Chiếc Suburban màu đen dừng lại trước căn nhà lớn kiểu Liên bang trên đường N 15 phút sau. Khi Sarah đi lên những bậc thang bằng gạch đỏ hình vòng cung, cửa đột nhiên mở ra và một dáng người xuất hiện trên hành lang. Ông ta mặc quần kaki không nhăn và áo khoác ngoài thể thao bằng nhung có màu sặc sỡ với nhiều miếng ghép trên khuỷu tay. Tia nhìn của ông ta vừa lạnh lùng giống bác sỹ trong phòng khám, vừa có nét tò mò gợi Sarah nhớ lại bác sỹ tâm lý tư vấn nỗi buồn mà cô đã đi gặp sau cái chết của Ben. “Tôi là Carter”, ông ta nói tựa như vừa sực nhớ ra cần phải giới thiệu mình. Ông ta không nói đây là tên, hay họ, chỉ nói rằng đây là tên thật. “Tôi không cần dùng tên giả nữa”, ông nói. “Vì tôi đang có mặt trong Tổng hành dinh”.

Ông ta mỉm cười, nụ cười khách sáo, giống như cái bắt tay ngắn không chân thật. Ông mời cô bước vào, và một lần nữa lại khiến cô có cảm giác lời mời này xuất phát từ cảm hứng chợt đến. ”Còn cô là Sarah”, ông nói khi đưa cô đi xuống sảnh lớn ở trung tâm. “Sarah Bancroft, người quản lý tại bảo tàng Phillips danh tiếng. Sarah Bancroft, người đã dũng cảm nộp đơn xin làm việc chỗ chúng tôi nhưng đã bị từ chối với lý do cô không cần thiết. Cha của cô sao rồi?”

Cô ngạc nhiên vì sự thay đổi đề tài đột ngột. “Ông biết cha tôi à?”

“Thực ra tôi chưa bao giờ gặp ông ấy. Ông ấy làm việc cho Citicorp đúng không?”

“Ông biết chính xác cha tôi đang làm việc cho ai. Tại sao ông lại hỏi về cha tôi?”

“Dạo gần đây ông ấy ở đâu? Luân Đôn? Brussels? Hay Hồng Kông?”

“Paris”, cô trả lời. “Đây là chỗ làm việc cuối cùng của cha tôi. Năm tới ông sẽ nghỉ hưu”.

“Sau đó ông ấy sẽ về nhà chứ?”

Cô lắc đầu. “Ông ấy ở lại Paris. Cùng cô vợ mới. Cha mẹ tôi ly dị được hai năm rồi. Ông tái hôn ngay lập tức. Ông thuộc dạng người coi thời gian là tiền bạc”.

“Còn mẹ cô thì sao? Bà ấy ở đâu?”

“Manhattan”.

“Cô có hay gặp cha không?”

“Nghỉ lễ. Đám cưới. Thỉnh thoảng hai cha con có những buổi ăn trưa không thoải mái lắm khi ông về đây. Cha mẹ tôi vấp phải rất nhiều phản đối trước khi đi đến quyết định ly hôn. Tất cả mọi người đều theo phe phản đối, nhất là tôi. Tại sao ông lại hỏi tôi những câu hỏi này? Ông muốn gì từ…“

“Cô tin vào điều đó à?”, ông ta hỏi, cắt ngang lời cô.

“Tin vào điều gì?”

“Theo phe”.

“Cũng tùy trường hợp, tôi nghĩ vậy. Đây có phải là một phần bài kiểm tra không? Tôi nghĩ mình đã thi trượt”.

“Cô đậu rồi”, Carter trả lời. “Điểm xuất sắc”.

Họ vào phòng khách. Căn phòng không đề biển, được trang trí bằng những đồ đạc thanh lịch giống như trong các dãy phòng khách sạn dùng để bàn bạc công việc làm ăn. Carter giúp cô cởi áo khoác và mời cô ngồi.

“Tại sao tôi được nhận vào làm việc?”

“Thế giới này hay thay đổi, Sarah. Mọi thứ cũng thay đổi. Nói tôi nghe đi, trong trường hợp nào cô nghĩ theo phe là đúng?”

“Tôi vẫn chưa nghĩ nhiều về điều này”.

“Chắc chắn cô đã nghĩ rồi”, Carter nói. Sarah, lần thứ hai, lại như thấy lại bác sỹ tâm lý của mình ngồi trong chiếc ghế bành xòe ra như bông hoa với chiếc cốc bằng sứ để cân bằng trên đầu gối, đưa suy nghĩ của cô tới những nơi cô không muốn. “Nói đi, Sarah”, Carter đang thúc giục. “Cho tôi biết một ví dụ khi cô nghĩ theo phe là đúng”.

“Tôi tin vào đúng sai”, cô nói, cằm hơi hếch lên. “Điều này có thể giải thích lí do tại sao tôi trượt trong kì thi của các ông. Thế giới của các ông là những mảng màu xám, còn tôi thích trắng đen”.

“Đây có phải là những gì cha cô nói không?”

Không, cô nghĩ, chính Ben đã chỉ ra khuyết điểm này của cô.

“Chuyện này là thế nào?”, cô hỏi. “Tại sao tôi lại đến đây?”

Nhưng Carter vẫn đang suy nghĩ về những ẩn ý trong câu trả lời lúc nãy của cô. “Thế còn khủng bố thì sao?” ông ta hỏi, một lần nữa lại khiến Sarah có cảm nghĩ câu hỏi này vừa xuất hiện bất chợt trong đầu ông ta. “Đó chính là điều tôi tự hỏi. Bọn khủng bố nằm ở chỗ nào trong thế giới đúng sai của cô. Chúng có tội, hay sự nghiệp của chúng là đúng đắn? Chúng ta là những nạn nhân vô tội, hay chính chúng ta đã tự mình chuốc lấy thảm họa này? Chúng ta phải ngồi chờ thảm họa đến, hay chúng ta có quyền chống lại bọn chúng bằng tất cả sức mạnh và sự tức giận chúng ta có thể có?”

“Tôi là người quản lý bảo tàng Phillips”, cô nói. “Ông thực sự muốn tôi làm thơ trữ tình về những nguyên tắc đạo đức của chủ nghĩa chống khủng bố à?”

“Chúng ta hãy thu hẹp phạm vi câu hỏi. Tôi luôn thấy điều này có ích. Chúng ta hãy lấy ví dụ về người đàn ông lái chiếc máy bay của Ben đâm vào Trung tâm Thương mại thế giới”. Carter dừng lại. “Cô nhắc lại cho tôi Ben ở trên chiếc máy bay nào được không?”

“Ông biết anh ấy đi trên chiếc máy bay nào”, cô đáp. “Anh ấy đi trên chiếc chuyến bay Thống Nhất 175”.

“Được lái bởi…”

“Marwan al-Shehhi”.

“Chúng ta hãy tạm thời giả sử Marwan al-Shahhi tìm được cách sống sót. Tôi biết chuyện này là điên khùng, Sarah, nhưng cô hãy giả sử cùng tôi mà không tranh cãi. Giả sử anh ta quay trở lại Afghanistan hay Pakistan hay một nơi ẩn náu nào đó của bọn khủng bố. Giả sử như chúng ta biết anh ta ở đâu. Chúng ta nên gửi FBI đến cùng với lệnh bắt anh ta, hay liệu chúng ta nên giải quyết anh ta bằng cách hiệu quả hơn? Những người mặc đồ đen? Lực lượng Đặc nhiệm? Hay dùng tên lửa được phóng từ máy bay không có phi công?”

“Tôi nghĩ ông đã biết tôi sẽ làm gì với hắn ta”.

“Giả sử như tôi muốn nghe điều này từ chính miệng cô trước khi chúng ta tiến xa hơn”.

“Bọn khủng bố đã tuyên chiến với chúng ta”, cô nói. “Chúng đã tấn công thành phố, tàn sát dân cư, và cố gắng làm gián đoạn hoạt động của chính phủ”.

“Nếu vậy thì chúng ta nên làm gì với chúng?”

“Chúng phải bị nghiêm trị”.

“Điều này có nghĩa là gì?”

“Những người mặc đồ đen. Lực lượng Đặc nhiệm. Tên lửa phóng từ máy bay không người lái”.

“Còn gã đứng đằng sau cung cấp tiền cho bọn chúng thì sao? Hắn ta có tội không? Nếu vậy thì đến mức nào?”

“Tôi cho rằng điều này phụ thuộc vào việc liệu ông ta có biết tiền dùng vào mục đích gì”.

“Nếu hắn ta biết rất rõ tiền được dùng vào mục đích gì?”

“Nếu thế thì hắn ta cũng có tội như gã đã lái máy bay đâm vào toà nhà”.

“Cô có cảm thấy thoải mái - thật ra là cảm thấy mình đúng khi chống lại một kẻ như thế không?”

“Tôi đã đề nghị giúp đỡ cách đây năm năm”, cô giận dữ nói. “Các ông bảo tôi không đủ điều kiện. Các ông bảo tôi không phù hợp làm loại công việc này. Còn bây giờ các ông muốn tôi giúp đỡ ư?”

Carter không chút cảm xúc khi nghe lời phản đối của cô. Sarah cảm thấy tội nghiệp cho vợ ông ta.

