Nước sông Vong Hà như có độc. Nó làm nhòe nhoẹt mắt Tiểu Hồ và bôi bết những màu loang lổ. Từ lúc được lôi lên khỏi dòng sông, Tiểu Hồ chỉ thấy trời đất quay cuồng, hàng tá hình ảnh nhì nhằng nhiễu loạn đầu óc, sau cùng là bóng tối như cái lồng bàn ụp xuống. Trước thời khắc đó, nàng nghĩ mình đang trút hơi thở cuối cùng. 

Mãi lúc tỉnh táo hẳn, Tiểu Hồ mới hay mình còn sống. Nàng đang nằm trong một túp lều dã chiến. Lều thấp mái, thi thoảng rung rinh dưới cơn mưa nặng hạt, không khí dặm mùi đất ẩm lá mục. Mùi rừng! Tiểu Hồ nhăn mũi hít hửi. Nàng chỉ có thể đoán vì ngoài túp lều ra, mọi thứ trước mắt đều mang màu lờ nhờ lạnh ngắt như mấy tảng thịt để quá lâu trong tủ đá. Chỗ này không ánh sáng, không hơi ấm, không cả một đường viền định hình le lói. Tiểu Hồ quờ tay thì chạm phải một khối rắn đặc. Cô gái suýt khóc thét khi cái khối đó quay lại cùng tiếng cười: 

- Ồ, em tỉnh rồi à, Tiểu Hồ? Giờ là ngày 12 tháng 3 năm 7518, sáu giờ tối, chúng ta đang ở trong rừng Bắc Thần với thời tiết chán không tả nổi. Đang mưa to, chỗ nào cũng đầy bùn!

Dù không nhìn rõ nhưng Tiểu Hồ biết đó là Ly Đốc. Nàng ôm trán, ho khan vài tiếng để chắc chắn không còn ngụm nước sông quái quỷ nào trong thanh quản. Nhớ lại bọn thủy mã nhân cùng dáng hình nhầy nhụa kinh tởm của chúng, cô gái bất giác khiếp hồn. Nàng liền gợi chuyện để quên đi sự vụ dưới đáy sông: 

- Đội Răng Giả cứu chúng ta? Mấy người lính Bắc Thần thế nào? Họ ổn chứ?

- Chà, em không biết chuyện gì xảy ra đâu! – Ly Đốc đáp lời – Ai mà tin con nhỏ Tiểu Lang đáng yêu hậu đậu lại là gián điệp của Diệp quốc? Một gián điệp siêu hạng đấy!

Gã Thập Kiếm giơ hai cánh tay băng bó thấm máu rồi kể lại cuộc chiến trong rừng. Tên này ăn nói lôm côm nhưng kể chuyện lại say sưa và có hồn, người đối diện lắng nghe cũng hình dung được phần nào. Sau khi dìm Tiểu Hồ ở sông, Tiểu Lang quay lại rừng nhằm xử lý nốt Ly Đốc cùng toán lính Bắc Thần. Gã Thập Kiếm uống sữa ít nên tỉnh táo hơn đám lính nhưng sức mạnh chỉ còn phân nửa. Bằng một nỗ lực được cường điệu hóa (dù sao lĩnh vực vốn có tính chất ít khiêm nhường), Ly Đốc đã cầm cự thành công trước khi đội Răng Giả ập tới. Sau đấy cô nàng Tiểu Lang biến mất không dấu vết và để lại một ba lô nùi đầy những hộp sữa tươi ngon mát lạnh. Cơ mà chẳng tay lính đánh thuê nào dám uống. Hai người lính Bắc Thần mất mạng, một người vì ảo giác mà tự bắn chính mình, người kia bị đồng đội bắn nhầm. Chẳng hề có trận pháo kích nào từ quân đội Diệp quốc, tất cả đều do món sữa chứa độc dược gây loạn thần trí. 

- Con nhỏ đó không bắn súng hay đánh kiếm, nó xài phép thuật, những phép cao cấp nhất! – Ly Đốc tiếp tục – Cô ta niệm chú ngữ nhanh vô cùng, chỉ mấy máy môi, mà tôi cũng không chắc cô ta cần niệm hay không. Khu rừng ẩm thấp đầy nước mà cô ta dùng Hỏa niệm như không quan tâm quy tắc vật lý, mà có lẽ khu rừng sinh ra để cô ta đốt thì đúng hơn! Khi ấy nước dưới chân tôi đặc sệt, sánh như hồ dán, nhấc chân rất khó khăn. Nhưng còn hơn thế nữa, cô ta biết tôi sẽ làm gì tiếp theo, cứ như thể cổ có tai mắt khắp khu rừng vậy! Tôi dám cá cô ta là đại pháp sư!

Nói rồi gã lại giơ đôi tay băng bó nhằm chứng tỏ rằng cô nàng Tiểu Lang mạnh nhường nào. Rõ ràng gã không muốn mất mặt vì thất bại trước một cô gái nhỏ con trong khi mang danh Thập Kiếm. Cơ mà nếu biết con nhỏ đáng yêu hậu đậu nọ là Ngũ Pháp Sư, Ly Đốc sẽ chẳng cần hoa chân múa tay như thế. Tiểu Hồ im lặng, tự khoác vẻ mặt ngạc nhiên lẫn cái áo khoác “không biết gì” cho mình. Nhưng nhờ vậy mà nàng xác định được nhiều vấn đề. 

