Ngải Mễ những tưởng rằng, vào làm giảng viên tiếng Anh ở trường Đại học R là một điều vô cùng lãng mạn. Bạn thử nghĩ mà xem, có thể cả ngày mang khuôn mặt u buồn như trong Một chuyến đi đầy xúc động[1], mang theo Kiêu hãnh và định kiến[2], cùng sinh viên thảo luận tiếng hú gọi trong Đồi gió hú[3], hoặc có thể đưa ra câu hỏi đầy ẩn ý về tác phẩm nổi tiếng Chuông nguyện hồn ai của Hemingway hoặc hỏi một cách đầy triết lý về câu nói nổi tiếng của William Shakespeare: “Tồn tại hay không tồn tại?”, hay chí ít cũng có thể phát biểu một vài cao kiến về bộ râu của Rhett Butler[4], trong giờ học mở bộ phim phiên bản tiếng Anh Khiêu vũ cùng bầy sói[5], sau đó lại dạy sinh viên hát bài Do re mi trong bộ phim Giai điệu hạnh phúc[6].
[1] Tên gốc của tác phẩm là A Sentimental Journey-Through France and Italy do nhà văn lỗi lạc người Anh thế kỷ 18 là Laurence Sterne (1713 – 1768) viết năm 1768.
[2] Là tác phẩm nổi tiếng nhất của nữ nhà văn người Anh, Jane Austen, được viết từ năm 1796 đến năm 1797 và xuất bản năm 1813.
[3] Là tiểu thuyết duy nhất của nữ nhà văn người Anh Emily Brontë.
[4] Rhett Butler là nhân vật hư cấu trong cuốn tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió của tác giả Margaret Mitchell.
[5] Khiêu vũ cùng bầy sói là bộ phim về cao bồi miền Tây được phát hành năm 1990 dựa theo tiểu thuyết cùng tên, kể về câu chuyện của một viên trung úy trong quân đội Mĩ thời kỳ nội chiến. Bộ phim do đạo diễn kiêm diễn viên Kevin Costner sản xuất trong suốt năm năm với kinh phí chỉ 18 triệu đô la. Bộ phim có giá trị nghệ thuật cao và đoạt 7 giải Oscar, trong đó có giải Phim hay nhất và giải Quả cầu vàng cho Phim chính kịch hay nhất.
[6] Giai điệu hạnh phúc (hay Tiếng tơ đồng) là bộ phim ca nhạc năm 1965 của đạo diễn Robert Wise, có sự tham gia của các diễn viên Julie Andrews và Christopher Plummer.
Dạy tiếng Anh chỉ vì ham sự lãng mạn này còn gì nữa? Nghèo thì nghèo thật nhưng lãng mạn vẫn nên có, hơn nữa những người yêu thích sự lãng mạn thường cũng rất nghèo mà.
Ngải Mễ không thể ngờ rằng, khoa tiếng Anh trong các trường đại học ở Trung Quốc hiện nay đã gạt bỏ những cái thuộc về phạm trù lãng mạn một cách triệt để. Có lẽ cũng không phải cố tình bỏ rơi sự lãng mạn đâu, chủ yếu là vì bỏ rơi “cái nghèo”, nhưng lại vô tình đánh mất luôn sự lãng mạn.
Vì thế có thể nói là sự nghiệp dạy học của Ngải Mễ với hai chữ “lãng mạn” thật sự là bắn đại bác bảy ngày chưa tới.
Ngoài dạy sinh viên khoa tiếng Anh, Ngải Mễ còn dạy các lớp linh tinh khác. Không biết khoa mở ra bao nhiêu lớp, có lớp phụ đạo cho đối tượng tự ôn thi, có lớp cấp tốc tiếng Anh thương mại, có lớp GRE tăng cường, lớp luyện nghe TOEFL, lớp bổ túc kiến thức cho cán bộ đi học nước ngoài, lớp rèn kỹ năng thi đại học, lớp tiếng Anh thiếu niên, lớp tiếng Anh thiếu nhi, lớp bồi dưỡng tiếng Anh cho y tá, lớp bồi dưỡng tiếng Anh cho thủy thủ…
Ở đây không liệt kê cụ thể nữa vì một số lớp có thể dính dáng đến vấn đề “bản quyền”. Nhiều lớp như vậy, nếu muốn đặt cho mỗi lớp một cái tên vừa gần gũi lại vừa mang ý nghĩa quảng cáo mà không có trí tưởng tượng phong phú sẽ không thể làm được. Còn người có trí tưởng tượng phong phú chắc chắn cũng sẽ nghĩ đến việc dùng bản quyền để bảo vệ trí tưởng tượng của mình, nếu không liệu có còn được gọi là có trí tưởng tượng phong phú không?
Tất cả giáo viên trong khoa đều bị phân công dạy các lớp này, bất luận anh có cần khoản tiền hỗ trợ mấy chục nhân dân tệ cho mỗi tiết học hay không, vì điều này liên quan đến vấn đề tăng thu nhập cho khoa.
