Christian không tổ chức nhiều bữa tối. Và nếu có, nữ công tước quả phụ thường trông nom mọi sự chuẩn bị cần thiết. Nhưng đối với bữa tối đặc biệt này, anh giám sát mọi chi tiết.
Anh đã loại rất nhiều phòng ăn tối riêng vì quá ngột ngạt hoặc trang trí quá cầu kỳ. Và khi anh đã chọn được phòng, anh yêu cầu khách sạn thay bức tranh tĩnh vật nghiêm trang trên tường bằng một bức tranh phong cảnh nhắc nhở đến bức tranh trong phòng Victoria trên tàu. Thay vì hoa, anh ra lệnh đặt một bức tượng cá heo đang nô đùa bằng băng. Anh cũng chỉ chị không dùng đèn điện sáng chói, mà chỉ dùng đèn nến – và cũng không phải nến bằng mỡ mà là loại nến sáp ong thượng hạng nhất.
Anh trả lại thực đơn đề xuất với chỉ dẫn rằng nó phải bao gồm một món nước dùng trong, một món cá bơn hấp nước luộc thịt, vịt om, đùi cừu ướp gia vị nướng, thịt thăn nai… và không gì nữa. Điều này làm người đầu bếp cảm thấy mất lòng, ông ta rõ ràng tin rằng một bữa tối lãng mạn nên được chuẩn bị như một bữa yến tiệc linh đình.
Ve vẩy ngón tay với Lexington, ông ta tuyên bố: Tình yêu cần được bổ sung nhiều thức ăn và chất béo. Đức ngài đã quá gầy. Buổi đêm của đức ngài với quý bà rồi sẽ giống như hai bộ xương kêu lạch cạch trong một phòng thí nghiệm y học mà thôi!
Lexington không nhượng bộ - anh không hề có ý định cho quý bà của mình ăn đến hôn mê. Cuối cùng, người đàn ông Pháp chấp nhận từ bỏ những món chính. Nhưng ông ta sẽ không giới hạn những món tráng miệng – không thể nào có kiểu phục vụ hoa quả tươi vớ vẩn. Món tráng miệng sẽ bao gồm bánh charlotte russe, caramen, bánh trứng phồng vị va-ni, bánh mousse sô-cô-la, bánh nhân lê, và một cái bánh ga-tô mặn.
“Chúng tôi sẽ phải ăn cho đến lúc bình minh,” Lexington nói, không thể không ngưỡng mộ sự hết lòng của người đàn ông đó và những ý tưởng của ông ta.
Người đầu bếp hôn lên tay anh. “Và sau đó, ngài sẽ trở thành người tình tuyệt vời hơn, thưa ngài.”
Christian đến bữa tối sớm hơn nửa giờ. Bàn ăn đã được bày biện khi anh bước vào phòng: Bát pha lê, lọ đựng muối bằng bạc, bát có chân đựng nho, vả và anh đào đặt cách đều nhau trên tấm vải lụa đa-mát màu xanh.
Sự chờ đợi này không hề giống với sự chờ đợi dễ chịu trên tàu Rhodesia. Tính anh vốn rất trầm tĩnh, một quý ông không sốt ruột, nhưng rất nhiều lần anh phải thôi nhịp tay trên ngưỡng cửa sổ. Anh muốn uống nước và hút thuốc. Anh muốn thay rèm cửa khác cho căn phòng này. Anh muốn thay đổi bức tranh lần nữa.
Giá như cô đến, mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn.
Nhưng nếu cô không đến thì sao?
Nến đã thắp lên; những chiếc ly lấp lánh trong ánh sáng dìu dịu. Bức tượng băng đã được mang vào, những chú cá heo duyên dáng nhảy lên từ những làn sóng băng. Một chai sâm-banh sáu mươi năm tuổi trang trọng đặt trên tủ búp-phê, sẵn sàng mở nút vào giây phút cô xuất hiện.
Lẽ ra cô phải có mặt. Phép xã giao yêu cầu khách mời đến bữa tối ít nhất mười lăm phút trước giờ đã định, nếu không vì cái gì khác cũng vì sự tôn trọng cho tính chất mong manh của món bánh trứng phồng[1].
