Vào ngày mùng một tháng Mười một, dù tỉnh dậy đầu vẫn còn choáng váng do hậu quả của lễ hội Halloween, Marianne Engel vẫn đi thẳng xuống tầng hầm. Trong vòng hai ngày tiếp theo, bức tượng dang dở cuối cùng của cô - con sư tử/khỉ run sợ - đã được tạc một đôi chân để đứng. Khi nó hoàn thành, cô lại nằm lên một phiến đá mới và ngủ khoảng mười hai tiếng trước khi lao vào tạc một bức tượng mới. Trong lúc đó, tôi ngồi một mình trên gác với ký ức về những bóng ma nhảy múa mà lẽ ra tôi không thể thấy được.

Con quỷ lùn mới của cô (một khuôn mặt người cắm trên thân hình dị dạng của một con chim) mất bảy mươi tư giờ đồng hồ để hoàn thành, trước khi cô đi lên phòng tắm rửa một chút rồi ngấu nghiến tất cả những gì tìm được trong tủ lạnh. Tôi đã nghĩ rằng cô, như bình thường, sẽ quay trở về phòng ngủ một giấc cho lại sức, nhưng không, cô đi thẳng xuống cầu thang để nằm dài lên trên một khối đá nữa. Sau khi mơ thấy giấc mơ đá, cô lại bỏ ra hơn bảy mươi tiếng để ức chế đối tượng mới nhất của cô. Khi cô xong việc, một con cóc mặt đầy mụn cơm với cái mỏ đại bàng đang gào thét đã hiện ra.

Marianne Engel trở lại giường và ngủ rất ngon, nhưng mười tiếng sau cô đã vào bếp uống cả một bình cà phê và ăn nửa cân thịt hun khói. (Khi không phải tạc tượng, cô được phép ăn thịt.) Ngay khi vét sạch cái đĩa, cô lại bước xuống cầu thang tầng hầm. "Một con nữa đang gọi." Khi tôi hỏi làm sao cô có thể ngủ trên đá sau khi đã uống nhiều cà phê như thế, cô đáp chẳng vấn đề gì. "Con này đã nói chuyện với tôi khi tôi đang tạc con cóc rồi."

Dù đó mới chỉ là tuần thứ hai của tháng Mười một, Marianne Engel đã bắt đầu tạc bức tượng thứ ba trong tháng. Sự gia tăng số lượng hình như còn chưa đủ để làm tôi bực mình, giờ còn thêm cả sự thay đổi về độ tập trung nữa: cô say sưa làm việc hơn bất cứ lần nào tôi chứng kiến trước đây. Mồ hôi chảy khắp người cô, đọng lại thành dòng trên bụi đá, và cô phải mở toang những cánh cửa gỗ sồi khổng lồ để đón gió thu mát lạnh. Cô không bao giờ tắt một trăm ngọn nến đỏ cháy rực xung quanh mình và vòng lửa của chúng bập bùng trong gió như những ngọn lúa mì nhảy múa trên cánh đồng. Nhìn đám dụng cụ cứ lướt vun vút của cô, tôi không thể không nghĩ tới hình ảnh một người nông dân đang vung lưỡi hái lên trong nỗ lực chạy đua với mùa đông đang đến gần.

Khi bức tượng thứ ba hoàn thành, Marianne Engel ngay lập tức bắt tay vào làm cái tiếp theo.

Những tiếng búa đục đã dần quen thuộc đến nỗi ngôi nhà trở nên thinh lặng quá đỗi khi cô ngơi tay làm việc. Thỉnh thoảng nó - tiếng ồn ấy, không phải sự yên lặng hiếm hoi đâu - còn làm tôi lao ra khỏi nhà. Tôi không bao giờ đi đâu xa, thường chỉ trốn sau mấy góc pháo đài để nhìn những người dân đến thăm nhà thờ Romanus. Cha Shanahan sẽ đứng trên bậc thềm trước, vui vẻ mời họ vào và nài nỉ họ đến vào tuần sau. Họ đều hứa là sẽ đến, và hầu hết đều làm đúng như thế.

Shanahan có vẻ là một người khá chân thành, theo chuẩn của linh mục, dù tôi phải thừa nhận rằng mình cũng không hẳn là một người đánh giá vô tư cho lắm. Tôi luôn luôn có cảm giác phấn khích/khó chịu với bọn đàn ông mặc áo chùng: vì tôi ghét cái thể chế mà bọn họ bảo vệ. Tôi còn muốn coi thường họ trên tư cách con người nữa. Nhưng tôi thường nhận ra mình không thể ghét người, chỉ ghét cái bộ áo chùng thôi.

Tôi có thể tưởng tượng ra phản ứng tự nhiên của độc giả, họ cho rằng tính vô thần của tôi đã được nuôi dưỡng từ những trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời: thời thơ ấu không nơi nương tựa, sự nghiệp khiêu dâm, thói nghiện hút, một vụ tai nạn đã thiêu tôi thành miếng khoai tây chiên. Suy nghĩ đó không hề chính xác.

Chẳng có lý do logic nào để tin vào Chúa. Có những lý do cảm tính, dĩ nhiên, nhưng tôi tin rằng chẳng có gì tồn tại chỉ vì nó làm người ta cảm thấy an tâm. Chuyện tôi tin vào Chúa cũng lố bịch như tôi tin rằng có một con khỉ vô hình sống trong mông tôi; tuy nhiên, tôi sẽ tin cả hai nếu cả hai đều được chứng minh một cách khoa học. Đây là vấn đề cốt lõi của những người theo thuyết vô thần: không thể chứng minh sự không tồn tại của một điều gì đó, nhưng những người theo thuyết hữu thần vẫn có xu hướng đặt chủ đề đó ra trước mặt chúng tôi để chứng minh rằng "Thiếu bằng chứng không phải là bằng chứng thiếu," họ hợm hĩnh nói. Ồ, đúng thôi. Tất cả những gì cần làm là hô biến ra một cây thập tự giá bốc lửa giữa trời, KHÔNG CÒN KHỈ TRONG MÔNG NỮA À? được tất cả mọi người trên thế giới nhìn thấy một lúc, THẾ CÒN RẮN TRONG XƯƠNG SỐNG THÌ SAO? để chứng minh với tôi rằng Chúa thực sự tồn tại.

Marianne Engel tạt lên nhà nhờ tôi pha ít cà phê hòa tan. Tôi nghĩ đây là một yêu cầu khá kỳ cục, vì tầng hầm cũng có một máy pha cà phê thường, nhưng cái nhà này sống được là nhờ tiền của cô, nên tôi khó có thể từ chối được.

Ngay khi tôi quay lại, cô giật cái bình ra khỏi tay tôi, tóm lấy thìa, rồi quay trở lại xưởng. Tôi nghĩ một thoáng, tự nhủ rằng cô không thể nào lại... và rồi ngó xuống từ bậc thang trên cùng để thấy rằng cô thực sự đang làm thế thật.

Vừa rít những hơi thuốc lá dài cô vừa nốc cà phê hòa tan, nhai rào rạo hạt cà phê như một vận động viên bóng chày nghiền nát món thuốc lá nhai, rồi uống cà phê vừa pha trong cái cốc ngoại cỡ để cho trôi hết.

Chuông cửa reo.

Nếu bạn giống hầu hết những người bình thường khác, chuông cửa reo thì bạn sẽ ra mở cửa; nhưng đối với tôi, việc này phức tạp hơn. Đối với tôi, đó thực sự là một bài kiểm tra ý chí. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu khách là một nữ hướng đạo sinh bán bánh quy? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ấy nhìn tôi một cái, vãi tè và bất tỉnh? Làm sao tôi có thể giải thích được với người ta về việc có một nữ hướng đạo sinh bất tỉnh và ướt hết cả quần nằm trước hiên nhà tôi? Đối với một người có ngoại hình như tôi đây, đó thực sự là một lời mời những người dân địa phương đốt đuốc đuổi đi đến tận cái cối xay gió cũ ấy chứ.

Tôi quyết định thử vận may và đối mặt với thách thức, thậm chí cả khi đó là một nữ hướng đạo sinh chăng nữa. Khi mở cửa ra, tôi nhìn thấy một người đàn ông và một phụ nữ trạc tuổi trung niên, có lẽ là vợ chồng, mặc quần áo lịch sự. Người phụ nữ giật lùi lại như thể cô là ma cà rồng còn tôi là mặt trời ấy. (Thỉnh thoảng tôi thấy việc cho ai đấy vào vai ma quỷ cũng là một trò khá thú.) Người đàn ông theo bản năng nhảy ra trước mặt người vợ ma cà rồng của mình, lấy tay làm lá chắn che chở cho cô. Môi cô vén lên để lộ hàm răng.

"Vâng?"

"Tôi, à... chúng tôi," vị anh hùng lắp bắp, không biết tôi là cái thứ gì, trong khi người phụ nữ mỗi lúc một co rúm lại. Người đàn ông, lấy hết can đảm, lúng búng, "Chúng tôi muốn đến nhà thờ! Có thế thôi!" Phòng trường hợp tôi vừa bị bỏng vừa thiểu năng, anh ta trỏ tay về phía nhà thờ thánh Romanus. "Chúng tôi thấy nó... à, à... đóng cửa, và rồi chúng tôi thấy nơi này có, anh thấy đấy, những bức tượng gargoyle với những thứ, tương tự thế, giống nhà thờ, và... vì thế, anh biết đấy, hiển nhiên là chúng tôi nghĩ nơi này có, à, à, à, liên quan đến nhà thờ. Hay đại loại thế." Anh ta ngừng lại. "Có phải không?"

"Không."

Marianne Engel đang hí hoáy làm trò gì mới với mấy bức tượng đá của mình: trang trí mỗi bức tượng đã hoàn thành bằng một con số. Cái đầu tiên là 27, cái thứ hai là 26, cái thứ ba là 25; cô hiện đang làm cái thứ 24.

Khi tôi hỏi cô về việc đó, cô nói, "Ba Vị Chủ Nhân của tôi gần đây đã nói với tôi rằng tôi chỉ còn hai mươi bảy trái tim nữa thôi. Đây là để đếm ngược."

Tôi đợi cho đến khi thấy những người tham gia lớp học nghiên cứu Kinh Thánh vào tối thứ Năm do cha Shanahan giảng dạy bắt đầu tản ra. Đã tới lúc đến nhà thờ thánh Romanus và than phiền về mấy giáo dân đã nhầm pháo đài là một kiểu chương trình từ xa của Hội thánh.

Tôi bước lên những bậc thang dẫn tới cửa chính nhà thờ, nhìn trái nhìn phải, rồi đi thẳng qua cổng. Tiếng bước chân của tôi vang vọng khắp nơi, nhưng Shanahan - đang đứng giữa các hàng ghế, ngước nhìn lên những ô cửa sổ, chẳng có vẻ gì chú ý cả. Ông đang trầm tư mặc tưởng trước một tấm kính màu vẽ cảnh Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá. Thật lạ khi thấy ai đó lại ngồi ngắm thứ ấy trong đêm, vì chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào để Jesus trông tỏa sáng và quyền thế cả.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play