Tiểu Lang chính là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, một trong Ngũ Pháp Sư. Theo lời cụ cố và người gác đền Lục Triều, bà ta đã gần ba trăm tuổi. Một bà già khú đế đích thực và không nên trêu vào. Tiểu Hồ đoán người phụ nữ đó đã dùng phép thuật nhằm giữ lại sự trẻ trung xuân sắc, nhưng lại khác hẳn cụ cố lẫn Lục Triều dù đều chung nguồn gốc Mộc niệm. Dường như suy đoán của cụ cố rằng Thôn Cơ sử dụng đền Mộc Thần nhằm truy cầu sự bất tử đang trở thành sự thật. Không đương dưng người phụ nữ đó xuất hiện giữa chốn rừng núi sâu thẳm này, một nơi đầy rẫy thảo mộc kỳ dị cùng vô số bí mật. “Bà ta đang ngược lên phía bắc!” – Tiểu Hồ suy đoán, nàng muốn lên đường ngay. 

- Tôi ngất đi bao lâu rồi? – Tiểu Hồ hỏi. 

- Hai tiếng gì đó. – Ly Đốc trả lời – Em muốn đi luôn? Không được đâu! Chúng ta phải theo tiểu đội Bắc Thần quốc. Họ di chuyển thì ta mới được phép di chuyển. Đừng nóng vội, nếu không em sẽ làm chúng ta chẳng khác bọn sát thủ hoặc săn chiến lợi phẩm. 

Tiểu Hồ tặc lưỡi sốt ruột. Vừa lúc ấy một tay lính đánh thuê đội Răng Giả thò đầu vào lều, thông báo khu vực đã an toàn và được phép mở đèn chiếu sáng. Ly Đốc nhổm dậy mở đèn sưởi rồi bật máy chiếu ba chiều. Nhờ ánh sáng, khung cảnh bên trong lẫn phía ngoài căn lều bớt nhợt nhạt. Tiểu Hồ trông ra ngoài và thấy vài căn lều dã chiến khác đang sáng đèn sưởi, một số của quân đánh thuê, số khác dành cho lính Bắc Thần quốc. Cơn mưa đổ xuống rừng ngày càng nặng hạt, từ đây có thể nghe tiếng nước sùi lên cùng bùn đất tạo thành rãnh lầy lội. Tiểu Hồ đành gác lại sự nôn nóng rồi ườn lưng nằm dài. Thật khó mà từ chối sự lười lẫm trong thời tiết này. 

“Tin tức từ Phi Thiên quốc: công chúa Lục Châu có chiến dịch vận động tranh cử ở Đả Thải thành và khu vực miền tây. Cuộc chạy đua tới ngai vàng Phi Thiên quốc đang nóng lên. Một điểm đáng chú ý là công chúa Lục Châu lựa chọn miền tây làm điểm vận động tranh cử đầu tiên, trong khi nơi đây chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ đảng Liên Hiệp Bờ Tây vốn có quan điểm đối lập các hoàng đế Bạch Dương. Điều này trái ngược dự đoán của giới quan sát, rằng công chúa sẽ đến miền bắc trước tiên, lãnh địa của đảng Nghiệp Đoàn Miền Bắc và là đồng minh thân cận với họ Bạch Dương. Thưa ngài Tòa Mỗ, với tư cách thành viên Thập Kiếm đồng thời là chính trị gia, ngài nhận xét thế nào...?

“Xin đính chính là Thập Kiếm do Đại Hội Đồng công nhận chứ không phải bản danh sách nào đó nhé, anh bạn. Chà, tôi rất hâm mộ công chúa Lục Châu, một cô gái tài năng, nhưng quả thực tôi không hiểu lắm quyết định của cô ấy. Trong lịch sử Phi Thiên đã có vài người muốn dựa vào Liên Hiệp Bờ Tây nhưng tất cả đều thất bại. Những ai am hiểu lịch sử Phi Thiên quốc như tôi đều biết Liên Hiệp Bờ Tây vốn là phe thua trận trong cuộc nội chiến, họ đầu hàng Bạch Dương Đệ Nhất để đổi lại quyền lợi ở miền tây. Nhưng thay vì chịu ơn huệ, họ coi đó là cơ hội nhằm chống đối. Khi Bạch Dương Đệ Lục bãi bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, đảng Liên Hiệp Bờ Tây luôn công khai chỉ trích chính phủ và hoàng gia. Mọi lúc mọi nơi! Họ tuyệt đối không phải đồng minh đáng tin cậy. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa tôi vẫn luôn ủng hộ công chúa Lục Châu, dù cô ấy lựa chọn thế nào chăng nữa!”

“Vâng, tôi hiểu ý của ngài, nhưng câu hỏi là ngài có nhận xét thế nào về chiến dịch của công chúa Lục Châu? Dĩ nhiên, nhiều người yêu quý cô ấy, nhưng đánh giá và yêu quý hoàn toàn khác nhau...”

“Ồ không, anh bạn, anh không hiểu chuyện chính trị rồi. Đôi khi chỉ cần yêu quý là đủ chứ không phải chuyện đúng sai!”

Tiểu Hồ chăm chú theo dõi bản tin từ đài truyền hình Bắc Thần trên máy chiếu ba chiều, nhẩm tính rằng đã không nói chuyện với công chúa hơn một tháng. Không phải nàng ngại ngùng sau vụ cãi vã mà vì điện thoại của công chúa do người khác quản lý. Là ứng cử viên, là nhân vật công chúng, công chúa phải dành thời gian cho việc đáng làm hoặc người đáng gặp, những vụ điện thoại ỉ ôi kiểu chị em con gái sẽ làm Lục Châu xao nhãng.

Song giờ Tiểu Hồ thực sự muốn nhấc máy gọi điện cho công chúa. Nàng không ưa Tòa Mỗ, là gã trung niên bụng phệ đang xuất hiện giữa ánh sáng ba chiều với y phục trắng cùng áo choàng nâu đậm gắn đủ loại huy chương, một kẻ được gọi bằng biệt danh “kiếm sĩ truyền hình” bởi tính tình thích lên sóng nhà đài hơn là chứng tỏ năng lực thật. Nhưng tay kiếm sĩ ưa bóng bẩy đó không khơi khơi nói bừa. Miền tây Phi Thiên quốc hiếm khi chào đón thành viên họ Bạch Dương, cũng hiếm vị hoàng đế Bạch Dương nào khiến đảng phái ở đấy thực sự nể trọng. Dân chúng miền tây cúi đầu trước hoàng đế bằng cái cổ xương thịt, còn sâu bên trong cái cổ ấy có bao nhiêu lời chửi xéo thì chỉ Vạn Thế biết. 

- Tôi cũng hiểu một ít về Phi Thiên quốc, cả mấy vụ bầu cử. – Ly Đốc nói – Cô công chúa lép vế trước ông anh của cổ, nhỉ? Lục Châu nổi tiếng trên truyền hình, nhưng bọn tôi, những kẻ trong lẫn ngoài vòng pháp luật biết Lục Thiên nhiều hơn. Thằng cha đó rất cừ, cứ như là một lão già sáu mươi tuổi đội lốt ba mươi vậy. Hắn sẽ làm Bạch Dương Đệ Thập Nhất, tôi cá đấy! Cơ mà thằng cha Tòa Mỗ hài hước ghê! – Ly Đốc cười, đôi vai rung như hai quả đồi động đất – Yêu quý công chúa Lục Châu á? Thằng cha khắm bẹn đó mà cũng nói được vậy à?!

- Ông ta thì sao? – Tiểu Hồ hỏi. 

Ly Đốc ngửa cổ tu bình nước, đưa cho Tiểu Hồ đoạn kể: 

- Hồi năm 7516, Thập Kiếm tổ chức cuộc họp, thằng khỉ gió Tiếu muốn thuê người xử lý công chúa Lục Châu và trả công bằng quang tố[1]. Đợt đó kẹt tiền nên tôi cần kiếm tí chút, quang tố đấy, nhiều lắm! Tôi nán lại đến gần phút cuối, sau lại nghĩ vì mấy cục quang tố mà đối đầu với cả Phi Thiên quốc thì thật không đáng. Tôi bỏ về, tôi nhìn thấy Hệ Tôn và Tòa Mỗ ở lại cuối cùng. Chuyện còn lại là lịch sử, em biết đấy. 

- Tôi không thích ông ta nhưng anh có gì chứng minh? – Tiểu Hồ hỏi – Đừng quên Tòa Mỗ là chính trị gia. 

- Bằng chứng? Vì lão là chính trị gia, bằng chứng đó! Loại người nào vừa làm Thập Kiếm vừa làm chính trị gia? Chính trị gia cần tiền, thế em nghĩ Tòa Mỗ lấy vốn từ đâu? 

Tiểu Hồ nhất thời á khẩu. Nàng không thể nói về một thứ thiếu rõ ràng như Thập Kiếm. Ly Đốc cười: 

- Nghỉ ngơi đi, khi nào tạnh, đám lính Bắc Thần sẽ khởi hành. 

Gã Thập Kiếm đặt chai nước cùng thức ăn cạnh Tiểu Hồ đoạn rời lều. Tiểu Hồ không thích gã nhưng cũng không hẳn ghét, phiền rằng cách nói chuyện móc họng của tên đó khiến nàng khó chịu. Dân phương bắc hoặc lạnh lùng như đá tảng, hoặc nói nhiều tới mức đá cũng phải mòn, hoặc thích móc họng người khác đến độ đá cũng phải lộn ra ngọc. Thiên hẳn về một hướng chứ không lừng khừng khoảng giữa là bản chất của người phương bắc. Thế nên Tiểu Hồ ghét Ly Đốc cũng vô ích như ghét một tảng đá. 

Cơn mưa vẫn nặng hạt, mà mưa rừng khi tạnh còn lâm râm chán mới dứt hẳn. Tiểu Hồ xem bản đồ lần nữa, xác định lại hành trình lên phía bắc rồi trùm chăn ngủ. Nơi chiến trường ngủ được lúc nào hay lúc ấy. Nhưng cô gái vừa thiu thiu một lúc thì có ai đấy bước vào lều. Người này lúc chạm vào ghế khi đá vào vật dụng linh tính dưới đất, xem chừng hơi vụng về. Ngó qua chăn, Tiểu Hồ thấy đó là một người đàn ông, ánh đèn sưởi mập mờ bám lên áo khoác xanh với phù hiệu quan tài đóng dấu chữ thập của Siêu Sinh Giáo Đoàn trên người ông ta, nhưng chẳng thể leo lên gương mặt bặm trợn cùng bộ hàm máy. Tiểu Hồ vẫn nhớ dáng điệu ấy. Hồi ở cô nhi viện, nàng luôn mong chờ dáng điệu ấy vào mỗi buổi sáng. Cô gái nhổm dậy, giọng hơi run: 

- Người giao sữa... là ngài phải không? Đúng là ngài!

- Phải, ta đây. Bé con lớn quá nhỉ? – Người nọ trả lời, lời nói qua bộ hàm máy móc kêu rè rè ngang tai – Nhưng đừng gọi “ngài”, ta không phải quý tộc cũng không được phong danh hiệu. Cứ gọi ta là Răng Giả. Ta mang theo trà, uống không?

Người đàn ông ngồi xuống ghế kế bên giường của Tiểu Hồ, rót ly trà cùng lá thiết mộc màu đỏ au. Cô gái đỡ lấy húp từng ngụm. Nước trà đắng nghét, không ngon lành như sữa nhưng kéo con người về những quãng thời gian xưa cũ, không phải thứ sữa ngon ngọt khiến người ta chỉ biết tới hiện tại. Hai con người im lặng nhưng những cuộc đối thoại vô hình giữa họ lại sôi động hơn bao giờ hết, bởi vì họ đều biết cô nhi viện, đều biết rằng mỗi buổi sáng người này sẽ chờ người kia ở nhà ăn tập thể, một người kể chuyện còn người kia sẽ lắng nghe. Nó từng là một phần cuộc sống của họ. 

- Hôm ở doanh trại, ta không nhận ra bé con, cháu trang điểm khác, không giống như hồi ta thấy ở Kỳ Thi Tổng Lãnh. – Răng Giả cất lời – Cho tới khi ta thấy chữ ký “Gà Thui” thì hơi ngờ ngợ. Bọn trẻ con cô nhi viện gọi cháu như vậy, phải không? 

Người đàn ông trưng ra bản hợp đồng có chữ ký “Gà Thui” của Tiểu Hồ. Cô gái gật đầu cười. Nàng không nghĩ Răng Giả vẫn nhớ cái tên đó. Ngày mới về cô nhi viện, nàng là một đứa bé đen nhẻm, trông y chang món gà quá lửa mà lũ trẻ ghê răng. Cái tên Gà Thui ra đời từ đó. 

- Hơn mười mấy năm rồi, thật lâu quá! – Tiểu Hồ nói – Ngài từ bỏ cuộc sống bình thường sao? Cháu nhớ ngài đã giải ngũ Tiểu Đoàn Kiếm Sắt?!

- Chuyện mưu sinh. – Người đàn ông hàm máy đáp – Ta nhận ra mình hoàn toàn vô dụng trong cuộc sống bình thường. Giao hàng, việc bàn giấy, trồng cây... ta chẳng thạo bất cứ thứ gì. Đánh kiếm mới là thứ ta giỏi nhất. May mắn thay, thế giới Tâm Mộng chứa chấp loại người như ta, cho phép ta vung kiếm và kiếm ra tiền. Vả lại ta còn một đứa con gái, nuôi trẻ con tốn lắm!

- Chờ đã, ngài có con gái? – Tiểu Hồ hỏi lại. 

Răng Giả nói: 

- Khi còn giao sữa cho cô nhi viện, ta đã có con được ba năm. Một đứa con gái và là đứa thứ hai. Giờ nó đang theo học trường nghệ thuật ở Cội thành. Vẽ tranh nặn tượng gì gì đấy, hơi tốn kém. Nhưng nếu không dốc sức vì con cái, chúng sẽ gào lên rằng cha mẹ không yêu thương chúng. 

- Thế con cả của ngài? 

- Vạn Thế bắt ta chỉ được dành tình yêu thương cho một đứa con. – Răng Giả trả lời. 

Tiểu Hồ cúi đầu, hớp tiếp ngụm trà rồi len lén nhìn người đàn ông hàm máy. Vẫn là người giao sữa có gương mặt bặm trợn năm nào, khác chăng là tóc bạc nhiều. Nàng không thể biết Răng Giả đã già đi thế nào bởi bộ hàm máy choán nửa khuôn mặt ông ta, che các vết nhăn, che cả biểu cảm. Nó khiến ông ta không thể cười cũng chẳng thể khóc. Tiểu Hồ từng nghe những người gắn bộ phận cơ sinh học lên thân thể sẽ thay đổi tính nết, máy móc khiến họ lạnh lùng vô cảm vì kim loại ngấm vào máu. Tất nhiên ấy chỉ là chuyện tầm phào. Nhưng quả thực vì bộ hàm máy, tuổi tác và năm tháng xưa cũ đã ở lại cùng Răng Giả. Nỗi đau cũng thế. 

- Hồi cháu rời cô nhi viện, ta có nghe vài chuyện. Mấy bà mẹ nuôi phấn khích đến nỗi bắt chuyện với ta, trong khi hàng ngày họ tránh ta như tránh tà. – Răng Giả chuyển chủ đề – Đại thánh sứ Tây Minh nhận cháu về, sau đó chuyển cho đại pháp sư Đông Ám. Mãi sau này khi đại pháp sư mất, cháu mới nhận Tây Minh làm cha nuôi, phải chứ?

Cô gái gật gật đầu. Người đàn ông hàm máy tiếp tục: 

- Họ sẽ tự hào về bé con. Cả hai đều có một cô con gái giỏi giang. 

- Đại thánh sứ đã về bên cây mẹ, còn đại pháp sư trở thành nắm tro tàn cho Ngũ Hành chứ không về Tụ Hồn Hải. Cháu không nghĩ họ còn tồn tại để tự hào. Người chết không biết tự hào. 

Răng Giả im lặng hồi lâu, sau nói: 

- Có bao giờ cháu tìm cha mẹ đẻ? 

- Không. – Tiểu Hồ đáp – Có thể họ ở đâu đó nhưng cháu không quan tâm. 

- Nhưng bé con vẫn muốn có cha mẹ, phải chứ? 

Tiểu Hồ im lặng. Nàng tránh câu hỏi đó. Răng Giả xoay tách trà trong lòng bàn tay, chiếc lá thiết mộc đung đưa theo nước trà xoay theo chiều ngược lại. Người đàn ông hàm máy trầm ngâm, giọng rè rè như sóng nhiễu hòa cùng âm thanh mưa rừng: 

- Ta cũng giống bé con, muốn tìm một ai hay thứ gì đó để khỏa lấp. Đứa con đầu của ta giống cháu. Nó cũng lăng xăng suốt nhưng chịu ngồi một chỗ nghe ta kể chuyện. Một đứa bé ngoan. Vạn Thế lấy nó khỏi ta, nhưng cho ta đến cô nhi viện và gặp một đứa trẻ khác giống nó. Đó là niềm an ủi đồng thời nhắc nhở ta rằng mình còn một đứa con nữa. Thế giới luôn như vậy, nhỉ? 

Tiểu Hồ gật gật. Trước người đàn ông này, nàng hầu như không nói, phần nào đó lặp lại câu chuyện năm xưa khi nàng là đứa bé nghe chuyện kể, còn Răng Giả đem thế giới đến với con bé mồ côi. Tới sau này làm con nuôi đại pháp sư Đông Ám rồi Tây Minh, nàng vẫn giữ thói quen lắng nghe đó. 

Im lặng thêm chút nữa, Răng Giả đặt cốc trà xuống đất đoạn nói: 

- Ta không biết bé con làm gì ở chiến trường nhưng cứ gọi nếu cần. Ta đã giảm phí hợp đồng mười lăm phần trăm, hết nhiệm vụ ta sẽ hoàn tiền. Mừng ngày gặp mặt!

Người đàn ông chìa tay. Tiểu Hồ ngần ngừ. Cô gái ngẫm nghĩ hồi lâu rồi ôm lấy Răng Giả. Khá đường đột và không lời nói trước. Nhưng Tiểu Hồ chẳng còn ai để gọi là “cha” và ký ức thuở bé đủ lớn để khiến nàng làm thế, không chút ngại ngùng. Người đàn ông hàm máy vỗ vai nàng: 

- Được rồi, nghỉ ngơi đi. Có thời gian, ta sẽ kể cho bé con chuyện về Tiểu Đoàn Kiếm Sắt. 

Tiểu Hồ phì cười. Chuyện Tiểu Đoàn Kiếm Sắt giờ đầy rẫy trên sách báo, gõ vài từ khóa sẽ kiếm ra cả đống tài liệu. Nhưng nếu là người giao sữa kể chuyện thì nàng sẵn sàng lắng nghe, cả chuyện cũ lẫn chuyện mới. Ít nhất nàng sẽ có cảm giác không cô độc trên thế giới này. 

...

Tiểu đội Bắc Thần quốc hủy nhiệm vụ. Đó không phải là tin tức mà Tiểu Hồ muốn nghe sau khi tỉnh giấc. 

Nhưng người Bắc Thần thực sự xuống tinh thần. Mất người cộng thêm hành trình đầy nguy hiểm không lường trước khiến họ chùn bước. Bị chuốc độc dược khiến người Bắc Thần nghi ngờ mọi thứ, kể cả đội đánh thuê Răng Giả cứu mạng họ. Thay vì tiếp tục lên phía bắc, tiểu đội được lệnh quay về doanh trại. Theo lý thuyết, tiểu đội Bắc Thần đi đâu thì đội hỗ trợ nhân đạo theo đó, nhưng Tiểu Hồ không thể bỏ ngang chuyến đi. Nàng tách đoàn, đổi lại là dúi một trăm thùng vàng cho đội trưởng người Bắc Thần để hắn im miệng, không báo cáo sự việc cho phía Đại Hội Đồng. 

- Tay đội trưởng hoặc tên lính nào đó sẽ phun ra thôi. Người Băng Hóa không bao giờ tốt còn người Bắc Thần không thể tin. – Ly Đốc nói với Tiểu Hồ – Nhưng ít nhất bọn chúng sẽ im miệng vài ngày. Xong việc, chúng ta phải xéo khỏi đây ngay, tránh phiền phức.

Tối cùng ngày, hai người băng rừng ngược lên phía bắc. Thiếu tiểu đội lính Bắc Thần, họ không thể dựa vào bản đồ để xác định các khu kiểm soát của quân đội hai nước. Nơi họ cắm trại cùng đội Răng Giả thuộc vùng an toàn, nhưng cách đấy mười cây số lại là vùng chiến sự. Hai người buộc phải vòng qua nó rồi đi một quãng đường dài gấp đôi. Bắt đầu từ khu cắm trại, rừng um tùm hơn và xuất hiện thêm nhiều dãy núi, đường đi lối lại khó khăn gấp bội. Những vụ đấu pháo thi thoảng dội lên ở đâu đó với âm thanh mơ hồ, hoặc có lúc nổ đì đùng ngay bên tai. Nhóm Tiểu Hồ không cô đơn, Tử Thần đã đồng hành bên họ. 

Dù vậy, Tiểu Hồ không phải người Bắc Thần. Bom đạn không thể cản bước cô gái. Mặc cho gã Thập Kiếm khuyên can nghỉ ngơi, nàng đi một mạch từ chiều ngày 12 đến tận tảng sáng ngày 13, hầu như không nghỉ. Một phần vì cô gái nôn nóng muốn tìm Ngũ Pháp Sư, phần khác là đội trưởng Răng Giả tặng vài món phụ kiện hữu dụng như khung trợ lực chân, găng tay bám dính, gậy đa năng, dây dẻo tổng hợp – tất cả chuyên dùng cho việc trèo đèo lội suối. Tuy chúng không có trong hợp đồng song Răng Giả vẫn gửi tặng miễn phí. Trước lúc Tiểu Hồ khởi hành, người lính già không quên làm dấu gọi điện, nhắc nhở cô gái rằng có thể gọi ông bất cứ lúc nào. Ở chiến trường này, Tiểu Hồ không cô đơn. 

Nhưng tới chiều ngày 13, Tiểu Hồ không cô đơn nữa hay nói đúng hơn là xung quanh nàng nhan nhản hàng đống người. Dường như trận đấu pháo từ mấy tiếng trước đã phân định kết quả: quân Bắc Thần rút lui bảo toàn lực lượng và để cho đối phương chiếm lấy mạn bắc thuộc thượng lưu sông Vong Hà. Ngay lúc này, nhóm Tiểu Hồ ẩn thân dưới một tán rừng rậm rạp lá, tránh lộ mình trước ánh đèn rọi qua rọi lại từ bọn người máy thiết giáp của Diệp quốc. Đám người máy bốn chân nom như con nhện bò qua rừng, đứng gác trên mỏm đá cheo leo hoặc di chuyển thành đội băng qua sườn núi nơi mà bộ binh không thể vượt qua. Trên thân chúng sơn hình mười sáu chiếc lá màu vàng kim chụm đầu nhau trên nền đỏ thẫm, đại diện cho quốc kỳ Diệp quốc. Tiểu Hồ không muốn lọt vào tầm mắt của lũ lô cốt di động đó. 

- Rắc rối to đây. – Ly Đốc thì thầm, gã này đang đùa nghịch với một con rết bò trong hốc cây – Ai mà nghĩ người Bắc Thần bỏ cuộc ở vùng thượng lưu chứ? Chúng ta sẽ không bị bắn cho tới khi vẫn còn cái mác đội hỗ trợ nhân đạo Đại Hội Đồng, nhưng bị Diệp quốc tóm về thì không phải ý hay đâu. Đi hay ở, cô em? Chúng ta vẫn còn đường quay lại đấy! 

Tiểu Hồ ngẫm ngợi. Nàng ngán lũ nhện máy. Đó không phải chuyện xấu hổ vì mọi kiếm sĩ trên đời đều ngán bọn nhện máy thiết giáp. Hồi chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành, nàng từng thấy một con nhện thiết giáp càn quét hàng nghìn Chó Hoang. Chúng đích thực là cơn ác mộng chiến trường. Nhưng giữa nỗi sợ và hành động vẫn có khoảng cách. Tiểu Hồ đáp lời: 

- Tôi đi tiếp. Nếu anh sợ thì có thể quay lại. 

Ly Đốc nhướn mày, miệng cười tủm tỉm. Gã búng con rết xuống đất rồi nghiến giày đè chết con vật. Gã đang tiêu khiển trong thời gian nguy hiểm. 

Đêm ấy hai người luồn đường rừng mà đi. Họ băng qua một quả núi mà ở mặt kia núi là bộ binh Diệp quốc cùng đám nhện thiết giáp đóng quân. Ban ngày lũ nhện lùng sục rừng thì khi đêm xuống tới lượt phi thuyền tuần tra. Giữa bầu trời lõng bõng những màu đen lẫn xám, phi thuyền đảo như đèn cù hết soi đèn lại thả người thám thính. Người Diệp quốc muốn kiểm soát toàn bộ ngọn núi. Nhóm Tiểu Hồ lúc di chuyển thật nhanh, lúc phải kiên nhẫn chờ đợi khoảng trống. Bốn tiếng lăn lê bò toài, sau rốt họ cũng xuống chân núi. Và tại đó họ đã đặt chân tới trung tâm vùng bắc thượng lưu sông Vong Hà, nơi mà Tiểu Hồ cất công tìm kiếm. 

Vùng bắc thượng lưu sông Vong Hà luôn vắng người qua lại. Cả dân chúng Bắc Thần lẫn Diệp quốc truyền tai nhau rằng mặt đất nơi đó chôn đầy xác người, không khí lởn vởn bụi ma thuật độc hại còn sót lại từ thời phi cơ giới. Người Đông Thổ ngại người chết, thành thử họ chưa một lần khai phá vùng trung tâm thượng nguồn sông Vong Hà và cứ để nó tồn tại từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. “Hoang Lâm” như người Bắc Thần gọi hoặc “Rừng Bất Khả Phạm” như người Diệp quốc nói đều để chỉ khu vực này. 

Lời đồn không phải dọa suông. Ngay lúc bước vào khu cấm địa, Tiểu Hồ đã cảm giác không ổn vì không khí nồng nặc hương hoa thơm đến váng đầu. Rừng không giống rừng thông thường mà uốn éo, xiêu vẹo theo nhiều hình thù quái đản mà chỉ đám họa sĩ vẽ tranh trừu tượng mới có thể nghĩ ra. Hoặc giả như khu rừng được một tay họa sĩ nào đấy hít hương hoa quá nhiều mà vẽ nên. Nàng không chắc có loài sinh vật nào sống được ở đây. 

- Cú phải không? Ở đây có cú hả? – Ly Đốc chỉ tay. 

Tiểu Hồ nhìn về hướng ấy. Quả thực có con mèo lông trắng đang trừng mắt nhìn bọn họ bằng đôi mắt vàng óng. Con mèo béo tròn quay, tưởng chừng chỉ một cái sảy chân là lăn lông lốc. Tiểu Hồ lắc đầu: 

- Quên nó đi! Đeo mặt nạ vào, theo tôi. 

Nhóm Tiểu Hồ đeo mặt nạ phòng độc đặc dụng rồi lầm lũi tiến sâu vào khu cấm địa. Càng đi sâu, họ càng bắt gặp nhiều cây cối lẫn thảo mộc kỳ dị. Cây thẳng đứng tõe sáu cành, cây vặn vẹo như rắn, cây khác ú nu các bọng gỗ như cục mủ chưa vỡ, nấm khổng lồ mọc tua tủa gai, cỏ leo đen nhánh như tóc người... Tiểu Hồ đoán rằng chúng sống quá lâu trong môi trường ô nhiễm phép thuật nên biến dạng. Nàng từng nghe các đại pháp sư kể về nơi đây một lần, họ nói khu rừng cấm địa toàn thảo mộc độc hại và không thể sử dụng, nhưng thi thoảng sản sinh báu vật. Nơi độc nhất cũng có lúc sinh ra thứ tốt nhất. 

Cơ mà Tiểu Hồ không tìm báu vật. Nàng đang tìm người. Khổ nỗi cuốc bộ hơn một tiếng mà nàng chẳng thấy bóng dáng Thôn Cơ ở đâu. Nàng dợm nghĩ bà ta đã thu hoạch xong thảo mộc và rời khỏi đây. Chưa lúc nào mà Tiểu Hồ mong mỏi Cụ Cố Tổ như bây giờ, nhưng cụ cố luôn biết trêu tức người khác kể cả khi lão vắng mặt. Tức điên, Tiểu Hồ ngửa mặt gỡ khẩu trang tìm chút khí thở. Bó mũi trong chiếc mặt nạ khiến nàng khó hô hấp. Và rồi nàng lại thấy một con mèo béo tròn ườn mình trên cành cây. Tiểu Hồ ngờ ngợ: 

- Con mèo lúc nãy? 

- Hình như thế. – Ly Đốc trả lời, miệng thở hồng hộc – Sao cả khu rừng chỉ có mình nó? 

Tiểu Hồ ngẩn người. Loanh quanh mãi, nàng nhận ra chẳng loài sinh vật hay thứ di động nào tồn tại ở cấm địa. Trừ con mèo. Hình dáng béo núng nính lố bịch của nó thực khác xa nơi dị dạng quỷ quái này. Nàng lắc lắc đầu, cảm giác hoa mắt chóng mặt. Ngay lập tức Tiểu Hồ hiểu rằng cả mình và Ly Đốc đã trúng ảo giác ngay từ lúc đặt chân tới đây. Cô gái lầm rầm chú ngữ Hỏa niệm thổi lên một luồng lửa lớn xua tan không khí. Hơi nóng của lửa luôn khiến con người bừng tỉnh và có thể xóa bỏ ảo giác ngay tức thì. 

Nhưng Tiểu Hồ ước gì mình không được giải phép. Bởi lẽ nàng và Ly Đốc đang đứng ngay trên bờ sông Vong Hà. Con mèo quỷ quái đã dẫn hai người rời khu cấm địa từ lúc nào mà họ chẳng hay biết. Tệ hại hơn, một đội lính trinh sát Diệp quốc đang nghỉ ngơi ngay cạnh sông. Họ ngây người nhìn nhóm Tiểu Hồ, bởi chính họ cũng không biết hai kẻ khỉ gió kia từ đâu chui ra. Bần thần một lúc, đám lính Diệp quốc hối hả giương súng:

- Giơ tay lên! Giơ tay lên! Các người là ai? 

Chẳng còn cách nào khác, bọn Tiểu Hồ phải giơ tay đầu hàng. Sau đó một núi câu hỏi ập xuống đầu Tiểu Hồ. Gã đội trưởng người Diệp quốc nói nhanh nhưng ngữ âm trọ trẹ, hỏi thì rõ lắm khiến Tiểu Hồ muốn loạn óc. “Cái gì? Cái gì” – Gã người Diệp quốc cứ lặp đi lặp lại. Cô gái chịu không nổi, bực mình: 

- Nghe này, chúng tôi là đội hỗ trợ nhân đạo Đại Hội Đồng. Chúng tôi thực thi chức trách của mình. Giấy tờ ở đây, anh thấy rồi đấy! Chúng tôi không thuộc về phe nào cả. Các anh có nghĩa vụ giúp đỡ đội hỗ trợ nhân đạo chứ không phải bắt giữ!

- Rất tiếc, thưa cô. – Gã đội trưởng người Diệp quốc nói – Chúng tôi đã cảnh báo khu vực chiến sự tới Đại Hội Đồng. Không đội hỗ trợ nhân đạo nào được phép tiến vào đây. Cô phải biết chuyện đó. Giờ hãy theo chúng tôi về doanh trại, hoặc chúng tôi sẽ dùng vũ lực. 

Tay đội trưởng rất cứng rắn, lính của gã cũng vậy. Ly Đốc nháy mắt nhìn Tiểu Hồ. Gã Thập Kiếm muốn xử lý theo cách bạo lực đẫm máu và dư sức làm vậy. Nhưng Tiểu Hồ không muốn giết chóc. Lúc đó nàng thấy cái dở khi sinh ra với thân phận phụ nữ, cứ đến lúc nguy cấp là dùng dằng chẳng thể quyết định. 

Nhưng rồi một âm thanh đã quyết định giùm Tiểu Hồ. Nó phát ra từ sâu bên trong cánh rừng, trầm đục, nhịp rung mạnh bạo như một buồng phổi khổng lồ đang hô hấp. Nó đè bẹp tất cả những lá phổi con người đang đứng tại bờ sông. Quân lính Diệp quốc sợ tái mặt, một người run rẩy: 

- Ngáo Ộp! Ngáo Ộp đấy! 

Nghe thế, những người lính khác hoảng loạn chĩa súng về phía khu rừng, tay cầm lấn bấn không vững. Ly Đốc nhân cơ hội đó đạp văng gã đội trưởng người Diệp quốc, đấm bay hai người nữa trước khi cùng Tiểu Hồ bỏ trốn. Hai người phăm phăm tiến vào khu rừng, vừa chạy vừa tạo lá chắn nội lực chống đạn. Lính Diệp quốc bắn xối xả nhưng không đuổi theo. Bọn họ sợ Ngáo Ộp hơn hết thảy. Chỉ vài phút sau, đội trinh sát Diệp quốc mở xuồng bơi qua sông và hoàn toàn mất dạng sau sương mù. 

Trông đám lính khuất hẳn, Tiểu Hồ ôm mặt thở dốc. Nàng không biết tiếng thở vừa rồi thuộc về Ngáo Ộp hay cái gì nhưng nó thực sự kinh khủng, tưởng chừng vọng ra từ một loài sinh vật khổng lồ nào đấy. Tiểu Hồ không nghĩ tiếp tục tiến vào khu cấm địa là ý hay. Bỏ dở hành trình và tìm Cụ Cố Tổ mới là việc nàng nên làm. 

- Ô hô! Đám trẻ con đây rồi!

Giọng nói trẻ trung cất lên giật tóc gáy Tiểu Hồ. Nàng quay lại, nhận ra cô gái Tiểu Lang bước ra từ khu cấm địa, trên vai có con mèo trắng béo tròn quay đang say sưa ngủ. Nhưng Tiểu Lang không đi một mình, phía sau còn có một lão già mặc áo khoác nhàu nhĩ, tóc bạc đầy vỏ cây mùn đất, tay xách chai rượu vơi quá nửa. Trên đời này chỉ Cụ Cố Tổ mới có bộ dạng ấy. Tiểu Hồ chưa hết bất ngờ thì cô nàng Tiểu Lang sà tới ôm tay nàng: 

- Xin lỗi bé con nhé! Mấy ngày trước, giữa ta và bé con có chút hiểu lầm, nếu ta có gì không phải thì bỏ qua nhé! Vậy bé muốn ta giúp gì nào? Ồ, xin tự giới thiệu, ta tên Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, một trong Ngũ Pháp Sư, chủ trì đền Mộc Thần. Đi thôi, chúng ta rời khỏi đây, chỗ này không có trà bánh gì hết, nói chuyện chán ngắt hà! Bé muốn uống sữa không? 

Tiểu Hồ hoa mắt chóng mặt trước vị Ngũ Pháp Sư thấp hơn mình một cái đầu, giọng nói dễ thương cùng khuôn mặt thiếu nữ đang tuổi cắp sách tới trường. Nàng ngoảnh lại nhìn cụ cố, thấy lão già đấm hông bồm bộp, miệng lổm bổm chửi thề lẫn bực dọc: 

- Con ranh trời đánh thánh đâm! Nói nhẹ không nghe lại thích thân lừa ưa cử tạ. Mày phải đền rượu cho ta... ôi, cái lưng, khốn khổ thân ta...

[1]: cuộc họp Thập Kiếm, xem lại Quyển 3 Chương 11

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play