[1] Một món bánh làm từ trứng và sữa, khi mới làm xong thường phồng rất to, nhưng lại nhanh bị xẹp, nên thường phải dùng ngay khi làm xong.
Hay là phong tục của các nước lục địa châu Âu lại khác? Anh phải biết chứ - anh đã sống ở lục địa châu Âu. Nhưng anh không thể nghĩ. Đầu óc anh đang ở trong tình trạng trống rỗng, đang ngân lên một nỗi sợ hãi chính đáng.
Tám giờ, một nhân viên khách sạn dè dặt hỏi đức ngài đã muốn bắt đầu phục vụ bữa tối hay chưa.
“Mười lăm phút nữa,” anh nói.
Khi mười lăm phút nữa trôi qua, anh đưa ra chỉ thị y như thế.
Tám giờ rưỡi, không ai hỏi anh bất cứ điều gì. Những nhân viên khách sạn đã lảng vảng quanh đó nửa giờ đồng hồ trước, lúc này đã tự động rút lui. Một chai uýt-ki xuất hiện từ nơi nào đó. Cùng với thuốc lá, diêm, và một khay gạt tàn mạ cần ngà voi.
Cô đã hứa. Chẳng lẽ lời hứa đối với cô có giá trị ít ỏi như thế sao? Và nếu ngay từ đầu cô đã có ý định không giữ lời hứa, tại sao không gửi thư và cho anh biết?
Có phải điều gì đó xảy ra với cô? Có phải cô đang ốm và nằm ở nơi nào đó mà không được chăm sóc? Nhưng rồi, cô có thể viết thư, và anh sẽ ở bên cạnh cô trong mỗi nhịp đập trái tim.
Nhưng anh đang giả sử là cô có khả năng và tự do để liên lạc. Nếu cô đang bị giám sát chặt chẽ sau khi về đến nhà thì sao?
Anh khổ sở cân nhắc khả năng đó rất lâu trước khi nhận ra rằng lý do đó thống thiết đến mức kỳ cục như thế nào. Một phụ nữ chịu sự giám sát như thời trung cổ như thế sẽ không bao giờ được phép vượt Đại Tây Dương một mình, đừng nói đến hẹn hò công khai trước sự chứng kiến của tất cả hành khách trên tàu.
Lý do giải thích cho sự vắng mặt của cô đã rõ ràng ngay từ đầu, nhưng anh không muốn chấp nhận nó: Cuộc tình này không có ý nghĩa gì với cô. Anh mới là người bị bỏ bùa mê cả thể xác và tâm hồn. Đối với cô, anh chỉ là một nguồn giải trí tạm thời, một cách để giết khoảng thời gian dài khủng khiếp giữa đại dương.
Anh là người thúc ép họ kéo dài cuộc tình sau chuyến đi. Anh là người đã dâng tặng trái tim, lời cầu hôn, và mọi bí mật. Cô thậm chí chưa từng cho anh biết tên thật.
Và tất nhiên, chưa bao giờ lộ diện.
Không, anh không thể nghi ngờ cô. Nếu anh nghi ngờ cô, thì cũng giống như anh nghi ngờ mình không có khả năng đánh giá bất kỳ cái gì. Sự việc chắc hẳn giống như anh đã sợ, nếu cô đã nghe về bà Easterbrook. Chúa tôi, nếu ngày hôm qua cô nhìn thấy họ ngồi trên xe ngựa cùng nhau thì sao? Cảnh tượng anh nhìn bà Easterbrook sẽ bác bỏ tất cả những gì anh đã nói với cô về việc đã để lại những ám ảnh sau lưng.
Và ngay cả nếu cô không nhìn và nghe thấy gì, anh có còn xứng đáng với cô không, anh, người đã đến bữa tối với những lời nói của bà Easterbrook vẫn còn vang vọng trong tai? Ngài không biết tính cách của tôi, thưa ngài. Thứ duy nhất ngài biết là khuôn mặt tôi.
Đêm qua anh lại mơ về bà Easterbrook, một khung cảnh gia đình thậm chí còn đáng lo ngại hơn: Hai người họ đang ngồi trước lò sưởi đang cháy, anh viết thư, cô ta đọc một cuốn sách dày trông như thể đã lấy từ thư viện của anh. Hết lần này đến lần khác, anh ở trong mơ ngước mắt lên và ngắm nhìn cô ta. Ngoại trừ rằng, thay vì cảm giác chiếm hữu nóng bỏng, khó chịu trào dâng vẫn ám ảnh anh dạo gần đây, thì anh chỉ cảm thấy sự mãn nguyện đơn thuần được nhìn thấy cô ta ở bên cạnh mình.
Anh không hề mơ về nữ nam tước.
Anh vẫn miễn cưỡng theo dõi những xe ngựa chạy đến đỗ trước cửa khách sạn. Giao thông Luân Đôn có tiếng tệ hại vào những thời điểm nhất định trong ngày. Nếu tắc đường sẽ mất rất nhiều thời gian để việc đi lại trở lại bình thường. Có lẽ cô đã bị mắc kẹt trong một vụ tắc đường. Có lẽ cô đang nhấp nhổm sốt ruột ngay cả khi anh đang dần dần chìm vào tuyệt vọng. Có lẽ…
Đột nhiên anh nhận ra rằng trong phòng không phải chỉ có một mình mình. Anh quay phắt lại, hy vọng và sợ hãi rối tung lên trong ngực anh.
Nhưng đó không phải là cô, mà chỉ là một người khuân vác mặc đồng phục của khách sạn.
“Thưa đức ngài, có đồ chuyển đến cho ngài.”
Trong ba giây tiếp theo, anh vẫn dám cho phép mình được hy vọng. Có lẽ cô muốn xuất hiện thật ấn tượng. Có lẽ cô muốn được đưa vào như Cleopatra, bọc mình trong một tấm thảm sang trọng. Có lẽ…
Ba nhân viên khuân vác đang làu bàu kéo một chiếc xe kéo tay.
Một khe nứt mở ra trước mặt và trái tim anh rơi vào đó. Không cần phải mở lớp gói bằng vải dầu. Anh nhận ra phiến đá nhờ vào kích thước và trọng lượng. Cô đã trả lại món quà của anh. Cô không muốn có liên quan gì đến anh nữa.
Nửa giờ sau công tước rời khỏi khách sạn.
Lần này, Venetia không ngồi đợi trong chiếc xe ngựa thuê bốc mùi, mà trong cỗ xe độc mã sạch sẽ, thanh lịch, với ghế ngồi nhung có tua rua, lò sưởi chân, và những bình hoa tu-líp đặt trên giá giữa cửa sổ.
Nữ nam tước đã thuê cỗ xe. Cô thậm chí còn mang theo chiếc mũ có mạng che mặt, giờ đang đặt trên ghế bên cạnh.
Mày vẫn có thể, một giọng nói liều lĩnh thì thầm bên trong cô, như nó vẫn đã thì thầm trong ba tiếng qua. Tiến lên, chặn anh ấy lại. Chỉ đêm nay thôi.
Nhưng lần này anh sẽ không để cô bỏ đi lần nữa. Và anh sẽ không cho phép cô đeo mạng che mặt. Sẽ không có gì như là chỉ đêm nay thôi.
Hay đúng hơn là, không có cái gì như là ngày mai: Anh sẽ quăng cô ra ngoài ngay lúc anh nhìn thấy mặt cô và không bao giờ nói chuyện lại với cô nữa.
Cô chỉ có thể nhìn người tình của mình, mặt nặng như đá, trèo vào xe và bỏ đi.
*
* *
Christian quăng quật từ giận dữ sang tuyệt vọng và ngược lại. Tuy nhiên, vào buổi sáng, anh cho gọi xe và trở lại khách sạn.
Có lẽ anh đã ngu ngốc. Đúng hơn là anh còn hơn cả ngu ngốc. Nhưng anh đã thẳng thắn và giữ lời, anh xứng đáng được đối xử tôn trọng hơn như thế này.
Nhân viên khách sạn cho biết rằng phiến đá được vận chuyển đến khách sạn ba ngày trước. Một lá thư đánh máy đến theo đường bưu điện vào sáng ngày hôm qua, chỉ thị giao phiến đá vào lúc tám giờ mười lăm tối. Tay quản lý chung của khách sạn xin lỗi rối rít, vì có sự thay đổi nhân sự trong ngày và nhân viên của ca làm việc tiếp theo đã quên béng phiến đá cho đến chín giờ kém mười lăm.
Christian yêu cầu được xem phong bì gốc của lá thư. Than ôi, nó đã bị vứt đi. Nhưng nhân viên lễ tân mở phong bì nhớ rất rõ ràng rằng dấu bưu điện đi là của Luân Đôn, và trong cùng một ngày.
Khả năng cô đích thân đến Luân Đôn chỉ để thất hứa với anh là bao nhiêu? Không nhiều. Nhưng anh vẫn ra lệnh cho một thám tử điều tra xem có khách sạn nào ở Luân Đôn cho một khách nữ người Đức, ở độ tuổi từ hai bảy đến ba lăm tuổi, đi lại một mình thuê phòng hay không.
Anh đích thân đi tàu đến Southampton để nói chuyện với ông chủ của công ty vận chuyển đặc biệt Donaldson & Sons. Họ không thể nói gì nhiều với anh. Đồ vật họ giao đến khách sạn Savoy ở Luân Đôn được một đại lý hãng tàu đưa đến từ cảng. Giấy tờ của đại lý hãng tàu hữu ích hơn một chút, cho thấy rằng đồ vật đó đã được dỡ xuống từ tàu Campania, một con tàu của hãng Cunard Line, cập cảng Southampton sau tàu Rhodesia một ngày.
Christian tự mình đến văn phòng của Cunard Line ở Southampton và yêu cầu được xem danh sách hành khách trên chuyến tàu Campania đó. Anh không nhận ra cái tên nào trong danh sách, nhưng biết được rằng tàu Campania đã khởi hành từ New York hai ngày trước tàu Rhodesia, nhưng mất chín ngày để vượt qua Đại Tây Dương do gặp phải trục trặc kỹ thuật trên biển.
Vì sẵn đã ở Southampton, anh tiếp tục ghé qua vào phòng của Great Northern Line và đề nghị được xem danh sách khách hàng trên tàu Rhodesia. Nữ nam tước phải đi cùng với một cô hầu gái. Tìm ra danh tính của cô hầu gái đó không phải là không thể.
Có vài người đàn ông xuống tàu ở Queenstown, và không nhiều phụ nữ. Tất nhiên, hầu hết phụ nữ đều cùng họ với những người đàn ông đó, họ là vợ, chị em giá, con gái. Và có bốn người không có quan hệ với bất kỳ người đàn ông nào, ngoài nữ nam tước, còn có hai chị em theo đạo Thiên Chúa, và một cô gái trẻ được giao phó cho hai chị em để đi cùng về nhà ở một vùng nông thôn.
Cảm thấy khó hiểu, Christian hỏi lại liệu có thể có sai sót gì ở đây không. Anh được khuyên rằng nên đợi qua đêm: Tàu Rhodesia đang trên đường trở lại từ Hamburg sẽ cập cảng vào sáng ngày hôm sau.
Anh trằn trọc cả đêm, nhưng nỗ lực của anh đã không uổng phí. Sáng hôm sau, anh nói chuyện với người quản lý của tàu Rhodesia và biết rằng nữ nam tước von Seidlitz – Hardenberg không hề mua vé cho người nhà. Thay vì thế, lúc ở trên tàu Rhodesia, cô đã thuê một người phục vụ trên tàu làm hầu gái riêng tạm thời, một cô gái gốc Pháp tên là Yvette Arnaud, người này tất nhiên là sẽ không phản đối việc trả lời một vài câu hỏi của đức ngài, công tước của Lexington.
Cô phục vụ xuất hiện nửa tiếng sau đó trong văn phòng riêng mà Lexington đã được mời vào, gọn gàng và có vẻ giỏi giang. Anh mời cô ta ngồi và đẩy một đống ghi-nê trên bàn về phía cô ta. Cô ta dè dặt bỏ đống tiền vàng vào túi và lẩm bẩm một lời cảm ơn.
Đã sửa bởi MeOw lúc 08.04.2014, 15:55.
“Bằng cách nào cô lại được nữ nam tước chọn và cô phục vụ cô ấy những việc gì?” Anh hỏi bằng tiếng Pháp.
“Trước khi tàu Rhodesia rời thành phố New York, người quản lý phòng nói rằng có một quý bà đi du lịch một mình muốn thuê một người làm hầu gái. Rất nhiều người trong chúng tôi xung phong, tiền boa có thể rất hậu hĩnh. Người quản lý ghi lại khả năng của chúng tôi và trình cho nữ nam tước.
Tôi từng là thợ học việc ở một tiệm may và tôi nói rằng mình biết cách chăm sóc những loại vải vóc đắt tiền. Nhưng tôi không nghĩ mình được chọn. Tôi chưa bao giờ làm việc như một hầu gái, mà trong chúng tôi có rất nhiều người đã từng làm và có thể cung cấp thư giới thiệu từ những người chủ cũ ở Luân Đôn và Manchester.”
Cô ta được chọn vì khả năng của cô ta tương xứng hoàn hảo với tình huống này – một quý bà không lộ mặt trước những người khác không cần một cô hầu gái có kỹ năng làm đầu chuyên nghiệp.
Nhưng anh vẫn hỏi câu hỏi đó – nghe để biết đầu óc người khác phân tích cùng một dữ liệu như thế nào không bao giờ vô ích. “Cuối cùng tại sao cô lại được chọn?”
Cô gái đó ngần ngại trong vài giây. “Tôi nghĩ là vì tôi không phải là người Anh.”
Đây là câu trả lời Lexington không mong đợi. Trái tim anh ngừng lại. “Sao lại thế?”
“Tên cô ấy là tiếng Đức, cô ấy nói với tôi bằng tiếng Pháp, nhưng đồ đạc của cô ấy đều là của Anh.”
“Đồ đạc gì?”
“Rương hòm của cô ấy do thợ ở Luân Đôn làm, tôi nhìn thấy tên ở bên trong nắp. Giày là do thợ đóng giày Luân Đôn đóng. Và mũ, những chiếc không có mạng, mua ở cửa hàng của Madame Louise trên phố Regent. Tôi biết phố Regent ở Luân Đôn vì bà chủ cửa hàng may trước đây của tôi hy vọng có ngày mở được một cửa hàng ở đó.”
Rất nhiều hàng hóa Anh được công nhận là có mẫu mã và chất lượng cao cấp hơn. Một người nước ngoài có nhiều đồ đạc sản xuất ở Anh không phải là vấn đề cần nghi ngờ. Nhưng để có một tủ quần áo đại đa số là của Anh như thế? Không phải một phụ nữ hay đi đây đi đó ở lục địa thường mua sắm trải dài từ Paris, Vienne và Berlin hay sao?
“Còn điều gì khiến cô nghĩ cô ấy là người Anh?”
“Cô ấy nói tiếng Pháp giống ngài, thưa ngài, với trọng âm của người Anh.”
Đây là một bằng chứng quá thuyết phục. Trọng âm vẫn có tiếng là khó ngụy trang. Nếu một người nói tiếng Pháp bản địa xác nhận người nào đó nói tiếng Pháp có trọng âm của tiếng Anh, anh chẳng thể làm gì nhiều ngoài việc tin cô ta.
Nhưng nếu nữ nam tước là người Anh, sự biến mất của cô thậm chí còn trở nên khó hiểu hơn. Anh đã cầu hôn, vì Chúa. Một người lạ có lẽ không hiểu được tầm quan trọng của việc đó, nhưng chắc chắn một phụ nữ Anh sẽ hiểu đặc quyền và sự giàu có mà anh mang đến cùng thỏa thuận đó. Ngay cả nếu anh chỉ là một sự tiêu khiển đối với cô cho đến lúc đó, sức hấp dẫn trở thành nữ công tước tiếp theo của Lexington lẽ ra phải xui khiến cô ở lại.
“Cô còn có thể kể với tôi thêm điều gì nữa về cô ấy không?”
“Cô ấy thưởng rất hậu hĩnh – trước khi cô ấy xuống tàu, cô ấy tặng tôi chiếc cặp tóc gắn ngọc trai và đá opal. Và cô ấy có một tủ quần áo đẹp tuyệt vời, những quần áo đẹp nhất tôi đã từng nhìn thấy, không đẹp như cô ấy, tất nhiên, nhưng vẫn…”
“Cô nghĩ cô ấy xinh đẹp?”
“À, vâng, cô ấy đẹp hơn rất nhiều so với người phụ nữ đẹp nhất tôi từng nhìn thấy. Tôi nói với những người phục vụ khác là việc cô ấy che mặt lại như thế chẳng có gì là lạ, nếu cô ấy bỏ mạng che mặt ra, tàu Rhodesia sẽ có một cuộc náo loạn.”
“Họ có tin cô không?”
“Không, họ nghĩ tôi cường điệu quá mức, vì không có người nào khác được nhìn mặt cô ấy. Nhưng ngài, thưa ngài, ngài biết cô ấy xinh đẹp tuyệt trần như thế nào mà. Ngài biết là tôi không nói quá.”
Anh có biết không? Đầu óc anh đang chạy trốn như một bà cô không chồng chạy vội qua một ngôi nhà tai tiếng, không chịu hiểu ra những tiết lộ của Yvette Arnaurd, từ chối tổng hợp những mẩu thông tin vụn vặt thành một sự giải thích chặt chẽ, như một người làm khoa học vẫn làm.
Anh đặt một đống tiền vàng nữa lên bàn và bỏ đi mà không nói một lời.
*
* *
Tính nguy kịch của thảm họa vừa qua và sự phấn khích được gần công tước, cho dù anh cũng khiến cô cảm thấy khốn khổ như thế cùng một lúc, đã làm lu mờ sự nghiêm trọng của bệnh tật thể xác đang hành hạ Venetia. Cơn buồn nôn bớt đi, sự váng vất thay thế bằng nỗi sợ hại và niềm vui sướng khiến trái tim cô đập dồn dập.
Nhưng bây giờ, khi thảm họa đã lùi xa, cơ thể Venetia quyết định nhắc nhở cô nhớ rằng nó chưa hồi phục. Ngược lại nữa là khác.
Cô đã phải chạy vội vào nhà vệ sinh hai lần trong buổi sáng, lần đầu tiên khi bữa sáng được mang vào phòng, lần nữa là khi Helena đến và vô tình mang theo một tách trà đã thêm kem và đường.
Lần thứ nhất cô có thể giấu mọi người trừ cô hầu gái, người đã ở bên cô mười năm, cực kỳ kín miệng và đáng tin. Tuy nhiên, lần thứ hai cô không may mắn đến thế. Helena ra lệnh cho một người làm đi gọi bác sĩ nhưng bị Venetia gạt đi.
Helena lưỡng lự đồng ý chờ thêm một ngày nữa để xem thực sự có cần bác sĩ hay không. Nhưng họ không chờ được đến ngày hôm sau.
Đến giữa buổi chiều, sau khi đọc xong một loạt thư mới, Venetia đứng lên khỏi bàn. Điều tiếp theo mà cô biết là mình đang nằm trên tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ, cô hầu gái hoảng hốt vung vẩy một lọ thuốc muối trước mặt cô. Và than ôi, bác sĩ đã ở trên đường đi.
*
* *
Về đến Luân Đôn, Christian cho chiếc xe ngựa độc mã đang chờ đón anh ở ga Waterloo về trước. Anh không muốn về nhà. Lẽ ra không nên ra khỏi toa tàu riêng chút nào. Anh nên đi thẳng dến tận Edinburgh, đặt toàn bộ chiều dài nước Anh giữa anh và sự thật đang bắt đầu cào cấu anh.
Vì thế anh vượt qua sống Thames và bước đi, không biết mình đang đi đến đâu và cũng không quan tâm.
Người Anh. Xinh đẹp.
Có thể không nghe những từ như thế được không? Nguyền rủa những phương pháp khoa học và đòi hỏi không hòn đá nào được phép không lật lên của nó. Nguyền rủa cái tính tự cho là mình đúng đáng căm phẫn của anh không chịu nghỉ cho đến khi anh có câu trả lời.
Anh cố gắng chế giễu mình: Anh đang thực hiện những bước nhảy lô-gic không căn cứ. Người Anh và xinh đẹp không tương đương với bà Easterbrook. Hơn nữa, bà Easterbrook không có mục tiêu gì trong cuộc đời ngoài việc trông thật xinh đẹp. Khả năng cô ta che mặt mình không nhiều hơn khả năng nữ hoàng từ bỏ ngai vàng.
Đến lúc nào đó anh nhận ra mình đang đói và bước vào một quán trà, chỉ để dừng lại giữa đường. Toàn bộ một bức tường của quán trà chủ yếu phục vụ phụ nữ này được dán kín ảnh của những người đẹp trong xã hội thượng lưu.
Bà Easterbrook là một trong số họ. Trong bức ảnh, vẻ đẹp sống động và vượt trội của cô ta phần lớn đã bị mờ đi. Cô ta chỉ là một khuôn mặt xinh đẹp giữa một biển những khuôn mặt xinh đẹp, và ở cái nhìn đầu tiên, anh thậm chí còn không chú ý đến cô ta nếu không phải vì cái ô cô ta đang đặt trên vai.
Những hoa văn hình bát giác đồng tâm màu xanh viền ren trắng.
*
* *
Cô Redmayne, một bác sĩ đã được đào tạo ở Paris, ngồi xuống cạnh giường Venetia. Millie và Helena quanh quẩn ở phía bên kia.
“Cô Fitzhugh nói với tôi rằng cô ngất xỉu khoảng một tiếng trước. Và bụng cô đã có vấn đề trong nhiều ngày.”
“Đúng thế.”
Cô Redmayne sờ vào trán và cổ tay Venetia. “Không sốt. Nhịp tim tốt, thực ra hơi chậm. Có nguyên nhân nào có thể gây ra việc ngất xỉu không?”
“Tôi không thể nghĩ ra cái gì. Có thể tôi chưa hồi phục vì bị ngộ độc cá bơn.”
“Cô có ăn cá bơn không, cô Fitzhugh?”
“Có.”
“Nó có gây cho cô khó chịu gì không?”
“Không, tôi không thấy gì.”
Cô Redmayne nói với Millie và Helena. “Quý bà Fitzhugh, cô Fitzhugh, các cô cho phép chúng tôi nói chuyện riêng một chút được không? Tôi cần phải kiểm tra kỹ càng hơn.”
“Tất nhiên.” Millie nói, hơi có vẻ bối rối.
Khi Millie và Helena ra khỏi phòng, cô Redmayne chỉ vào chiếc chăn. “Cho phép tôi nhé?”
Không đợi câu trả lời, cô ta kéo nó xuống và ấn nhẹ vào bụng Venetia.
“Ừm,” cô ta nói. “Bà Easterbrook, ngày đầu tiên của chu kỳ kinh gần đây nhất của cô là ngày nào?”
Câu hỏi Venetia đang khiếp sợ. Cô cắn môi dưới và nói ra một ngày gần năm ngày trước.
Cô Redmayne trầm ngâm.
“Nhưng không thể nào như thế,” Venetia biện hộ. “Tôi không thể mang thai.”
“Rất có thể thiếu sót đó là của những người chồng cũ, chứ không phải của cô, bà Easterbrook. Bây giờ tôi xin phép được hỏi thẳng, cô có nhân tình nào kể từ chu kỳ gần đây nhất hay không?”
Venetia nuốt nghẹn, “Có.”
“Vậy thì, cho dù sự chẩn đoán này có thể không hay đối với cô ra sao, tôi e rằng cô đã mang thai rồi.”
Cô đã biết, không phải sao, kể từ triệu chứng ốm yếu vào vào buổi sáng đầu tiên? Cô đã tiếp xúc nhiều với những phụ nữ có chồng khác dù để được nghe về những dấu hiệu đặc biệt đó. Nhưng miễn là cô có thể tránh xa sự khẳng định chính thức về tình trạng của mình, cô có thể tiếp tục lờ đi những gì cơ thể đang cố gắng nói với cô.
Không còn được nữa.
“Cô có chắc chắn không, cô Redmayne, tôi không có u bướu hay cái gì tương tự hay sao?”
“Tôi rất chắc chắn,” cô Redmayne nói. Cô ta tỏ ra rất thông cảm, nhưng sự chắc chắn trong giọng nói của cô ta là không thể nhầm lẫn.
Ngón tay Venetia siết chặt chăn. “Tôi còn bao nhiêu thời gian trước khi tình trạng của tôi trở nên rõ ràng?”
“Vài phụ nữ có thể che giấu rất lâu tình trạng thai nghén nhờ sự hỗ trợ của những thứ như một chiếc coóc-xê đặc biệt nhưng chúng tôi khuyến cáo không nên làm thế vì nó sẽ gây hại cho cả mẹ và con.”
Một quý bà rút lui khỏi những hoạt động của xã hội thì không thể che giấu tình trạng thai nghén nữa. Venetia quả thực đã nghe tin đồn về những người giữ bí mật vè cái bụng ngày càng lớn lên của mình cho đến vài tuần trước khi sinh.
“Nhưng tôi cho rằng đó không phải là điều cô đang hỏi,” cô Redmayne tiếp tục. “Tính từ ngày đầu tiên của chu kỳ kinh cuối cùng, coi như cô đã ở tháng thứ hai của thai kỳ rồi. Nói chung, cho đến sau tháng thứ năm hoặc thứ sáu, tình trạng này mới trở nên rõ ràng.”
Ít nhất cô vẫn còn một chút thời gian. “Cảm ơn, cô Redmayne. Tôi có thể tin tưởng vào sự kín đáo của cô trong vấn đề này được không?”
Cô Redmayne nghiêng đầu. “Cô có thể yên tâm về điều đó, bà Easterbrook.”
*
* *
Christian nhớ có thời gian Bảo tàng lịch sử tự nhiên Anh quốc đóng cửa vào bốn giờ chiều hàng ngày. Ước sao nó vẫn thế. Vì qua năm giờ, anh thấy mình đang đứng trước mặt tiền theo lối kiến trúc terracotta của nó. Nếu Bảo tàng đã đóng cửa, anh sẽ tỉnh ngộ và chạy trốn với tốc độ của một con linh dương chạy trốn sư tử. Nhưng Bảo tàng vẫn mở cửa cho khách và bàn chân anh tự chuyển động theo ý chí của riêng nó, qua bộ xương cá voi xanh để đến chái đông.
Rất nhiều lần anh suýt nữa quay lại. Một lần anh thậm chí đã đứng khựng lại, khiến một người có vẻ là giáo sư bị anh chặn đường cau có. Nhưng anh không thể chặn động lực dữ dội đang đẩy anh tiếp tục chuyển động, đi qua nơi trưng bày những động vật có vú, để đến phòng trưng bày các loài bò sát.
Không thể thốt ra được câu hỏi vì sao, anh tiến thẳng đến nơi trưng bày thằn lằn cá voi, nơi anh và bà Easterbrook đã lời qua tiếng lại – những lời nói cợt nhả của cô ta và hằn học của anh.
Khi anh không nhìn chằm chằm vào mặt cô ta, anh nhìn chằm chằm vào chiếc túi cô ta đặt cạnh mép lồng trưng bày, vì ngón tay cô ta đã vẩn vơ đùa nghịch với sợi dây rút của chiếc túi. Chiếc túi làm từ vải kim tuyến, thêu chim bồ câu đậu trên cành ô-liu. Và ở bên dưới chiếc túi, là một tấm bảng.
Hóa thạch thằn lằn cá voi được cô Fitzhugh của dinh thự Hampton, Oxfordshire quyên tặng. Cô đã khai quật bộ xương này ở Lyme Regis, Devon, năm 1883.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT