắng làm ngơ một cảm giác gợn lên, khiến anh không thoải mái đang lan ra khắp ngực anh. Sẽ dễ hơn rất nhiều để kể về các em của anh hơn là nói về chính anh.

“Kể với em về cha ngài.”

Anh đóng băng lại. “Cha ta?”

Cô mỉm cười, nhưng anh quá sửng sốt bởi lời yêu cầu của cô để mà nhận ra. “Ngài phải có một người cha chứ.” Cô nói.

Cổ họng Anthony bắt đầu có cảm giác thít lại. Anh không thường nói về cha anh, ngay cả với gia đình. Anh nói với mình rằng đó là vì nó quá lâu rồi; Edmund đã mất được hơn mười năm. Nhưng sự thật là nó quá đau đớn để mà nhắc lại.

Và có những vết thương không bao giờ lành, ngay cả mười năm.

“Ông - ông là một người vĩ đại.” Anh nói nhẹ nhàng. “Một người cha vĩ đại. Tôi đã yêu ông rất nhiều.”

Kate quay sang để nhìn vào anh, lần đầu tiên cô gặp ánh mắt anh từ khi anh nâng cằm cô lên bằng những ngón tay của anh từ nhiều phút trước. “Mẹ của ngài nói về ông ấy với tình yêu thương thắm thiết. Đó là lí do vì sao mà em hỏi.”

“Chúng tôi đều yêu ông.” Anh nói đơn giản, quay đầu và nhìn chằm chằm ra căn phòng. Đôi mắt anh tập trung vào một cái chân ghế, nhưng anh không hoàn toàn trông thấy nó. Anh chẳng thấy gì ngoài những hồi ức trong đầu anh. “Ông là người cha tuyệt vời nhất mà một đứa con trai có thể mong muốn.”

“Ông mất khi nào vậy?”

“Mười một năm trước. Vào mùa hè. Khi ta được mười tám tuổi. Ngay trước khi ta rời trường Oxford.”

“Đó là một quãng thời gian khó khăn đối với một người đàn ông mất đi cha mình.” Cô thì thầm.

Anh quay sang nhìn vào cô. “Bất cứ thời gian nào cũng khó khăn đối với một người đàn ông mất đi cha mình.”

“Tất nhiên,” cô nhanh nhẹn đồng ý, “nhưng một vài quãng thời gian lại tồi tệ hơn, em nghĩ vậy. Và chắc chắn là nó khác biệt đối với con trai và con gái. Cha em mất vào năm năm trước, và em nhớ ông rất nhiều, nhưng em không nghĩ nó là như nhau.”

Anh không phải nói lên câu hỏi của mìnhđó trong đôi mắt anh.

“Cha em thật tuyệt vời.” Kate giải thích, đôi mắt cô ánh lên khi cô nhớ lại. “Tốt bụng và dịu dàng, nhưng nghiêm khắc khi ông cần phải thế. Nhưng người cha của một đứa con trai - à, ông phải dạy cho con mình làm một người đàn ông như thế nào. Và bị mất cha ở tuổi mười tám, khi ngài chỉ vừa học được tất cả những điều đó có ý nghĩa gì...” Cô bật ra tiếng thở ra dài. “Có thể là em tự phụ khi em bàn luận về chuyện này, vì em không phải một người đàn ông và vì vậy không hoàn toàn có thể đặt mình vào vị trí của ngài, nhưng em nghĩ...” Cô ngừng lại, bĩu môi khi cô xem xét những từ ngữ. “À, em chỉ nghĩ nó sẽ rất khó khăn.”

“Các em trai của ta lúc đó mười sáu, mười hai và hai tuổi.” anh nói nhẹ nhàng.

“Em sẽ hình dung điều đó cũng khó khăn cho họ,” cô trả lời, “mặc dù em trai nhỏ nhất của ngài có thể không hề nhớ ra ông.”

Anthony lắc đầu.

Kate mỉm cười. “Em cũng không nhớ ra mẹ mình. Đó là một điều lạ lẫm.”

“Em được mấy tuổi khi bà mất?”

“Đó là sinh nhật thứ ba của em. Cha em đã kết hôn với Mary chỉ vài tháng sau đó. Ông không xem trọng thời gian để tang theo thông lệ, và nó gây sửng sốt cho vài người hàng xóm, nhưng ông nghĩ em cần một người mẹ hơn là ông cần nghe theo những quy cách của xã hội.”

Lần đầu tiên, Anthony tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu đó là mẹ anh, người chết sớm, để lại cha anh và một ngôi nhà đầy con trẻ, nhiều trong số đó là con nít và còn nằm trong nôi. Edmund sẽ không có quãng thời gian dễ dàng với điều đó. Không ai có thể.

Không phải là nó đã dễ dàng đối với Violet. Nhưng ít nhất thì bà có Anthony, người có thể bước vào và cố đóng vai trò một người cha thay thế đối với các em của anh. Nếu Violet chết, nhà Bridgerton sẽ bị bỏ lại hoàn toàn mà không có một bóng hình người mẹ nào. Cuối cùng thì, Daphne - con gái lớn nhà Bridgerton - chỉ mới mười tuổi khi Edmund chết. Và Anthony chắc chắn rằng cha anh sẽ không tái hôn.

Bất kể là cha anh sẽ muốn có một mẹ cho các con ông, ông sẽ không thể cưới một người vợ nào khác.

“Mẹ em chết thế nào?” Anthony hỏi, ngạc nhiên vì sự tò mò của chính mình.

“Bệnh dịch cúm. Hoặc ít nhất thì đó là những gì mà họ nghĩ. Đó có thể là bất kỳ loại sốt nào liên quan đến phổi.” Cô đặt cằm cô trên tay. “Nó diễn tiến rất nhanh, em được kể lại thế. Cha em đã nói em cũng bị bệnh, mặc dù bệnh của em là một ca nhẹ.”

Anthony nghĩ về đứa con mà anh hy vọng sẽ sinh ra, lý do chính mà anh đã quyết định kết hôn. “Em có nhớ một người mẹ mà em chưa bao giờ gặp không?” Anh thì thầm.

Kate xem xét câu hỏi của anh trong một lúc. Giọng anh có một sự khẩn trương nói với cô rằng có điều gì đó mang ý phê phán về câu trả lời của cô. Tại sao, cô không thể hình dung nổi, nhưng điều gì đó về tuổi thơ của cô rõ ràng là đụng chạm đến một vấn đề trong trái tim anh.

“Vâng,” cuối cùng thì cô trả lời, “nhưng không như cách ngài nghĩ. Ngài không thể thật sự nhớ bà ấy, bởi vì ngài không biết bà, nhưng vẫn có một khoảng trống trong cuộc đời ngài - một khoảng trống lớn, và ngài biết người phải ở đó là ai, nhưng ngài không thể nhớ ra bà, và ngài không biết bà trông như thế nào, và vì vậy ngài không biết bà sẽ đóng vai trò đó ra sao.” Đôi môi cô cong lên thành một nụ cười buồn. “Nó có nghĩa gì không vậy?”

Anthony gật đầu. “Nó có ý nghĩa nhiều lắm.”

“Em nghĩ mất một người cha hoặc người mẹ một khi ngài đã biết và yêu họ thì sẽ khó khăn hơn.” Kate thêm vào. “Và em biết, bởi vì em đã mất cả hai.”

“Ta rất tiếc.” Anh nói bình lặng.

“Ổn mà.” Cô bảo đảm với anh. “Câu nói xưa cũ đó - thời gian chữa lành mọi vết thương - nó là sự thật đấy.”

Anh nhìn chằm chằm vào cô rất lâu, và cô có thể nói từ vẻ mặt của anh rằng anh không đồng ý.

“Nó thực sự là khó khăn hơn khi ngài đã lớn. Ngài được ban phước b ngài có cơ hội được biết họ, nhưng nỗi đau mất mát sẽ càng dữ dội hơn.”

“Nó như thể là ta đã mất một cánh tay.” Anthony thì thào.

Cô gật đầu nghiêm túc, bằng cách nào đó biết rằng anh không nói về nỗi đau của anh với nhiều người. Cô liếm môi căng thẳng, chúng đã trở nên khô. Buồn cười làm sao điều đó lại xảy ra. Tất cả nước mưa trên thế gian đang rít lên ngoài kia, và cô ở đây, khô khốc như một khúc xương.

“Có lẽ nó tốt hơn cho em.” Kate nói nhẹ nhàng. “Mất đi mẹ từ lúc còn quá nhỏ. Và Mary rất tuyệt vời. Bà yêu em như một người con ruột. Sự thật là - ” cô ngắt quãng, giật mình bởi sự ẩm ướt đột ngột xuất hiện trong đôi mắt cô. Khi cuối cùng cô cũng tìm thấy giọng mình, nó là một tiếng thì thầm đầy cảm xúc. “Sự thật là, bà chưa bao giờ có một lần nào đối xử với em khác với Edwina. Em - em không nghĩ em có thể yêu mẹ ruột của mình hơn thế.”

Đôi mắt của Anthony hun đốt vào mắt cô. “Ta rất mừng.” Anh nói, giọng anh thấp và mãnh liệt.

Kate nuốt xuống. “Bà đôi khi rất buồn cười về việc đó. Bà thăm mộ mẹ em, chỉ để nói với bà em đang lớn lên thế nào. Nó rất là đáng yêu, thật đấy. Khi em còn nhỏ, em sẽ đi với bà, để nói với mẹ em Mary đang sống thế nào.”

Anthony mỉm cười. “Và những lời truyền đạt của em theo chiều hướng tốt đẹp chứ?”

“Luôn luôn.”

Họ ngồi trong yên lặng gần gũi một lúc, cả hai cùng nhìn chằm chằm vào ngọn nến, nhìn sáp rớt xuống chân đèn. Khi giọt thứ tư lăn xuống cây nến, trượt dài theo thân trụ đó cho đến khi nó đông lại, Kate quay sang Anthony và nói, “Em chắc chắn em nghe quá lạc quan không chịu được, nhưng em nghĩ phải có vài kế hoạch của đấng tối cao trong cuộc sống.”

Anh quay sang cô và nhướng một bên mày lên.

“Mọi thứ đều ổn cả vào lúc cuối.” Cô giải thích. “ Em mất mẹ, nhưng em có được Mary. Và một người em gái em rất yêu thương.

Một ánh chớp thắp sáng căn phòng. Kate cắn môi, cố gắng buộc hơi thở cô phải chậm và từ tốn. Sấm không tới, nhưng cô đã chuẩn bị cho nó, và -

Căn phòng rung lên với tiếng ồn, và cô có thể giữ mắt mình mở ra.

Cô thở ra chậm và tự cho phép mình một nụ cười tự hào. Nó không quá khó đến vậy. Nó chắc chắn là không vui vẻ gì, nhưng nó không phải là không thể. Đó có thể là nhờ sự bầu bạn của Anthony bên cạnh cô, hoặc đơn giản là vì cơn bão đang rời đi, nhưng cô vượt qua nó mà tim không nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Em có ổn không?” Anthony hỏi.

Cô nhìn sang anh, và điều gì đó trong cô tan chảy bởi cái nhìn lo lắng trên mặt anh. Bất cứ thứ gì anh đã làm trong quá khứ, dù cho họ có cãi vã và đấu với nhau, trong khoảnh khắc này anh thật sự quan tâm đến cô.

“Vâng.” Cô nói, nghe thấy sự ngạc nhiên trong giọng của mình mặc dù cô không có ý định đó. “Vâng, em nghĩ là em ổn.”

Anh bóp nhẹ vào tay cô. “Em đã như thế này bao lâu rồi?”

“Tối này? Hay trong cả cuộc đời em?”

“Cả hai.”

“Tối nay là từ khi tiếng sấm đầu tiên nổ ra. Em đã trở nên căng thẳng khi trời bắt đầu mưa, nhưng chừng nào mà nó không có sấm và chớp thì em ổn. Không phải tại trời mưa, thật đấy, làm cho em phiền muộn, nhưng chỉ là nỗi sợ hãi rằng nó có thể sẽ trở nên thứ gì đó dễ sợ hơn.”

Cô nuốt xuống, liếm đôi môi khô trước khi tiếp tục. “Để trả lời cho câu hỏi của kia của ngài, em không thể nhớ được lần nào em không kinh hãi vì những cơn bão. Nó đơn giản chỉ là một phần của em. Nó rất ngu ngốc, em biết -”

“Nó không ngu ngốc.” Anh ngắt ngang.

“Ngài thật đáng yêu kh,” cô nói với một nụ cười nửa miệng bẽn lẽn, “nhưng ngài nhầm rồi. Không có gì có thể ngu ngốc hơn là sợ điều gì đó mà không có lý do.”

“Đôi khi...” Anthony nói trong một giọng ngập ngừng, “đôi khi có những lý do cho nỗi sợ hãi của chúng ta mà chúng ta không thể giải thích được. Đôi khi nó chỉ là điều gì đó chúng ta cảm thấy từ trong xương tủy, điều gì đó chúng ta biết là sự thật, nhưng sẽ nghe rất ngu ngốc với những người khác.”

Kate nhìn chằm chằm vào anh chăm chú, quan sát đôi mắt tối của anh trong ánh mập mờ của ngọn nến, và ngừng thở khi cô bắt gặp ánh đau đớn trong giây ngắn ngủi trước khi anh nhìn đi nơi khác. Và cô biết - với tất cả con người cô - rằng anh không nói về triết lý ở đời. Anh đang nói về nỗi sợ của chính anh, điều gì đó đã ám ảnh anh vào mỗi phút của mỗi ngày.

Điều gì đó cô biết cô không có quyền hỏi anh. Nhưng cô ước - ôi, sao mà cô ước - rằng khi anh sẵn sàng để đối mặt với chúng, cô có thể là người giúp anh.

Nhưng điều đó là không thể. Anh sẽ kết hôn với người nào khác, có lẽ là Edwwina, và chỉ có vợ anh mới có quyền nói với anh về những vấn đề cá nhân như vậy.

“Em nghĩ là em đã sẵn sàng lên lầu rồi.” Cô nói. Bỗng nhiên nó thật nặng nề khi ở bên cạnh anh, quá đau đớn khi biết anh sẽ thuộc về một người khác.

Môi anh cong lên thành một nụ cười trẻ con. “Có phải em đang nói rằng ta có thể bò ra khỏi cái bàn rồi không?”

“Ôi, chúa ơi!” Cô vỗ một bàn tay lên mặt mình trong một vẻ ngượng nghịu. “Em rất xin lỗi. Em đã ngừng nhận ra chúng ta đang ngồi ở đâu từ hàng thập kỉ trước rồi, em e là thế. Ngài nhất định là nghĩ em là một người ngu ngốc.”

Anh lắc đầu, vẫn còn cười. “Không bao giờ là một người ngu ngốc, Kate. Ngay cả khi ta nghĩ em là sinh vật gây khó chịu nhất trên hành tinh, ta không nghi ngờ gì về sự thông minh của em.”

Kate, người vừa mới chuẩn bị bò ra khỏi chiếc bàn, ngừng lại. “Em chỉ không biết là liệu em có nên cảm thấy được khen hay bị xúc phạm vì câu nói này nữa.”

“Có thể là cả hai,” anh thừa nhận, “nhưng vì tình bạn, hãy quyết định là một lời khen đi.”

Cô quay sang nhìn anh, biết rằng cô đang ở một tư thế ngượng nghịu trên tay và đầu gối của mình, nhưng khoảnh khắc này dường như quá quan trọng để mà trì hoãn. “Vậy chúng ta là bạn sao?” Cô thì thầm.

Anh gật đầu khi anh đứng dậy “Khó tin, nhưng ta nghĩ là chúng ta là bạn.”

Kate mỉm cười khi cô nắm lấy bàn tay của anh và đứng dậy. “Em rất mừng. Ngài - ngài thật sự không phải là con quỷ mà em đã nghĩ.”

Một bên chân mày anh nhướng lên, và mặt anh bỗng nhiên có một vẻ tinh nghịch trên đó.

“Chà, có lẽ ngài là như thế.” Cô sửa lại, nghĩ rằng anh chắc chắn là tên trác táng và lêu lỏng mà xã hội đã vẽ nên. “Nhưng có lẽ ngài còn là một người tốt nữa.”

“Tốt bụng nghe có vẻ quá mỉa mai.” Anh trầm ngâm.

“Tốt bụng,” cô nói nhấn mạnh, “là tốt bụng. Và với những gì em thường nghĩ về ngài, ngài nên hân hoan bởi lời khen này chứ.”

Anh cười to. “Một điều về em, Kate Sheffield, là em không bao giờ gây nhàm chán.”

“Gây nhàm chán nghe có vẻ quá mỉa mai.” Cô trích dẫn.

Anh mỉm cười - một cái cười toét miệng thật sự, không phải nụ cười mỉa mai mà anh sử dụng ở các sự kiện xã hội, mà là một nụ cười thật sự. Cổ họng Kate chợt có cảm giác thít chặt lại.

“Ta e là không thể tiễn em về phòng được.” Anh nói. “Nếu có ai đó đi ngang qua chúng ta vào giờ này...”

Kate gật đầu. Họ đã làm nên một tình bạn lạ lùng, nhưng cô không muốn bị kẹt vào hôn nhân với anh, phải không? Và không có nghi ngờ gì là anh không muốn kết hôn với cô.

Anh chỉ về phía cô. “À đặc biệt là khi em mặc như thế...”

Kate nhìn xuống và thở gấp, kéo giật cái váy chặt hơn xung quanh cô. Cô hoàn toàn quên mất là cô không mặc đồ đàng hoàng. Áo ngủ của cô chắc chắn là không có gì hở hang hay mỏng manh cả, đặc biệt là với cái áo khoác ngoài dày, nhưng chúng là áo ngủ.

“Em sẽ ổn chứ?” Anh hỏi nhẹ nhàng. “Trời vẫn còn mưa.”

Kate ngừng lại và lắng nghe tiếng mưa, đã tạnh bớt chỉ còn là những cơn rào rạt gõ vào cánh cửa sổ. “Em nghĩ là cơn bão đã qua.”

Anh gật đầu và nhìn ra ngoài hành lang. “Nó trống.” Anh nói.

“Em phải đi đây.”

Anh đứng sang một bên để cô đi.

Cô đi đến trước, nhưng khi cô đến cánh cửa cô ngừng lại và quay người. “Lord Bridgerton?"

“Anthony.” Anh nói. “Em nên gọi ta là Anthony. Ta tin là ta đã gọi em là Kate.”

“Ngài đã làm thế?”

“Khi ta tìm thấy em.” Anh vẫy một bàn tay. “Ta không nghĩ là em đã nghe bất cứ thứ gì ta nói.”

“Ngài chắc là đúng.” Cô cười ngập ngừng. “Anthony.” Tên của anh nghe lạ lẫm trên lưỡi cô.

Anh nghiêng người tới trước, một ánh sáng kỳ lạ, quỷ quái ánh lên trong đôi mắt anh. “Kate.” Anh đáp trả.

“Em chỉ muốn nói cảm ơn ngài.” Cô nói. “Vì đã giúp em tối nay. Em - ” Cô hắng giọng. “Nó sẽ khó khăn hơn rất nhiều nếu không có ngài.”

“Ta đã không làm gì cả.” Anh nói cộc cằ

“Không, ngài đã làm mọi việc.” Và rồi, trước khi cô bị quyễn rũ ở lại, cô nhanh chóng đi xuống đại sảnh và lên cầu thang.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play