“Cô đề nghị giúp đỡ chúng tôi, còn chúng tôi đối xử với cô chẳng ra gì. Tôi e rằng chỉ có điều đó là chúng tôi làm giỏi nhất. Có lẽ tôi nên nói tiếp về việc chúng tôi đã sai lầm, hay cố gắng xoa dịu cảm xúc của cô bằng một lời xin lỗi không chân thành. Nhưng nói thật, thưa cô Bancroft, chúng tôi không còn thời gian”. Giọng ông ta đượm vẻ căng thẳng mà trước đó không có. “Vì vậy tôi nghĩ điều tôi cần bây giờ là một câu trả lời thẳng thắn. Cô vẫn muốn giúp đỡ chúng tôi chứ? Cô muốn chống lại bọn khủng bố, hay cô thích tiếp tục với cuộc sống của mình hơn và hi vọng điều như thế sẽ không bao giờ xảy ra một lần nữa?”

“Chiến đấu?”, cô hỏi. “Tôi nghĩ ông có thể tìm người thích hợp với điều này hơn tôi”.

“Có nhiều cách chống lại bọn chúng, Sarah”.

Cô do dự. Carter lấp đầy khoảng trống im lặng bằng việc nhìn chăm chú bàn tay của mình. Ông không phải loại người lặp lại câu hỏi hai lần. Về điều này ông rất giống cha cô. “Vâng”, cuối cùng cô nói. “Tôi rất sẵn lòng”.

“Nếu công việc này liên quan đến cục tình báo khác không phải là Cục Tình báo Trung ương thì sao?”, ông ta hỏi, tựa như đang thảo luận về một giả thuyết xa xôi nào đó. “Một Cục Tình báo là đồng minh chặt chẽ của chúng ta trong trận chiến chống lại bọn khủng bố

Hồi giáo?”

“Vậy Cục Tình báo đó là của nước nào?”

Carter rất giỏi lảng tránh câu trả lời. Bây giờ một lần nữa ông ta lại chứng minh điều này.

“Tôi muốn cô gặp một người. Anh ta là người rất nghiêm túc. Có vẻ hơi căng thẳng. Anh ta sẽ hỏi cô một vài câu. Thật ra anh ta sẽ tìm hiểu kỹ về cô trong vài tiếng tới. Đôi lúc câu hỏi của anh ta động vào những việc riêng tư. Nếu anh ta đồng ý, anh ta sẽ yêu cầu cô giúp đỡ chúng tôi trong một công việc rất quan trọng. Công việc này có nhiều nguy hiểm, nhưng rất quan trọng đối với an ninh nước Mỹ, nên nhận được sự hỗ trợ hoàn toàn của Cục. Nếu cô cảm thấy quan tâm, hãy ngồi lại nơi này. Nếu không, hãy đi ra cửa. Chúng tôi sẽ giả vờ như cô tình cờ bước vào nhầm chỗ”.

Sarah không biết Carter xưng hô với anh ta thế nào, cô cũng không đoán được anh ta từ đâu đến. Người anh ta nhỏ và gầy, tóc cắt ngắn kiểu quân đội, nhưng lại bạc hai bên thái dương. Đôi mắt của anh ta xanh đến mức Sarah chưa từng thấy bao giờ. Anh ta có cách bắt tay nhanh giống Carter, nhưng nó có vẻ thăm dò giống cách bắt tay của bác sỹ. Anh ta nói tiếng Anh trôi chảy bằng một giọng rất nặng. Chắc chắn anh ta có tên, nhưng chưa tiết lộ.

Họ ngồi xuống chiếc bàn dài trong phòng khách trang trọng, Carter và người hợp tác vô danh ngồi một bên, còn Sarah ngồi bên kia giống như nghi phạm đang ngồi trong phòng thẩm vấn. Trong tay người hợp tác bây giờ là hồ sơ xin vào CIA của cô. Anh ta đang đọc chậm từng trang giống như mới thấy chúng lần đầu. Câu hỏi đầu tiên của anh giống như một lời buộc tội nhẹ.

“Cô viết luận văn tiến sỹ tại Harvard về đề tài Các họa sỹ Biểu hiện của Đức”.

Để bắt đầu câu chuyện thì đây là một cách khá lạ lùng. Cô muốn hỏi tại sao anh lại quan tâm đến đề tài luận văn của cô, nhưng thay vì thê cố chỉ đơn giản gật đầu trả lời. “Vâng, đúng vậy”.

“Trong khi nghiên cứu, cô đã bao giờ gặp cái tên Viktor Frankel chưa?”

“Ông ấy là môn đồ của Max Beckmann”, cô đáp. “Ngày nay người ta ít biết đến Frankel, nhưng trước đây ông ta gây ảnh hưởng khá lớn và được giới hội họa đương thời coi trọng. Năm 1936, Đức Quốc xã tuyên bố tranh của ông suy đồi, và ông bị cấm vẽ tranh. Không may, ông vẫn quyết định ở lại Đức. Đến khi ông muốn rời bỏ đất nước thì đã quá muộn. Frankel bị trục xuất đến Auschwitz năm 1942 cùng với vợ và con gái tuổi thiếu niên, Irene. Cuối cùng, chỉ mình Irene sống sót. Bà đến Israel sau chiến tranh và trở thành một trong những họa sỹ gây ảnh hưởng lớn nhất nước vào những năm 50 và 60. Hình như bà đã mất cách đây vài năm”.

“Đúng vậy”, người hợp tác với Carter nói, mắt anh ta vẫn chăm chú nhìn hồ sơ của Sarah.

“Tại sao ông lại hỏi tôi có biết về Viktor Frankel không?”

“Bởi vì ông ấy là ông ngoại tôi”.

“Ông là con trai của Irene?”

“Đúng vậy”, anh ta trả lời. “Irene là mẹ tôi”.

Cô nhìn sang Carter, ông này đang ngắm tay mình. “Tôi nghĩ mình biết ai đang thực hiện phi vụnày của ông”. Cô quay lại người đàn ông với tóc mái điểm bạc và đôi mắt xanh biếc. “Ông là người Israel”.

“Đúng vậy. Chúng ta tiếp chứ, Sarah, hay cô muốn tôi đi ra?”

Cô do dự một lúc, sau đó gật đầu. “Tôi được phép biết tên ông chứ, hay tên ông là điều cấm kỵ?”

Anh cho cô biết tên mình. Cái tên này có vẻ quen quen. Sau đó cô chợt nhớ ra mình đã thấy tên này ở đâu. Điệp viên người Israel có liên quan đến vụ nổ bom nhà ga Lyon ở Paris…

“Ông là người đã…”

“Đúng vậy”, Gabriel thừa nhận. “Tôi chính là người đó”.

Anh lại nhìn xuống hồ sơ đang mở và lật sang trang mới. “Chúng ta hãy quay trở lại với cô được không? Chúng ta có nhiều thứ cần phải biết nhưng lại rất ít thời gian”.

Gabriel bắt đầu chậm rãi, giống như một người đang đi xuống dốc đồi, để dành sức lực cho những nguy hiểm ở phía trước. Những câu hỏi của anh ngắn, hiệu quả, và được đặt ra một cách có hệ thống, giống như đang được đọc từ danh sách câu hỏi đã chuẩn bị sẵn, nhưng sự thực không có danh sách này. Anh dành giờ đầu tiên hỏi về gia đình cô. Cha cô, một người điều hành cấp cao ở Citicorp rất thiếu thốn thời gian dành cho con cái nhưng lại dư thừa cho những người phụ nữ khác. Mẹ cô, suy sụp sau vụ ly dị và bây giờ đang sống như một ẩn sĩ tại căn hộ chung cư ba phòng ngủ ở Manhattan trên đại lộ số 5. Chị gái của cô, người theo như Sarah mô tả, “giành hết thông minh và sắc đẹp trong nhà”. Em trai cô đã rút lui khỏi cuộc sống từ hồi còn trẻ, và khiến cha cô thất vọng vì đang hùng hục làm việc chỉ để kiếm những đồng xu lẻ trong một cửa hàng bán đồ trượt tuyết ở một nơi nào đó thuộc Colorado.

Sau chuyện gia đình, thêm một giờ nữa được dành để hỏi về chuyện học hành tốn kém tại châu Âu. Trường Mỹ ở khu John’s Wood, nơi cô học những năm tiểu học. Trường cấp hai quốc tế ở Pháp, nơi cô học cách nói tiếng Pháp và gặp rắc rối. Trường nội trú nữ ở ngoại ô Geneva, nơi cha đã tống cô vào đấy nhằm mục đích “trừng phạt”. Cô nói thêm rằng chính ở Thụy Sĩ cô đã khám phá ra là mình đam mê nghệ thuật. Những câu trả lời của cô được ghi sột soạt lên giấy. Anh viết bằng mực đỏ trên quyển sổ có màu hoa hướng dương. Ban đầu cô nghĩ anh đang viết tắt bằng một loại chữ tượng hình nào đó. Sau đó, cô phát hiện ra anh đang ghi chú bằng tiếng Do Thái. Anh ghi chú từ phải sang trái, và có thể viết bằng hai tay với tốc độ nhanh như nhau, khiến cô càng thêm chắc chắn về cảm giác ban đầu là mình đã gặp một nhân vật bí ẩn như bóng ma.

Thỉnh thoảng, dường như Gabriel có tất cả thời gian trên đời; những lúc khác anh lại cau mày nhìn đồng hồ đeo tay cau mày, tựa như tính toán xem họ còn gắng đi được bao lâu nữa trước khi hạ trại nghỉ đêm. Thỉnh thoảng anh nói bằng những ngôn ngữ khác. Tiếng Pháp của anh khá tốt. Tiếng Ý không chê vào đâu được nhưng vẫn có chút âm sắc cho thấy anh ta không phải là người bản xứ. Khi Gabriel nói với cô bằng tiếng Đức, một sự thay đổi phủ lên người anh ta. Lưng dựng thẳng. Khuôn mặt đanh lại đến mức khắc nghiệt. Cô luôn trả lời Gabriel bằng thứ ngôn ngữ mà anh hỏi, mặc dù những lời cô nói đều được ghi lại bằng tiếng Do Thái. Hầu như anh không làm khó cô, nhưng bất cứ sự không nhất quán nào trong câu trả lời, cho dù có thật hay do anh nghĩ là có, đều được anh chất vấn như công tố viên trước tòa.

“Niềm đam mê nghệ thuật này đến từ đâu?”, anh hỏi. “Tại sao lại là nghệ thuật? Tại sao không phải văn học hay âm nhạc? Tại sao không phải là phim hay kịch?”

“Hội họa trở thành nơi trốn lánh cho tôi. Một nơi trang nghiêm, bí ẩn”.

“Trốn khỏi cái gì?”

“Cuộc sống thực tại”.

“Cô là một cô gái giàu có đi học ở những trường danh tiếng nhất châu Âu. Cuộc đời cô có gì không ổn?”. Anh chuyển từ tiếng Anh sang tiếng Đức với giọng buộc tội. “Cô chạy trốn khỏi điều gì?”

“Ông đang đánh giá tôi”, cô trả lời bằng cùng ngôn ngữ.

“Dĩ nhiên”.

“Chúng ta nói chuyện bằng tiếng Anh được không?”

“Nếu cô thấy thoải mái hơn”.

“Tranh vẽ mở ra những chân rời khác, những cuộc sống khác. Nó lưu giữ những khoảnh khắc chỉ tồn tại trong nó mà thôi”.

“Cô thích đến sống ở những chân trời ấy”.

Đây là một sự quan sát, không phải câu hỏi. Cô gật đầu thừa nhận.

“Cô muốn sống cuộc đời khác? Trở thành những người khác? Cô muốn đi dạo trên những cánh đồng lúa mạch của Vincent và những khu vườn hoa của Monet?”

“Cả những cơn ác mộng của Frankel”.

Lần đầu tiên anh ngừng bút trong cuộc phỏng vấn. “Đây có phải là lí do khiến cô nộp đơn gia nhập Tổ chức? Bởi vì cô muốn sống cuộc đời khác? Bởi vì cô muốn trở thành người khác?”

“Không, tôi xin gia nhập vì muốn phục vụ Tổ quốc”.

Anh cau mày nhìn cô không đồng tình, tựa như thấy câu trả lời của cô quá ngây thơ, sau đó, anh nhìn xuống đồng hồ. Thời gian là kẻ thù của anh.

“Trong những năm tháng sống ở châu Âu, cô đã bao giờ gặp người Arập chưa?”

“Dĩ nhiên”.

“Con trai hay con gái?”

“Cả hai”.

“Loại Arập nào?”

“Loại Arập đi trên hai chân. Loại Arập của nước Arập”.

“Cô quen nhiều hơn thế, Sarah”.

“Người Libăng, Palestine, Gioócđan, người Ai Cập”.

“Còn người Arập Xêút thì sao? Cô đã bao giờ học cùng trường với người Arập Xêút chưa?”

“Có một vài cô gái Arập Xêút học cùng tôi ở trường Thụy Sĩ”.

“Những cô gái Arập Xêút này đều giàu có chứ?”

“Chúng tôi ai cũng giàu”.

“Cô có kết bạn với họ không?”

“Họ rất khó gần và không thân thiện. Họ chỉ chơi với nhau”.

“Thế còn những chàng trai Arập?”

“Họ thì sao?”

“Cô đã bao giờ làm bạn với họ chưa?”

“Rồi”.

“Đã bao giờ hẹn hò chưa? Hay ngủ với họ?”

“Chưa”.

“Tại sao chưa?”

“Có thể do sở thích của tôi không phải là những người đàn ông Arập ”.

“Cô có bạn trai người Pháp chứ?”

“Vài người”.

“Bạn trai người Anh?”

“Chắc chắn rồi”.

“Nhưng không có người Arập?”

“Không”.

“Cô có thành kiến với người Arập?”

“Ông đừng ngớ ngẩn thế”.

“Vậy thì có thế kết luận cô đã có thể hẹn hò với người Arập. Cô chỉ không thích làm điều này”.

“Tôi hi vọng ông không yêu cầu tôi làm mồi nhử trong bẫy tình cảm bởi vì…“

“Cô đừng ngớ ngẩn thế”.

“Vậy tại sao ông lại hỏi tôi những câu hỏi này?”

“Bởi vì tôi muốn biết liệu cô có cảm thấy thoải mái trong hoàn cảnh làm việc và giao tiếp xã hội với đàn ông Arập không”.

“Câu trả lời là có”.

“Khi gặp một người Arập, liệu cô có bất giác nghĩ đến khủng bố không?”

“Không”.

“Cô có chắc về điều này không, Sarah?”

“Tôi nghĩ rằng điều này còn phụ thuộc vào việc ông đang muốn nói đến loại người Arập nào”.

Anh nhìn đồng hồ. “Trễ rồi”, anh không nói với ai cụ thể. “Tôi chắc rằng Sarah đáng thương đã đói bụng lắm rồi”. Anh gạch ngang một đường đỏ đậm trên sổ tay. “Chúng ta gọi thức ăn đi. Sarah sẽ cảm thấy đỡ hơn sau khi đã có thứ gì vào bụng”.

Họ gọi kebabs từ tiệm giao hàng tận nơi ở trung tâm Georgetown. Hai mươi phút sau thức ăn được chuyển đến trong cùng chiếc Suburban đưa Sarah đến ba giờ trước. Gabriel xem việc chiếc xe tái xuất hiện như là tín hiệu bắt đầu cuộc phỏng vấn ban đêm. Trong vòng hai mươi phút kế tiếp anh chú trọng vào việc học và kiến thức của cô về lịch sử nghệ thuật. Câu hỏi của anh đặt nhanh đến nỗi cô hầu như không có thời gian để ăn. Còn về phần mình, anh cũng không đụng đến phần kebab đặt kế bên quyển sổ tay màu vàng. Anh ta là người khổ hạnh, cô nghĩ. Anh ta không màng đến thức ăn. Anh ta sống trong một căn phòng không có đồ đạc và tồn tại nhờ bánh mì và nước lã. Gần nửa đêm anh ta mang đĩa thức ăn vào nhà bếp và đặt lên quầy. Khi trở lại phòng khách anh đứng sau ghế một lúc, tay đỡ cằm và đầu hơi nghiêng sang một bên. Ánh đèn chùm đã khiến mắt anh chuyển sang màu xanh ngọc lục bảo. Đôi mắt ấy liên tục dõi lên cô như đèn pha.Anh ta sắp sửa khiến mọi việc tiến đến cao trào, cô nghĩ. Anh ta đang chuẩn bị tấn công lần cuối.

“Hồ sơ cho biết cô chưa lập gia đình”.

“Đúng vậy”.

“Hiện tại cô có đang quen ai không?”

“Không”.

“Có đang ngủ cùng ai không?”

Cô nhìn Carter, và ông ta nhìn lại cô buồn bã, tựa như nói với cô rằng. Tôi đã bảo cô những câu hỏi có thể hơi riêng tư.

“Không, tôi không ngủ với ai”.

“Tại sao không?”

“Ông đã bao giờ mất người thân nào chưa?”

Ánh mắt tối sầm đột nhiên bao phủ khuôn mặt anh, cộng với việc Carter chuyển tư thế ngồi một cách không thoải mái, điều đó cảnh báo cô rằng cô đã lạc bước vào vùng cấm.

“Tôi xin lỗi”, cô nói. “Tôi không…“

“Ben phải không? Ben là lý do cô không quen ai?”

“Vâng, đúng là Ben. Dĩ nhiên chính vì Ben”.

“Hãy kể cho tôi nghe về anh ấy”.

Cô lắc đầu. “Không”, cô nói khẽ. “Ông không thể hỏi về Ben. Ben là của tôi. Ben không phải là công việc”.

“Hai người hẹn hò với nhau bao lâu?”

“Tôi đã bảo ông…“

“Cô hẹn hò với anh ta bao lâu, Sarah? Chuyện này rất quan trọng, nếu không tôi đã không hỏi”.

“Khoảng chín tháng”.

“Sau đó chấm dứt à?”

“Vâng, mọi chuyện đã chấm dứt”.

“Cô đã nói lời chia tay phải không?”

“Đúng vậy”.

“Ben yêu cô. Anh ta muốn cưới cô”.

“Đúng vậy”.

“Nhưng cô không chung cảm giác với anh ta. Cô không thích hôn nhân. Có lẽ cô không quan tâm đến Ben nhiều lắm”.

“Tôi rất lo cho anh ấy…”

“Nhưng?”

“Nhưng tôi không yêu anh ấy”.

“Hãy kể cho tôi nghe về cái chết của Ben”.

“Ông nói đùa à?”

“Tôi rất nghiêm túc”.

“Tôi không nói về cái chết của anh ấy. Tôi không bao giờ nói về cái chết của anh ấy. Vả chăng, các ông cũng đã biết anh ấy chết như thế nào. Anh ấy chết lúc chín giờ ba phút sáng, trực tiếp trên truyền hình. Mọi người trên thế giới đều chứng kiến anh ấy chết như thế nào. Ông có trong số đó không?”

“Một vài hành khách trên chuyến bay 175 có thể gọi điện thoại”.

“Đúng vậy”.

“Ben là một trong số đó?”

“Đúng”.

“Anh ấy gọi cho cha à?”

“Không”.

“Anh ấy gọi cho mẹ mình à?”

“Không”.

“Anh trai? Chị gái?”

“Không”.

“Anh ấy gọi cho ai, Sarah?”

Mắt cô đẫm lệ.

“Anh ấy gọi cho tôi, ông đúng là đồ chó hoang khi hỏi như vậy đấy”.

“Anh ấy nói gì với cô?”

“Anh ấy bảo máy bay đã bị không tặc tấn công. Anh ấy bảo bọn chúng đã giết hết tiếp viên. Anh ấy bảo máy bay đang di chuyển rất kì lạ. Anh ấy bảo yêu tôi và rất tiếc. Anh ấy sắp chết, nhưng lại bảo với tôi rằng mình rất tiếc. Sau đó chúng tôi mất liên lạc”.

“Cô đã làm gì?”

“Tôi bật tivi thấy khói bốc lên từ tòa tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại thế giới. Tôi bật lên chậm vài phút sau khi chuyến bay 11 đâm vào tòa tháp. Không ai biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Tôi gọi FAA nói với họ về cuộc gọi của Ben. Tôi gọi FBI. Tôi gọi cảnh sát Boston. Tôi cảm thấy mình thật vô dụng”.

“Sau đó thì sao?”

“Tôi xem truyền hình. Tôi chờ chuông điện thoại reo lần nữa. Chuông điện thoại không reo. Vào chín giờ ba phút sáng giờ ban ngày miền đông, chiếc máy bay thứ hai tông vào Trung tâm Thương mại. Toà Tháp phía nam đang bốc cháy. Ben đang bốc cháy”.

Một giọt nước mắt lăn chầm chậm trên má cô. Cô chùi đi và nhìn anh giận dữ.

“Ông hài lòng chưa?”

Anh im lặng.

“Bây giờ đến lượt tôi đặt câu hỏi. Các ông nên trả lời đúng sự thật, nếu không tôi sẽ bước ra khỏi nơi này không bao giờ quay trở lại”.

“Cô hãy hỏi bất cứ điều gì mình đang thắc mắc, Sarah”.

“Anh muốn điều gì ở tôi?”

“Chúng tôi muốn cô bỏ việc chỗ bảo tàng Phillips và đến làm cho Tập đoàn Thánh chiến. Cô vẫn còn có hứng thú chứ?”

o O o

Carter là người đặt bản hợp đồng trước mặt Sarah cho cô ký. Carter có tính thẳng thắn của người theo Thanh Giáo. Hôm nay ông ta mặc chiếc áo thể thao bằng nhung sặc sỡ. Carter có cách cư xử giống như bác sỹ trị liệu và nói tiếng Anh theo giọng Mỹ. Gabriel lẻn ra ngoài giống như tên trộm đêm, đến bên chiếc xe Volvo cũ rích của Carter. Anh biết câu trả lời của Sarah là gì. Cô ấy đã trả lời rõ ràng. Tòa tháp phía Nam đang bốc cháy, cô ấy đã nói. Ben đang bốc cháy. Vì thế Gabriel không quan tâm đến khuôn mặt như ra pháp trường hai mươi phút sau khi cô bước ra khỏi tòa nhà một cách nặng nề, bước xuống cầu thang, chui vào chiếc xe Suburban màu đen đang chờ sẵn. Anh cũng không bị xáo động khi nhìn thấy Carter, năm phút sau đó, băng qua đường với khuôn mặt đầy suy tư và trang nghiêm như người đang mang bình tro hài cốt. Ông ngồi vào đằng sau tay lái mở máy xe. “Máy bay đang chờ tại phi trường Andrews để đưa anh về lại Israel”, ông nói. “Trên đường ra sân bay chúng ta phải ghé qua một nơi. Có người muốn nói chuyện với anh trước khi anh đi”.

o O o

Trời đã quá nửa đêm. Đường K bây giờ chỉ còn xe tải chở hàng và xe tắc xi chạy đêm. Carter lái xe nhanh hơn thường lệ và liên tục nhìn đồng hồ. “Cô ấy không làm việc này miễn phí, anh biết đấy. Sẽ có nhiều khoản chi trong việc dùng cô ấy. Cô ấy sẽ phải sống ở nơi khác khi chuyện này kết thúc và được bảo vệ trong một thời gian dài”.

“Nhưng ông thu xếp được chuyện này mà, đúng không Adrian? Các ông là những người có nhiều tiền. Ngân sách cho việc bảo vệ an ninh nước Mỹ không thôi cũng đã lớn hơn nhiều ngân sách của toàn bộ đất nước chúng tôi”.

“Anh quên rằng lần hành động này không tồn tại à? Thêm nữa, anh sẽ bước ra khỏi vụ này và lấy được nhiều tiền của Zizi”.

“Được rồi”, Gabriel nói. “Vậy ông đi mà nói với Sarah Bancroft cô ấy sẽ sống mười năm tiếp theo trong khu định cư Do Thái ở Galilee để trốn tránh sự truy sát của lực lượng Thánh chiến toàn cầu”.

“Được rồi, chúng tôi sẽ trả tiền cho việc ăn ở sau này của cô ấy”.

Carter quẹo vài lần. Trong một lúc Gabriel không kịp nhận ra họ đang ở trên đường nào. Họ đi qua mặt trước của một toà nhà tân cổ điển, sau đó quẹo vào một con đường nhỏ nhìn có vẻ trang trọng. Bên trái là trạm canh gác lắp kính chống đạn. Carter hạ cửa sổ xe đưa thẻ cho lính canh xem.

“Chúng tôi có hẹn trước”.

Người lính gác nhìn bảng, sau đó đưa thẻ lại cho Carter.

“Ông lái xe tiếp, sau đó dừng lại trước barie bên trái. Chó nghiệp vụ sẽ đánh hơi xe hơi, sau đó ông tiếp tục lái xe vào”.

Carter gật đầu và nâng kính xe lên. Gabriel hỏi, “Chúng ta đang ở đâu?”

Carter lái xe vòng qua những hàng rào cản và dừng lại nơi được dặn. “Cửa sau Nhà Trắng”, ông trả lời.

“Chúng ta sẽ gặp ai?”. Gabriel hỏi, nhưng Carter còn bận nói chuyện với một sỹ quan khác. Người này đang cố giữ con chó chăn cừu Đức cứ nhăm nhe căng dây muốn lao tới. Gabriel, người sợ chó đến mức đã thành truyền thuyết trong Văn phòng, ngồi yên không động đậy khi con chó đánh hơi quanh chiếc Volvo để tìm chất nổ được giấu kín. Một lát sau, họ băng qua một cổng gác an ninh khác. Carter dừng xe trước bãi đậu xe trống trải ở con đường nội bộ phía đông và tắt máy.

“Tôi chỉ đi đến đây”.

“Tôi sẽ gặp ai, Adrian?”

“Anh băng qua cánh cổng đằng kia và đi lên con đường dẫn đến toà nhà. Ông ấy sẽ ra gặp anh ngay lập tức”.

Anh gặp những con chó trước. Hai con chó lai lông đen tuyền lao ra từ lối vào ngoại giao giống như hai viên đạn bắn ra từ nòng súng rồi giành nhau ngửi khắp quần của Gabriel. Vài phút sau Tổng thống bước ra. Ông tiến về phía Gabriel, chìa một tay cho anh trong khi tay còn lại ra dấu cho lính gác dừng cuộc kiểm tra. Hai người nhanh chóng bắt tay, sau đó đi dọc theo lối đi bọc quanh bãi cỏ phía nam. Những con chó tấn công lần nữa vào mắt cá chân Gabriel. Carter thấy Gabriel quay người lại nói thầm câu gì đó bằng tiếng Do Thái khiến hai con chó cúp đuôi chạy về phía nhân viên Cục An ninh tìm sự che chở.

Cuộc nói chuyện của họ chỉ diễn ra trong vòng năm phút. Theo Carter thấy thì hình như Tổng thống là người nói trong phần lớn thời gian. Họ đi nhanh, chỉ dừng lại một lần dường như để giải quyết một bất đồng nhỏ. Gabriel lấy tay ra khỏi túi áo và dùng chúng để minh họa cho quan điểm của mình. Ban đầu Tổng thống có vẻ như không bị thuyết phục, nhưng sau đó ông gật đầu và vỗ mạnh vào vai Gabriel.

Họ đi dạo xong vòng đầu tiên và chia tay tại lối vào ngoại giao. Khi Gabriel đi về phía đường nội bộ phía đông, những con chó chạy nhanh theo anh, sau đó quay ngược lại, lao vào Nhà Trắng theo chân chủ nhân. Gabriel trườn người qua cánh cửa đang mở để vào xe Carter.

“Ông ấy thế nào?”. Carter hỏi khi quẹo sang đường 15.

“Rất kiên quyết”.

“Hình như hai người có tranh cãi một chút”.

“Tôi gọi đây là bất đồng trong lịch sự”.

“Về chuyện gì?”

“Cuộc nói chuyện của chúng tôi là riêng tư, Adrian, và sẽ là như thế”.

“Tốt đấy”, Carter đáp.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play