Cụm từ “tăng thu nhập” được khoa của Ngải Mễ nhắc đến nhiều nhất khi họp hành, tuần nào cũng có hai cuộc họp định kỳ, từ đầu đến cuối chỉ thảo luận làm thế nào để có thể tăng thêm thu nhập. Câu cửa miệng và lời mào đầu của chủ nhiệm khoa là: “Các đồng chí thử nghĩ xem chúng ta còn có thể mở các lớp học theo mô hình nào để tăng thu nhập? Đây là chuyện lớn liên quan đến lợi ích thiết thực của mỗi giáo viên. Đồng thời cũng là chuyện đại sự liên quan đến sự sinh tồn của khoa tiếng Anh chúng ta. Nếu không tăng được thu nhập, khoa sẽ lấy gì để giữ chân mọi người? Mọi người sẽ lấy gì để giữ chân người thân trong gia đình mình?”
Ngải Mễ cảm thấy những điều vị chủ nhiệm khoa này nói rất có vấn đề, nhưng cô lại không thể vạch trần, nghe cứ như hiện nay mọi mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều phải dựa vào đồng tiền để duy trì, nếu anh không có tiền thì người thân sẽ bỏ anh mà đi vậy. Có đúng là như vậy không? Có đúng là dân tộc Trung Hoa đã đến thời khắc nguy hiểm đó rồi không? Hình như chưa đến nỗi thì phải.
Tuy nhiên Ngải Mễ cũng không có thù hằn gì với tiền bạc, cô cũng biết lợi ích của đồng tiền, cô còn biết đồng lương ít ỏi trên bảng lương kia chẳng đáng là bao, ai thèm quan tâm đến số tiền đó chứ. Chẳng phải tất cả đều dựa vào “thu nhập thêm” đó sao?
Từ trước tới nay, mỗi lần ngồi họp với khoa, Ngải Mễ đều như người say sóng, chỉ biết vấn đề mà lãnh đạo khoa phát biểu toàn là “tăng thu nhập, tăng thu nhập”, “mở lớp, mở lớp”, cô cũng chẳng buồn quan tâm đến việc tăng thu nhập như thế nào, mở những lớp gì. Thái độ của cô về các lớp kiểu này là tránh được sẽ cố tránh. Đã vào làm giảng viên trong trường đại học rồi thì phải xác định tư tưởng là nghèo suốt đời, cuối năm cũng chẳng thèm quan tâm đến việc được thưởng mấy tháng lương cho mệt đầu.
Tuy nhiên một lần đi họp, khoa lại không dồn hết thời gian để bàn về vấn đề “tăng thu nhập” mà nói về chuyện “Harvard Yenching”, nói Viện Havard Yenching cho khoa ta một suất, lần này chúng ta phải làm cho minh bạch, cạnh tranh tự do, người nào đủ tiêu chuẩn sẽ được cử đi học, tất cả giảng viên dưới ba mươi lăm tuổi đều có thể đăng ký, tuần sau khoa sẽ tổ chức một buổi thi, thi đọc, dịch, viết, nghe và văn học, giáo sư trong khoa sẽ chấm, tên thí sinh được giữ bí mật. Ai thi được thì người đó đi.
Vừa nghe đến mấy chữ “Harvard Yenching” là tinh thần Ngải Mễ lại sục sôi. Không biết có nên tham gia không nhỉ? Thử sức xem sao? Nếu chỉ dựa vào kết quả bài thi thì cũng ổn. Cổ nhân có câu: Là lừa hay ngựa, phải dắt ra xem. Xem ra cũng phải dắt mình ra xem sao.
Các giáo viên trẻ trong khoa đều nói: “Ngàn năm có một, ngàn năm có một!” Không phải nói suất học bổng của Harvard Yenching là ngàn năm có một mà ý muốn nói rằng, ngàn năm mới có dịp khoa tổ chức thi minh bạch như vậy, vì trước đây có suất đi học ở đâu đều là khoa giới thiệu hoặc tính theo thâm niên công tác, lúc nào cũng kín như bưng, những kẻ vô danh tiểu tốt như Ngải Mễ không phải là vợ chủ nhiệm khoa, cũng chẳng phải con gái của giám đốc nhà xuất bản trường Đại học R, chắc chắn là không đến lượt, thế nên lần này Ngải Mễ quyết định tận hưởng tính minh bạch của khoa và thế là đã đăng ký.
Đăng ký rồi cô lại thấy lo, nhỡ mình không thi được thì biết làm sao? Nếu một ngày nào đó Allan muốn đến tìm mình, trong khi mình lại sang Harvard Yenching thì khác gì núi sông cách trở? Hơn nữa một người có lòng tự trọng cao như anh ấy, không được sang Harvard học trong khi mình lại được sang, liệu anh ấy có vì chuyện đó mà bỏ cuộc hay không? Có lẽ tốt nhất là mình nên giữ tấm thân trong sạch, không dính dáng gì đến vết nhơ học Harvard thì hơn.
Nhưng rồi cô lại nghĩ, đã thi cử gì đâu, nếu thi cũng chắc gì đã đỗ, việc gì phải lo sớm như vậy. Cùng lắm là đỗ rồi nhưng không đi, như thế cũng vẻ vang biết bao. Giành được suất học bổng của Harvard Yenching dĩ nhiên là tự hào rồi, nhưng nếu thi đỗ mà không đi học lại càng tự hào hơn chứ.
Hơn nữa Allan đã từng hứa với cô rằng không bao giờ kết hôn trước cô, không bao giờ có người yêu trước cô. Dĩ nhiên lời thề này là do cô ép anh nói nhưng dù gì anh cũng thề rồi, anh đã hứa điều gì thì chắc chắn sẽ thực hiện.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT