Phiền Tế Cảnh nói được thì làm được, ngày thứ hai liền đi tìm Quan Tỉnh bọn họ hỏi thăm tình tiết vụ án.
Khi Hoa Hoài Tú ăn xong điểm tâm chạy tới, Chu Liêu Đại đang đối diện Phiền Tế Cảnh trừng to mắt nhìn hắn, dáng dấp có vẻ đang vô cùng giận dữ.
Quan Tỉnh và Thi Kế Trung trầm mặc ngồi một bên.
Thượng Quan Đinh Ninh lo lắng đứng phía sau Chu Liêu Đại, muốn kéo Chu Liêu Đại lại, rồi lại sợ hãi rụt rè cố kỵ điều gì đó mà lại thôi.
Phiền Tế Cảnh nghiêm túc nói: “Còn thỉnh nhị sư huynh nói rõ bản thân lúc đó ở nơi nào, để tiêu trừ hiềm nghi.”
Chu Liêu Đại cười lạnh nói: “Ý của ngươi là nếu ta không nói bản thân lúc đó ở nơi nào, ngươi sẽ đổ ta tội giết sư phụ?”
“Ta cũng không có ý này.” Phiền Tế Cảnh dừng một chút, ngay khi Chu Liêu Đại cho rằng hắn muốn bỏ qua, lại nói: “Còn thỉnh nhị sư huynh nói rõ bản thân lúc đó ở nơi nào.”
Chu Liêu Đại tức giận tới mức sắc mặt trắng bệch, “Giết người luôn luôn có nguyên do, ta vì sao phải giết sư phụ?”
“Đúng vậy. Vì sao?” Hoa Hoài Tú thong thả đi tới, đứng tại trước mặt hắn, nghiêm túc nhìn hắn nói, “Rốt cục là vì sao?”
“Ta không có giết sư phụ.” Chu Liêu Đại gằn từng chữ một nói.
Hoa Hoài Tú nói: “Hung thủ nhất định cũng sẽ nói như vậy.”
Chu Liêu Đại mặt đỏ lừ, trừng to mắt, gằn từng chữ một nói, “Ngươi có ý gì?”
Hoa Hoài Tú không chút sợ hãi nói: “Tựu sự luận sự (tùy việc mà xét).”
Quan Tỉnh rốt cục cũng đứng ra nói: “Nhị sư đệ, sư phụ đã qua đời rồi, ngươi có nan ngôn chi ẩn (việc khó nói) gì cứ nói hết ra, đừng ngại.”
Chu Liêu Đại trán nổi gân xanh, bỏ lại một câu “Các ngươi tin hay không thì tùy!” liền chạy về phòng.
Thượng Quan Đinh Ninh nhìn bóng lưng hắn rời đi, rồi lại quay đầu lại nhìn mọi người, có chút do dự.
Quan Tỉnh nói: “Sư muội, ngươi đi xem hắn đi.”
Thượng Quan Đinh Ninh như trút được gánh nặng, nhanh chóng đuổi theo.
Thi Kế Trung vươn tay trái nói: “Nhị sư huynh.” Lại duỗi tay phải ra, “Tứ sư tỷ.” Sau đó vỗ tay một cái.
Phiền Tế Cảnh bừng tỉnh nói: “Nhất phách tức hợp (ăn nhịp với nhau)?”
Thi Kế Trung vươn ngón tay cái ra. (thumbs up =)))
“Bất quá...” Phiền Tế Cảnh nhíu mày nói, “Nhất phách tức hợp cái gì?”
“...” Ngón cái của Thi Kế Trung gập lại.
Hoa Hoài Tú bất đắc dĩ nói: “Một nam một nữ, nhất phách tức hợp, hai hợp làm một...”
“Khái khái.” Quan Tỉnh ho khan.
Phiền Tế Cảnh rốt cục cũng hiểu ra, trên mặt tràn đầy kinh ngạc.
Quan Tỉnh nói: “Nếu như ta đoán không sai, nhị sư đệ lúc đó hẳn là cùng một chỗ với tứ sư muội.”
Phiền Tế Cảnh bình tĩnh nói: “Vậy tại sao nhị sư huynh không nói ra?”
Thi Kế Trung nói: “Sư phụ trước nay vẫn luôn phản đối quan hệ của nhị sư huynh và tứ sư tỷ.”
Hoa Hoài Tú kinh ngạc nói: “Lưỡng tình tương duyệt, nhân chi thường tình [1]. Huống chi hỉ sự của bọn họ là sư xuất đồng môn [2], là cẩm thượng thiêm hoa [3], vì sao Bộ chưởng môn lại phản đổi?”
Thi Kế Trung nhìn về phía Quan Tỉnh, nhất thời không dám nói gì.
Quan Tỉnh hơi nhíu mày.
Hoa Hoài Tú nhìn Phiền Tế Cảnh nói: “Ngươi có biết?”
Phiền Tế Cảnh lắc đầu nói: “Không biết. Từ nhỏ đến lớn ta rất ít khi luyện công cùng các sư huynh muội.”
Hoa Hoài Tú nhíu mày nói: “Vì sao?”
“Sư phụ nói, Hoa gia là danh môn Giang Nam, ta là người của Hoa gia, hiển nhiên phải là người văn võ song toàn. Bởi vậy từ nhỏ sư phụ đã thỉnh rất nhiều vị lão sư đến dạy ta.” Phiền Tế Cảnh nói.
Hoa Hoài Tú thở dài nói: “Ta cuối cùng biết được sự cổ hủ của ngươi là từ đâu mà ra.”
Thi Kế Trung thấp giọng nói: “Môn hạ của Cửu Hoa phái đi học chi hồ giả dã [4] làm chi.”
Hoa Hoài Tú trong lòng khẽ động.
Bộ Lâu Liêm nói nghe như có đạo lý, nhưng cẩn thận ngẫm lại, đã thấy sự không vừa ý đối với đệ tử. Văn võ toàn tài, là việc vô cùng khó khăn. Như Phiền Tế Cảnh mà văn võ cùng lúc, trừ phi thiên tư hơn người, còn không thì sẽ nhất sự vô thành.
Nghĩ đến việc Bộ Lâu Liêm ngay lúc tuyển chọn y bát, phái Phiền Tế Cảnh đi chúc thọ Vũ Đương chưởng môn, điều này nghĩa gì không cần nói cũng biết.
Mặt y nhất thời đen đi, giễu cợt nói: “Thật làm khó hắn lo nghĩ chu đáo đến vậy.”
Phiền Tế Cảnh tựa như tìm được tri kỷ, “Sư phụ và cha ta tình đồng thủ túc [5], suốt bao năm qua năm nào cũng tế bái, mặc kệ gió mưa. Đối ta ân trọng như núi, vô luận thế nào, ta cũng phải vì người mà tìm ra hung thủ.”
Vẻ mặt Hoa Hoài Tú như là ăn phải ruồi (FS: chỗ này… không biết edit thế nào khác) (nao: ta cũng giống nàng =.=), tràn đầy phiền muộn.
Phiền Tế Cảnh đối Quan Tỉnh nói: “Đại sư huynh, ngươi nếu còn biết cái gì, thỉnh nói cho ta biết.”
Thi Kế Trung thấy mi đầu (vùng giữa lông mày) của Quan Tỉnh thả lỏng, lập tức mở miệng nói: “Sư phụ trước nay không thích tứ sư tỷ.”
“Vì sao?”
Hoa Hoài Tú và Phiền Tế Cảnh song song hỏi.
Theo như bọn họ nghĩ, nữ đệ tử sống trong một đám đệ tử nam giống như một đóa hoa tươi sinh trưởng giữa đồng cỏ dại, nên được nâng niu như trân bảo mới đúng, sao lại không thích?
Thi Kế Trung nói: “Sư phụ bình thường ghét tứ sư tỷ tay chân vụng về. Nhưng theo ta được biết, sinh hoạt hàng ngày và ẩm thực của sư phụ đều là do tứ sư tỷ một tay lo toan. Thậm chí thọ đản hàng năm của sư phụ cũng là do tứ sư tỷ thu xếp.”
Hoa Hoài Tú đối Bộ Lâu Liêm trước nay luôn có thành kiến, nghe được những lời đó, không chút nghĩ ngợi buột miệng nói: “Sư phụ ngươi trong lòng không chừng khát vọng có người mỗi ngày đánh đánh hắn mắng mắng hắn mới thoải mái.” (SM? O.o)
Phiền Tế Cảnh giận dữ nói: “Biểu ca!”
Hoa Hoài Tú nói ra, tự biết rõ bản thân nói lỡ, nhưng thấy hắn trợn mắt nhìn mình, phiền muộn trong lòng lập tức bị tức giận thay thế, lạnh lùng nói: “Làm sao?”
Phiền Tế Cảnh hai mắt trừng tròn vo, hai má cũng phình lên tức giận, vẻ như muốn nói gì đó, lại bất giác nghĩ đến gì đó.
Hoa Hoài Tú chăm chú nhìn hắn một lúc, bỗng nghĩ hắn khả ái hơn, vẻ mặt có chút hòa hoãn nói: “Những chuyện khác tạm thời gác sang một bên không nói tới. Về chuyện Chu... Sư huynh và Thượng Quan sư muội của ngươi. Nếu lúc đó bọn họ thực sự cùng một chỗ, ngươi có thể hỏi sư muội ngươi.”
Phiền Tế Cảnh vẫn như trước tức giận nhìn hắn.
Hoa Hoài Tú đột nhiên mỉm cười, nói: “Hay là, ngươi tưởng cả đời nhìn ta như vậy?”
“...”
Phiền Tế Cảnh quyết định hoàng hôn đi tìm Thượng Quan Đinh Ninh.
Nói đến Thượng Quan Đinh Ninh, nàng cũng là hậu nhân của danh môn, kỳ phụ Thượng Quan Hoành là Đông Nam đại hiệp tiếng tăm lừng lẫy trên giang hồ, nhưng bất hạnh tao ngộ bị Huyết Đồ đường ám sát, nàng lưu lạc thành cô nhi, bị đưa tới Cửu Hoa phái, giao cho bạn thân của Thượng Quan Hoành là Bộ Lâu Liêm nuôi dưỡng.
Trong số năm sư huynh đệ, chỉ có Phiền Tế Cảnh và Thượng Quan Đinh Ninh là phụ mẫu song vong. Có lẽ là vì đồng mệnh tương liên (số mệnh giống nhau), trong lòng hắn, nàng so với những người khác có chút khác biệt.
Đi tới trước cửa phòng của Thượng Quan Đinh Ninh, hắn nghe thấy âm thanh xoát xoát xoát va chạm của nồi niêu từ trù phòng bên cạnh.
Từ khi bị Tống Bách Lâm xông vào khuê phòng, Thượng Quan Đinh Ninh đã chuyển đến gian phòng cạnh trù phòng. Thứ nhất vì là nơi đây vắng vẻ, khó có thể tìm. Thứ hai là làm cơm nấu thức ăn cũng dễ dàng thuận tiện hơn.
Bất quá sau đó Tống Bách Lâm liền đưa tới một trù nương của Cửu Hoa phái, nói là chăm sóc cho Hoa Hoài Tú, nhưng kỳ thực là nấu cơm cho mọi người.
Phiền Tế Cảnh đứng trước cửa, đưa tay lên chuẩn bị gõ, cánh cửa tựu y nha một tiếng mở ra.
Thượng Quan Đinh Ninh đứng bên trong cửa mỉm cười, nghiêng người nói: “Tam sư huynh, vào đi.”
Phiền Tế Cảnh vừa nhấc chân, liền nhớ ra quan hệ giữa nàng và Chu Liêu Đại, đành hạ chân xuống, đứng tại chỗ nói: “Không cần, ta chỉ muốn hỏi hai câu thôi.”
“Hỏi đêm sư phụ bị giết, nhị sư huynh có ở cùng với ta không?” Thượng Quan Đinh Ninh sớm nghĩ đến.
Phiền Tế Cảnh nhìn nàng, chậm rãi gật đầu.
“Đúng vậy.” Nàng ngẩng đầu, trên khuôn mặt xinh xắn tinh tế mang theo sự cương nghị kiên quyết.
Phiền Tế Cảnh thở phào nhẹ nhõm, “Nhị sư huynh vì sao không nói sớm?” Theo như hắn thấy, hai người họ ở cùng một chỗ không phải là chuyện gì đáng ngại.
“Bởi vì...” Thượng Quan Đinh Ninh chậm rãi nói, “Chúng ta lúc đó đang ngủ trên cùng một giường.”
Phiền Tế Cảnh đi khỏi cửa phòng Thượng Quan Đinh Ninh rất xa rồi, trên mặt vẫn giữ nguyên vẻ kinh ngạc.
Có thể hắn thực sự đã ly khai Cửu Hoa Sơn quá lâu rồi.
Có thể việc diệt trừ Lam Diễm minh thực sự tốn rất nhiều thời gian.
Có thể... Hắn thực sự quá trì độn rồi.
Hoa Hoài Tú lắc lắc tay trước mặt hắn, “Biết tiểu sư muội trong lòng có người khác, khiến ngươi bội thụ đả kích, thất hồn lạc phách?”
Phiền Tế Cảnh đưa mắt chậm rãi nhìn y, trầm mặc một lúc mới nói: “Án phát đêm đó, đại sư huynh và ngũ sư đệ cùng một chỗ, nhị sư huynh và tứ sư muội cùng một chỗ... Vậy còn người nào đáng nghi nữa?”
Hoa Hoài Tú nói: “Còn có sư thúc của ngươi.”
“Thế nhưng bọn họ không hội ‘Vãn hải cuồng triều’.”
“Ngươi chờ ta hai ngày. Hai ngày sau ta sẽ cho ngươi xem một thứ.” Trong mắt Hoa Hoài Tú hiện lên một tia sáng.
Hai ngày rất nhanh trôi qua.
Hoa Hoài Tú ngay từ sáng sớm đã đứng chờ trước cửa phòng Phiền Tế Cảnh, chờ hắn vừa ra khỏi cửa liền bắt cóc đưa đến trù phòng.
Trù nương thấy Hoa Hoài Tú, trên mặt tựa như lau qua dầu, trở nên sáng loáng. “Hoa công tử, thứ ngài muốn ta đã chuẩn bị tốt rồi.” Nàng vừa nói vừa chỉ vào chích trư bên bếp.
Hoa Hoài Tú hài lòng gật đầu, mỉm cười với nàng nói: “Đa tạ.”
Trù nương tựa như mới uống hơn chục bình bạch tửu, khinh phiêu phiêu (nhẹ nhàng bay bổng) đi ra ngoài.
“Ta chỉ là muốn cho ngươi nhìn thấy một thứ.” Hoa Hoài Tú nói, từ trong tay áo lấy ra một binh khí thô chế lạm tạo (làm cẩu thả). Đại khái là vì rèn quá nhanh, ngay đến chuôi vẫn còn chưa xong, chỉ dùng vài thô bọc lại xung quanh.
Phiền Tế Cảnh nhìn thứ kia như kiếm không phải kiếm, mà là giống thân kiếm của hai thanh kiếm một ngang một dọc giao với nhau cùng một chỗ, khó hiểu nói: “Vì sao mũi kiếm lại đúc thành thập tự (chữ thập)?”
“Ngươi lui ra xa nhìn.” Hoa Hoài Tú chờ hắn lui đủ xa, đưa binh khí đến gần thân trư, sau đó trên tay dùng chút nội lực, bắt đầu nhanh chóng chuyển động.
Chỉ thấy nhục toái phi tiên [6], một lúc sau hình thành một vết thương hình tròn.
“...” Phiền Tế Cảnh không tin được mở to hai mắt nhìn.
Hoa Hoài Tú nói: “Sau khi nghe ngươi nói về đặc điểm của ‘Vãn hải cuồng triều’, ta luôn nghĩ xem có biện pháp nào khác để tạo thành vết thương như vậy hay không. Cho nên vẽ ra một bức vẽ nhờ trù nương mang xuống núi tìm thợ rèn làm, kết quả cũng tạm được.”
Phiền Tế Cảnh lúng túng nói: “Nhìn qua thật giống như đúc.”
Hoa Hoài Tú tức giận nói: “Thế nên ta mới nói là tạm được.”
Phiền Tế Cảnh nói: “Như vậy ai cũng đáng nghi.”
“Cũng không hẳn vậy.” Hoa Hoài Tú đứng lên, đem ngoại bào bị dính thịt vụn chậm rãi cở ra, lộ ra bào tử (áo choàng) sạch sẽ bên trong, “Đệ nhất, người đó phải biết rõ đặc điểm của ‘Vãn hải cuồng triều’, trong Cửu Hoa phái ngay đến ngươi còn không biết, những đệ tử khác càng khó có thể biết được. Đệ nhị, người đó phải có năng lực chế trụ Bộ Lâu Liêm. Đệ tam, người đó phải có động cơ giết Bộ Lâu Liêm.”
Phiền Tế Cảnh nói: “Sư phụ ta là đệ nhất cao thủ của Cửu Hoa phái.”
Hoa Hoài Tú nói: “Thế nhưng song quyền khó địch lại tứ thủ. Nếu như hai vị sư thúc của ngươi liên thủ, ngươi cho rằng sư phụ ngươi trong tình trạng không phòng bị có thể tránh được sao?”
Phiền Tế Cảnh mân mân môi.
“Về phần động cơ... Cái chết của Bộ Lâu Liêm, đối với người đó chắc hẳn phải có lợi rất lớn, thế nên mới dám mạo hiểm.”
“Có lợi rất lớn?” Phiền Tế Cảnh ngơ ngác lần theo suy đoán của Hoa Hoài Tú.
Hoa Hoài Tú nói từng chữ một: “Chẳng hạn như, chức vị chưởng môn.”
Phiền Tế Cảnh mờ mịt nói: “Nhưng sư phụ không có lập di chúc nói người nào kế thừa chức vị chưởng môn.”
“Hắn đích xác không có lập di chúc, bất quá vị trí chưởng môn của Cửu Hoa phái trước nay đều truyền cho y bát truyền nhân.”
“Nhưng lần này có ba...” Phiền Tế Cảnh cả kinh nói, “Ngươi là nói đại sư huynh?”
Tuy rằng có ba y bát truyền nhân, nhưng luận về lai lịch, võ công hay uy vọng, đều chỉ có Quan Tỉnh là xứng đáng.
Hoa Hoài Tú lắc đầu nói: “Ngươi đã quên sư thúc ngươi từng hoài nghi ai là hung thủ sao?”
Hắn đương nhiên là chưa quên, “Đại sư huynh, nhị sư huynh và ngũ sư đệ.”
Hoa Hoài Tú nói: “Loại trừ ba cao đồ của Bộ Lâu Liêm, chức vị chưởng môn chỉ có thể thuộc về sư đệ rồi.”
Phiền Tế Cảnh kinh ngạc nhìn y.
Hoa Hoài Tú ban đầu còn cảm thấy mừng rỡ, cho rằng hắn bị thông minh tài trí của mình làm cho khuynh đảo (ái mộ, bái phục), nhưng càng về sau y càng thấy nhãn thần của hắn tựa hồ không giống bị khuynh đảo, mà giống như muốn... Ngất.
“Ngươi làm sao vậy?”
“Nếu nói như vậy...” Phiền Tế Cảnh nói, “Đáng nghi nhất không phải là Tống sư thúc.”
“Vì sao?” Hoa Hoài Tú nghĩ suy đoán của bản thân quả thực là thần lai chi bút [7], thiên y vô phùng [8].
“Bởi vì ngoài đại sư huynh, nhị sư huynh và ngũ sư đệ ra, người có hi vọng kế thừa chức vị chưởng môn nhất...” Phiền Tế Cảnh chậm rãi nói, “Là ta.”
Hoa Hoài Tú: “...” Tính toán cho những người khác của y, tất cả đều đổ vào một mình Phiền Tế Cảnh.
———————————————————-
[1] Lưỡng tình tương duyệt, nhân chi thường tình 两情相悦,人之常情: hai người yêu nhau là chuyện thường tình của con người.
“Lưỡng tình tương duyệt” [两情相悦] là một thành ngữ hiện đại nhằm chỉ hai bên vừa ý yêu nhau, bắt nguồn từ 《 Trương Cư Chính [张居正] 》 quyển 3 hồi 19 của tác giả Hùng Triệu Chính [熊召政]
Trương Cư Chính (chữ Hán giản thể: 张居正, chính thể: 張居正, latinh hóa: Zhāng Jūzhèng), còn được phiên âm là Chang Chü-cheng, (1525-1582), tự Thúc Đại (叔大), hiệu Thái Nhạc (太岳), là một nhà chính trị và học giả Trung Quốc thời nhà Minh. Ông sinh tại Giang Lăng, Hồ Bắc, vì vậy ông còn được goi là Trương Giang Lăng(张江陵). Ông từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi, 12 tuổi đã tham gia thi tú tài và được tri phủ Kinh Châu là Lý Sĩ Cao khen ngợi. Tới năm 16 tuổi thì Trương Cư Chính đỗ cử nhân, tới năm Gia Tĩnh thứ 16 (1547) thì Trương Cư Chính trúng tiến sĩ khi mới 22 tuổi và được cử vào làm biên tu tại Hàn lâm viện. Là quan to dưới triều Minh Mục Tông, ông được giao trọng trách làm phụ chính đại thần cho Minh Thần Tông trong thời gian hoàng đế còn nhỏ tuổi. Trong giai đoạn này, Trương Cư Chính đã đưa ra nhiều biện phải cải cách sâu rộng về chính trị và kinh tế giúp cho triều đình nhà Minh phát triển cực thịnh. Tuy nhiên sau khi Trương Cư Chính qua đời năm 1582, phần lớn cải cách của ông đã bị Minh Thần tông xóa bỏ, danh tiếng của ông bị hủy hoại trong khi gia đình Trương Cư Chính bị hoàng đế ra lệnh tịch thu gia sản. Phải hơn nửa thế kỷ sau vị trí thực sự của Trương Cư Chính cũng được phục hồi, tuy nhiên khi đó nhà Minh đã bắt đầu suy sụp và không bao giờ còn đạt được trạng thái thịnh vượng như thời Trương Cư Chính là phụ chính.
【成语词条】 两情相悦
【成语拼音】 liǎng qíng xiāng yuè
【常用程度】 常用
【成语结构】 主谓式
【感情色彩】 中性词
【产生年代】 现代
【成语解释】 指双方互相中意与相爱
【语法用法】 作谓语、定语;多用于口语
【典故出处】 熊召政《张居正》第三卷第19回:“我与孟芳见面,两情相悦,就定下这门亲事。”
【应用举例】 洪放《秘书长》:“两相情愿,~。”
【近义词】 两情两愿
Chú giải:
[Thành ngữ] Lưỡng tình tương duyệt
[Phiên âm thành ngữ] liǎng qíng xiāng yuè
[Mức độ được sử dụng] Rất phổ biến
[Kết cấu thành ngữ] Chủ vị ngữ
[Mức độ sắc thái trong thành ngữ] Là từ trung tính
[Thời gian xuất hiện] Hiện đại
[Giải nghĩa thành ngữ] Chỉ song phương đều hợp lòng nhau, đều yêu nhau
[Ngữ pháp sử dụng] Làm vị ngữ, định ngữ, khẩu ngữ đa dụng
[Điển cố xuất hiện] 《 Trương Cư Chính (张居正) 》quyển 3 hồi 19 của tác giả Hùng Triệu Chính (熊召政): “Ta cùng với Mạnh Phương gặp mặt, lưỡng tình tương duyệt, nên định ra lần này việc hôn nhân.”
[Ví dụ ứng dụng] Hồng Phóng 《 bí thư trường 》: “Hai bên đều tình nguyện, lưỡng tình tương duyệt ~.”
[Từ gần nghĩa] Lưỡng tình lưỡng nguyện.
[2] Sư xuất đồng môn 师出同门: cùng theo học một thầy, một môn phái.
[3] Cẩm thượng thiêm hoa 锦上添花: Cẩm: gấm; thượng: trên; thiêm: thêm; hoa: bông hoa. Nghĩa: Trên gấm thêm hoa. Ý nói đã đẹp mà làm cho đẹp hơn nữa. Đây là câu thành ngữ của Trung Quốc.
[4] Chi hồ giả dã 之乎者也: Chi, hồ, giả, dã là bốn hư từ thông dụng trong Hán văn cổ để làm trợ ngữ từ. Hoàn toàn không có ý nghĩa gì khác ngoài tác dụng trợ ngữ. Đặt trong PHATK có ý nghĩa là Bộ Lâu Liêm cố ý cho Phiền Tế Cảnh học không đúng trọng tâm, chỉ cho học những thứ lan man.
Một chút thông tin về “Chi, hồ, giả, dã”:
“Chi hồ giả dã” ở Trung Quốc khoảng đầu thế kỷ 20, thứ văn viết được dùng gọi là Văn Ngôn Văn 文言文 (hay còn gọi nôm na là Cổ Văn) với hàng loạt các từ Chi Hồ Giả Dã 之乎者也 được sử dụng làm trợ ngữ rất khó hiểu. Tiếng Hán cổ đại (văn ngôn văn) khó nhất là cách dùng hư từ. “Chi, hồ, giả, dã, yên, tai…” là những hư từ của tiếng Hán cổ. Loại văn cổ này khi viết không có dấu ngắt câu và các cấu trúc câu kiểu phương Tây, mà chủ yếu nhờ các hư từ kiểu “chi, hồ, giả, dã…” để phân tích câu. Do đó nó là thứ văn rất khó hiểu, đọc rất nhức đầu. “Văn ngôn văn” đọc lên khác hẳn với cách nói thông thường trong dân dã. Ở VN ta có thể coi là cách “nói chữ”, muốn hiểu thì phải học mới hiểu. Nắm vững cách dùng mấy chữ này thì phần văn pháp coi như đã thông, không cần học cú pháp, văn phạm (grammar) gì cả. Các cụ đồ nho ta xưa học chữ Hán cổ đọc chữ nho có biết “văn phạm” là cái gì mà viết vẫn hay. Ấy là nhờ nắm vững hư từ “chi, hồ, giả, dã…”. Ở Trung Quốc cũng vậy, trước năm 1990, chẳng có sách nào về văn phạm: chủ từ, túc từ, tĩnh từ, động từ, câu đơn, câu kép gì cả.
Về sau này bắt chước tây phương. Họ vẫn viết đúng quy luật, là nhờ chú trọng cách dùng hư từ. Họ chỉ có sách giảng cách dùng hư từ. Ta có thể tạm coi đó là các sách về văn phạm. Vì thế các nhà nho Trung Quốc khi dạy học cách viết văn cho đúng, thường đọc hai câu sau khuyên học trò: “Chi hồ giả dã hỹ yên tai.” (ý nói các hư từ nếu biết sử dụng đắc thành chương hảo tú tài, dùng viết được thành văn coi như đậu tú tài)
Giới trí thức sĩ phu ta, cũng như Trung Quốc, xưa kia cứ mở miệng là chữ thánh hiền vọt ra, đầy “chi, hồ, giả, dã…”. Ý là nói chữ, dân học thức, nôm na là “xổ nho”.
Cũng từ đó người ta dùng “chi hồ giả dã” để chỉ những người học cao hiểu rộng, bụng mang một bồ sách, mở mồm ra là dùng cách nói chữ, khiến những người chung quanh không hiểu nổi.
“Bác Khổng Ất Kỷ là người độc nhất mặc áo dài mà lại đứng trước quày uống rượu. Bác ta người to cao, mặt tai tái, giữa những nếp răn thường có vài vết sẹo, lại có một bộ râu hoa râm lổm xổm, rối như mớ bòng bong. Áo tuy là áo dài nhưng vừa bẩn vừa rách, hình như hơn mươi năm nay chưa hề vá mà cũng chưa hề giặt. Bác ta nói chuyện với ai, mở miệng là “chi hồ giả dã”làm cho người ta chẳng hiểu gì hết.”
(Trích truyện ngắn Khổng Ất Kỷ của Lỗ Tấn)
Sau đây là một vài ví dụ, có đề cập đến những hư từ trên:
Trích từ Luận Ngữ – Chương Tử Hãn có đoạn: “Thái tể vấn Tử Cống, viết: ‘Phu tử thánh giả dử Hà kỳ đa năng dã.’ Tử văn chi, viết: ‘Thái tể chi ngã hồ? Ngô thiếu dã tiện, cố đa năng bỉ sư… Quân tử đa hồi tai? Bất đa dã.’” Dịch văn: “Quan Thái Tể (một chức quan lớn) hỏi Tử Cống (một môn đệ của Khổng Tử): ‘Đức Khổng Tử có phải là thánh nhân không? Hẳn là ngài phải nhiều tài năng!’ Tử Cống trả lời: ‘Vì trời muốn ngài là thánh nhân nên ngài đa tài đa nghệ..’ Khổng Tử nghe được, nói rằng: ‘Quan Thái Tể biết rõ ta chăng? Ta thiếu thời nghèo hèn, nên phải học nhiều tài vặt. Người quân tử có cần nhiều tài năng không? Không cần nhiều.’” (Chú ý mấy chữ “chi hồ giả dã” được viết đậm trong đoạn Hán Việt trên)
Nhân chi sơ tính bản thiện 人之初性本善 con người lúc nhỏ bản tính vốn thiện (Tam tự kinh).
Nhân giả nhân giã, nghĩa giảnghi giã 仁者人也, 義者宜也 – nhân ấy là đạo làm người, nghĩa ấy là sự làm phải vậy.
Tất cả những “chi hồ giả dã” trong các ví dụ ở trên đều gần như không có nghĩa mà chỉ dùng để cấu trúc câu theo lối văn cổ. Người ta gọi là những “từ khó hiểu” vì nó khác với lối nói thông tục của dân thường.
Trước năm 1919, ở bên Trung Quốc chưa có “văn bạch thoại”, chỉ sử dụng cổ văn “Chi, hồ, giả, dã”. Bạch Thoại Văn 白话文 (Hay Văn Bạch Thoại) là thứ văn viết được xuất hiện sau phong trào “Ngũ – Tứ” ( 4.5.1919). Sau khi phong trào Ngũ Tứ nổ ra, Trung Quốc đề xướng và lưu hành một thứ văn thông tục dễ hiểu, gần sát với ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày – thứ văn này gọi là văn Bạch Thoại. Các tác phẩm của Lỗ Tấn và một số nhà văn khác trong thời điểm này được coi là đại diện của thứ văn Bạch Thoại.
Sau khi Triệu Khuông Dận – vua lập ra nhà Tống – lên ngôi, chuẩn bị mở rộng vùng ngoại thành, ông đến trước Chu Tước môn, ngẩng đầu nhìn thấy 4 chữ “Chu Tước Chi Môn” trên tấm biển, cảm thấy rất khó chịu, bèn hỏi đại thần Triệu Phổ bên cạnh: “Tại sao không đề ba chữ ‘Chu Tước Môn’ thôi, viết bốn chữ ‘Chu Tước Chi Môn’ chi vậy? Dùng thêm chữ ‘Chi’ có tác dụng gì?” Triệu Phổ bẩm rằng: “Chữ ‘Chi’ này được dùng làm trợ từ.” Nghe xong, Triệu Khuông Dận cười lớn nói: “Mấy hư từ chi hồ giả dã này có thể giúp ích được gì!”
【释读】 古汉语的文言虚词,借为讽刺人说话喜欢咬文嚼字,不讲实际。
[Giải thích] hư từ trong cổ văn, dùng châm biếm những người nói chuyện thích chọn câu chữ, không nói theo tình hình thực tế.
Qua những phân tích trên, “Chi, hồ, giả, dã” dùng trong Hán văn chỉ để âm vận câu văn được êm tai, réo rắt hơn, hoặc tăng thêm ngữ khí, hoặc dùng để nối kết các thành phần của một câu. Vì thế “chi hồ giả dã” là bốn hư tự (chữ đệm không có nghĩa lý gì) thường được dùng để chỉ những chuyện trống rỗng, vô ích, những gì hư huyễn, không thực tế. Làm chuyện “chi hồ giả dã” tức là làm chuyện phù phiếm, không thiết thực.
[5] Tình đồng thủ túc 情同手足: tình cảm như anh em ruột thịt.
Câu này xuất xứ từ “Điếu Cổ Chiến Trường Văn”《吊古战场文》 của Lý Hoa 李華:
“谁无兄弟,如足如手。”
“Thùy vô huynh đệ, như túc như thủ”
Lý Hoa (715 – 766), tên thật là Hà Thúc遐叔, quê ở Tán Hoàng 赞皇 (nay thuộc Hà Bắc 河北). Lý Hoa là một nhà thơ, nhà văn lớn. Ông thuộc đời nhà Đường, vua Đường Huyền Tông. Lý Hoa năm Đường Huyền Tông Khai Nguyên (735) đậu tiến sĩ, năm Thiên Bảo (743) làm giám sát Ngự Sử.
“Điếu cổ chiến trường văn” miêu tả cảnh tượng chiến trường hoang vắng, thê lương, nói lên việc chinh chiến tàn khốc cùng tạo nghiệt cho dân chúng lâm cảnh lầm than.
Đường Huyền Tông những năm cuối, kiêu ngạo vô lối, hiếu chiến hỉ công, gạt bỏ trung thần, trọng dụng gian thần, say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi, nghe lời xúi giục của loạn thần, khơi mào chiến tranh với các bộ tộc thiểu số, đề ra chiến tranh lập công ban thưởng, tạo thành mâu thuẫn nội bộ sâu sắc, họa chiến tranh liên miên, binh sĩ thương vong thảm trọng, dân chúng sống cảnh khói lửa binh biến triền miên. Thiên Bảo năm 749, lệnh cho tướng Thư Hàn tấn công dân tộc Thổ Phiên, quân Đường chết trận mấy vạn; năm 751, phái An Lộc Sơn dẫn 6 vạn binh mã tấn công Khiết Đan, toàn quân bị diệt, tiếng oán ngập trời xanh.
“Điếu cổ chiến trường văn” tưởng nhớ về cảnh chiến trường thê lương, vì phải tuân mệnh vua, lấy vua làm trung tâm không thể cãi mệnh mà binh sĩ phải ra chiến trận, thương vong vô số. Lời văn châm biếm, vì nghiệp lớn thống nhất thiên hạ mà đem dân chúng đầu nhập chiến tranh. Mặc dù lời lẽ văn chương biền ngẫu, nhưng văn vẻ lưu loát, tình cảm giao hòa, chủ đề minh mục, ý nghĩa thâm sâu, không hổ là cổ kim truyền tụng nổi danh.
“Điếu cổ chiến trường văn” có 5 phần, ở đây, chúng ta sẽ chỉ trích dẫn phần 5, phần có liên quan đến câu Tình đồng thủ túc.
Phần 5 nói về cốt nhục ly tán, cha chết trận, để lại vợ góa, con côi, anh em chia lìa, ai không có cha mẹ, ai không có anh em?
Thương thương chưng dân, thùy vô phụ mẫu? Đề huề phủng phụ, úy kỳ bất thọ. Thùy vô huynh đệ, như túc như thủ?Thùy vô phu phụ, như tân như hữu? Sinh dã hà ân? Sát chi hà cữu? Kỳ tồn kỳ một, gia mạc văn tri. Nhân hoặc hữu ngôn, tương tín tương nghi. Quyên quyên tâm mục, tẩm mị kiến chi. Bố điện khuynh thương, khốc vọng thiên nhai. Thiên địa vi sầu, thảo mộc thê bi. Điếu tế bất chí, tinh hồn hà y? Tất hữu hung niên, nhân kỳ lưu ly. Ô hô y hi! Thì da? Mệnh da? Tòng cổ như tư. Vi chi nại hà? Thủ tại tứ di.
Dịch nghĩa:
Trời xanh sinh ra đông đảo nhân dân, ai không có phụ mẫu? Từ nhỏ ôm ôm ấp ấp, bồng bế nâng niu, chỉ lo e sợ con trẻ bọn họ (“bọn họ” là ý chỉ quân lính ra chiến trường) chết sớm không thọ! Ai không có huynh đệ tình thâm cốt nhục thân như tay chân? Ai không có thê tử tương kính như tân hết lòng yêu quý? Bọn họ sống đã được hưởng quá cái gì ân huệ? Lại tạo nên tội gì mà gặp phải nghiệt chết chóc? Sinh tử tồn vong của bọn họ, trong nhà người thân không thể nào biết được; cho dù có nghe được từ người đưa tin, cũng chỉ là hồi hộp lo sợ, bán tín bán nghi. Cả ngày ưu sầu phiền muộn, ban đêm mơ về giọng nói và dáng điệu của người thân nơi chiến trường xa. Bất đắc dĩ, không thể làm gì khác hơn là bày biện tế phẩm, dùng rượu tế điệu, ngóng trông về phương xa, nước mắt thê lương, vọng khắp thiên nhai. Thiên địa vọng trông mà u sầu theo, cỏ cây cũng vậy mà theo đau khổ bi thương. Như vậy không minh bạch việc tế lễ, không biết người thân còn sống hay đã bỏ mình, không thể vì người chết trên trời có linh thiêng mà nhận biết được, linh hồn bọn họ cũng không thể tịnh yên. Huống chi lúc chiến tranh loạn lạc, nhất định sẽ gặp phải thiên tai, nhân dân khó tránh khỏi bị trôi giạt khắp nơi. Than ôi! Đây là thời thế tạo thành, là mệnh số cho nên phải chấp nhận đi? Từ cổ chí kim đều như vậy! Thế nào có thể may mắn tránh cho chiến tranh đâu? Chỉ có tuyên dương giáo hóa, thi hành nhân nghĩa, có khả năng làm cho dân tộc tứ phương vì thiên tử mà bảo vệ toàn lãnh thổ đi!
(Trích dẫn phần Nguyên văn từ baike.baidu.com)
[6] Nhục toái phi tiên: thịt vỡ bắn tung tóe
[7] Thần lai chi bút 神来之笔: xuất phát từ cổ đại Trung Quốc, ý chỉ những vị danh họa tài ba vẽ tranh sống động, như có hồn thổi vào, đặc biệt câu này chỉ những vị vẽ tranh thủy mặc, họa sĩ vẽ thủy mặc phải hơn cả một võ sư: tích đủ nội công lại đầy cảm xúc, ý tưởng rồi mới hạ bút, họ có lối vẽ tinh vi, tỉ mỉ, hóa cái phàm tục thành tinh phẩm truyền đời, ngoài vẽ vật, vẽ cảnh, là vật tĩnh, còn chủ ý thêm vào “động”, tức gió, nước chảy, mây bay, tức là thần, là ý, lấy “động” làm chủ, làm tranh như có linh hồn, hào hoa, sống động. Còn ở đây sử dụng câu này ý chỉ là sự vật hoàn mỹ, linh động được nắm chắc trong lòng bàn tay.
[8] Thiên y vô phùng 天衣无缝: nghĩa đen là áo thần tiên không thấy đường chỉ may, nghĩa bóng ám chỉ những gì hoàn hảo không chút sơ sót, không có kẽ hở nào.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT