Vẫn như mọi khi, tấm biển viết chữ tiểu triện và cánh cửa chạm hoa cổ kính vẫn đem lại một cảm giác lịch sử xưa cũ.
Lục Tử Cương đứng trước cửa Á Xá, có đôi chút mơ màng.
Lần cuối anh đến tiệm đồ cổ này, đã là hai tháng trước, trong trí nhớ của anh lần lượt xuất hiện những đoạn ký ức không phải của anh. Dù theo chủ nghĩa vô thần, Lục Tử Cương cũng phải hoài nghi có lẽ mình thực sự là kiếp sau của Lục Tử Cương đời Minh.
Nếu không vì sao anh lại trùng họ trùng tên như thế? Vì sao lại có được Ngô đao? Tại sao tự dưng anh lại biết kỹ thuật làm ngọc?
Lục Tử Cương day day lên huyệt Thái Dương đang hơi đau nhức, từ khi Ngô đao dính máu của Hồ Hợi, không hiểu có phải ảo giác của anh hay không, mà anh thấy cơ thể mình có gì đó là lạ, thỉnh thoảng lại có cảm giác bất an bồn chồn.
Khi đưa Ngô đao cho anh, chủ tiệm đã dặn dò kỹ là không được để đao dính máu. Nhưng trong ký ức của kiếp trước, Hạ Trạch Lan làm đầu bếp sử dụng Côn đao, chắc chắn là không tránh khỏi dính máu...
Lục Tử Cương nghĩ, đang yên đang lành thì gã chủ tiệm gọi điện thoại, anh từ xa tít phải đi máy bay tới, cũng có phần là muốn hỏi chuyện này.
Lục Tử Cương hít một hơi sâu, đưa tay đẩy cánh cửa lớn chạm hoa, một mùi hương trầm xộc lên mũi, đi tận vào trong lòng, khiến anh khoan khoái. Bày biện trong tiệm không khác gì so với lần trước anh đến, có lẽ do hiệu ứng tâm lý, Lục Tử Cương nhớ lại chuyện kỳ lạ lần trước trong Á Xá, khiến anh nhìn thấy đồ cổ gì trong này cũng cảm thấy không yên lòng.
"Đến rồi à?" Giọng nói đều đều của chủ tiệm cất lên trong tiệm, Lục Tử Cương nhìn về phía giọng nói, thấy gã chủ tiệm bước ra từ phòng trong sau tấm bình phong bằng ngọc, trên vai còn có một con thỏ bằng vải rất đáng yêu, đôi tai dài rủ xuống trước ngực chủ tiệm, cảnh tượng này càng nhìn càng thấy không ăn nhập gì.
Lục Tử Cương trợn tròn mắt, nhìn gã chủ tiệm thản nhiên đi qua trước mặt, rồi đun nước pha trà rất thuần thục. Đến khi hương trà đã lấn át hương trầm, Lục Tử Cương mới sực tỉnh ra, ngại ngùng hắng giọng rồi nói: "Chủ tiệm này, tôi cũng đang có việc muốn hỏi anh".
Cẩn thận lôi ra thanh Ngô đao từ trong túi vẫn luôn đeo bên mình, Lục Tử Cương do dự đôi chút rồi mới nói: "Lần trước vì không cẩn thận, thanh đao này đã dính máu...". Tiếng nói của anh càng lúc càng nhỏ, như một đứa trẻ đang đợi gã chủ tiệm trách mắng.
Không thể trách Lục Tử Cương có thái độ như thế, bởi vì trong những ký ức tiền kiếp tự dưng xuất hiện, gã chủ tiệm như một bậc thầy, nếu không anh cũng không thể chỉ vì nghe lời nói của gã có gì không lành mà phải bay ngay từ Bắc Kinh tới.
"Là máu của cậu sao?" Chủ tiệm không đón lấy Ngô đao, mà đưa chén trà men xanh lục vẽ hoa vàng cho anh.
"Không phải...". Lục Tử Cương vội để thanh đao xuống, lấy hai tay đỡ chén, nhấp một ngụm trà thơm, rồi nói: "Là máu của thiếu gia Hồ Hợi kia, dính vào lúc hắn ta dùng sách Vong Linh để chiêu hồn". Lục Tử Cương không nói tiếp nữa, vì anh thấy đôi mày của chủ tiệm rõ ràng phải nheo lại vì câu nói của anh.
Chẳng lẽ đúng là đã phạm vào điều cấm kỵ? Lục Tử Cương bắt đầu thấy sợ hãi, anh nhận ra đôi tay đang đỡ chén trà men xanh lục vẽ hoa vàng của mình bất giác run lên, vội vàng đặt chén trà quý giá xuống quầy.
Chủ tiệm cũng chỉ nhăn mày trong một khoảnh khắc, rồi gã bình thản trở lại, nói: "Việc này không trách cậu được, không sao đâu". Nghĩ mọi việc đều là số mệnh, gã có ngăn cản nữa cũng vô ích.
Không sao ư? Lục Tử Cương định hỏi tiếp, nhưng trực giác cho biết, dù anh có hỏi thì chủ tiệm cũng chưa chắc đã trả lời. Anh thu lại thanh Ngô đao, lại cầm chén trà lên uống, lúc này mới bình tâm trở lại, cảm thấy hương trà tràn ngập vị giác, tấm tắc mấy câu rồi mới nói: "Chủ tiệm, anh gọi tôi đến có việc gì thế?" Lục Tử Cương vừa nói, vừa đưa mắt nhìn về con thỏ vải trên vai chủ tiệm, cảnh tượng quái dị này vẫn khiến anh không thể quen nổi.
Chủ tiệm lấy một hộp gấm nhỏ từ trong quầy ra, chỉ bé bằng bàn tay, sau khi mở ra, bên trong là một miếng đồng bé bằng đầu ngón tay, một đầu thẳng, một đầu có cái khuyên hình tròn, trên miếng đồng có màu xanh gỉ, cho thấy niên đại đã khá lâu.
Lục Tử Cương nheo mắt lại, rồi lập tức sán vào quan sát cho kỹ. Anh chơi với cổ vật nhiều năm, vừa nhìn đã biết là cái gì. "Đây là một cái lưỡi đồng? Không biết là bộ phận của quả chuông nào?"
"Đây là lưỡi đồng của một cái đạc Long Văn". Chủ tiệm ngừng lại một chút, rồi giải thích: "Đạc là một nhạc cụ thời cổ đại, giống như cái chuông hơi lớn một chút, hình dáng như chiếc thanh la, nhưng cổ lưỡi, thời cổ dùng khi tuyên bố chính giáo và pháp lệnh, cũng là nhạc cụ thời cổ, thịnh hành vào thời kỳ Xuân Thu cho đến đời Hán. Khi lắc sẽ phát âm thanh, căn cứ vào vật liệu của lưỡi đạc mà chia làm hai loại là "kim đạc" và "mộc đạc", có lưỡi đồng thì là kim đạc, có lưỡi gỗ thì là mộc đạc".
Lục Tử Cương ngẩng đầu lên, cảm thấy kỳ lạ, những kiến thức cơ bản đó đâu phải là anh không biết, vì sao chủ tiệm còn tốn thời gian giải thích làm gì? Lục Tử Cương chớp chớp mắt, nghĩ chắc mình hoa mắt rồi, nếu không tại sao anh lại thấy con thỏ vải trên vai chủ tiệm đang ngọ nguậy? Lục Tử Cương định thần trở lại, rồi nói: "Chủ tiệm, cái lưỡi đồng này có lai lịch ra sao? Chiếc đạc Long Văn có lưỡi đồng này đâu rồi?"
"Chiếc đạc đó, hiện tại chắc là đang ở phòng số 12 của Bảo tàng Quốc Gia". Chủ tiệm nói rất chắc chắn, cứ như mình tận mắt nhìn thấy rồi. Gã đưa ra một tờ giấy: "Tôi muốn đổi ba món đồ cổ này lấy nó".
Lục Tử Cương cầm lấy tờ giấy, tay vừa chạm vào, anh đã giật mình, chất giấy trắng, thớ giấy dày mịn, còn có hoa văn mây in chìm, có thể nói là hàng thượng phẩm của giấy Tuyên. Anh không kịp nghĩ xem mẩu giấy Tuyên này từ đâu ra thì lại tiếp tục bị tên của ba món đồ cổ viết bằng chữ Lệ trên giấy làm cho sốc nặng.
(Giấy Tuyên: giấy của vùng Tuyên Châu, thư pháp và quốc họa Trung Quốc thường dùng giấy này. Ở Việt Nam các hàng bán gọi là giấy Xuyến (Xuyến chi).)
(Thể chữ của thời Hán, hình dáng hơi bẹt)
Chủ tiệm cũng đoán được phản ứng của anh, vẫn bình tĩnh vừa uống trà vừa đợi anh định thần lại, thỉnh thoảng còn đưa tay sờ lên con thỏ vải trên vai.
Cho dù Lục Tử Cương biết trong Á Xá cất giữ vô số đồ quý hiếm, nhưng nhìn thấy ba cái tên trên, không khỏi khiến anh hoảng hồn. Anh cười nhăn nhó: "Chủ tiệm à, anh khiến tôi khó xử quá, tôi chỉ là nghiên cứu viên thực tập, tôi không quyết định được".
"Vậy thì tìm người quyết định được để thương lượng". Chủ tiệm thổi chén trà nóng trong tay, bình thản nói: "Lấy vật đổi vật, quá hợp lý. Chiếc đạc Long Văn đó chẳng qua là một thứ đồ cổ không có gì nổi bật, là cấp độ mà nhà nước có thể đem giao dịch. Hơn nữa tôi có thể đưa một trong ba món cho cậu trước, coi như đặt cọc. Nhưng tôi yêu cầu trước cuối tháng phải đưa đạc Long Văn cho tôi, không thì giao dịch sẽ bị hủy".
Lục Tử Cương biết điều, không hỏi cái đạc Long Văn kia lai lịch ra sao. Dù sao chủ tiệm cũng không có nghĩa vụ giải thích, mà ba món đồ cổ được viết trên giấy Tuyên kia, chọn bừa ra bất cứ cái nào cũng đủ để đổi lấy đạc Long Ván rồi.
Anh uống trà, trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới gật đầu: "Tôi sẽ cố. Nhưng chiếc lưỡi đồng này tốt nhất là để tôi mang đi luôn, dù sao thì sau khi lắp được vào đạc Long Văn rồi, mới đem đi cho các chuyên gia bên trên giám định để kết luận được."
Chủ tiệm thoải mái gật đầu, lấy một chiếc hộp gấm trong tủ quầy ra, đưa cả cho Lục Tử Cương cùng với chiếc hộp gấm đựng lưỡi đồng, cuối cùng dặn dò một câu; "Nhớ đấy, gắn lưỡi vào đạc Long Văn thì không vấn đề gì, nhưng đừng bao giờ lắc để nó kêu đấy".
Lục Tử Cương nhíu mày ngạc nhiên, nhưng cũng chẳng quá để ý, sau khi kiểm tra món đồ cổ trên tay, liền vội vàng đi.
Gần như lập tức, ngay san khi Lục Tử Cương đi, con thỏ trên vai chủ tiệm ngồi thẳng dậy, đôi tai dài bắt đầu đung đưa: "Này chủ tiệm, cái đạc đó là thứ gì? Lại là món đồ của đế vương à?"
Chủ tiệm cầm chiếc chén men xanh lục vẽ hoa vàng mà Lục Tử Cương vừa dùng lên, cẩn thận lấy nước rửa sạch, rồi để lại chỗ cũ, xong mới nói: "Đồ đồng thau, vào thời kỳ đồ đồng, chỉ có người tôn quý nhất mới được sử dụng. Đồ tế lễ đồng thau lại càng được người ta cho là vật trung gian để giao tiếp với thần linh, những đồ đồng phát ra được âm thanh như chung, não, chinh, đạc, thuần ư, câu diệu..., trở thành công cụ của riêng người bề trên, dùng vào các hoạt động như ban bố chính lệnh, điều hành quân đội, tấu nhạc yến tiệc, tế lễ... "Đạc" là đồ chuyên dùng để ban bố chính giáo pháp lệnh".
Bác sĩ biết chủ tiệm chưa nói xong nên nhẫn nại lắng nghe. Những ngày anh không còn cơ thể, có vẻ vô cùng thoải mái, không cần thức khuya dậy sớm, cũng chẳng cần đến cơ quan quẹt thẻ, hàng ngày cùng chủ tiệm dọn dẹp, bảo dưỡng những thứ đồ cổ kỳ quái, anh học thêm được nhiều điều. Chỉ có một việc duy nhất bác sĩ không hài lòng là anh không thể ăn được nữa, nếu không thì "kỳ nghỉ" này có dài hơn nữa cũng được.
"Biết vua Trụ nhà Thương không? Chiếc đạc Long Văn mà tôi cần đó, là của ông ta. Chiếc đạc đó có năng lực làm người khác phải nghe theo mệnh lệnh của mình, vua Trụ mỗi khi ban bố chính lệnh, đều lắc chiếc đạc đó. Nghe đồn cái này là đến từ tay Đát Kỷ". Sau khi rửa tay, gã chủ tiệm lại châm thêm nước nóng vào ấm trà.
"Òa! Thảo nào anh dặn dò thằng cha Lục Tử Cương không được lắc cái đạc đó! Nói như thế tức là nếu cậu ta lắc đạc, thì chẳng hóa ra có thể khiến người khác phải nghe theo mình sao?" Bác sĩ ngưỡng mộ đố kỵ vô cùng, đúng là một món đồ thần thánh! "Thứ tốt như thế... à không, thứ yêu nghiệt đó, tại sao anh không mang về Á Xá?"
Cậu nghĩ mình là Pháp Hải à? Còn đòi thu phục yêu nghiệt... Chủ tiệm thầm rủa trong bụng, rồi uống một ngụm trà và nói: "Cậu cho rằng Á Xá có thể lấy hết mọi vật trong thiên hạ à? Nói linh tinh. Chiếc đạc Long Văn này gây ra thiên hạ đại loạn, Chu Vũ Vương diệt Thương là vì trước đó đã ăn trộm được chiếc đạc Long Văn này. Chu Vũ Vương từng nói, chiếc đạc Long Văn này tuy rất hay, nhưng lại là thứ ma quỷ khiến người ta sa ngã, bèn lệnh cho Khương Tử Nha phong ấn nó. Từ đó chiếc đạc Long Văn trở thành một thứ đồ cổ bình thường, cho đến hơn ngàn năm sau, khi phong ấn của Khương Tử Nha mất dần, chiếc đạc này lại đến tay Dương Quảng, khi ấy còn đang làm hoàng tử".
"Dương Quảng? Cái này tôi biết, chính là Tùy Dạng đế, người bày mưu thể soán đoạt ngôi vị thái tử của anh trai mình, gây chiến trận liên miên".
Bác sĩ như chợt hiểu ra, "Thảo nào, Tùy Văn đế thống nhất thiên hạ, đâu u tối đến mức đi phế thái tử, thì ra có nguyên nhân khác! Nhưng triều Tần và triều Tùy rất giống nhau, đều từ loạn thế thống nhất thiên hạ, sau đó được hai đời là đã dứt, nhà Hán và nhà Đường sau này thì lại đều là thời thịnh thế hiếm có. Xem ra Tùy Dạng đế và Hồ Hợi đều là những kẻ phá gia chi tử...".
Khó lắm bác sĩ mới nói được chút ít, nên cứ thao thao bất tuyệt, một lúc lâu sau mới phát hiện ra gã chủ tiệm đang không để tâm lắm, bèn quay lại chủ đề cũ: "Chủ tiệm này, chiếc lưỡi đồng sao lại tách ra khỏi chiếc đạc Long Văn?"
"À, Dương Quảng lạm dụng đạc Long Văn, gây họa cho trăm họ. Nhưng ông ta là hoàng đế, một tay che trời, tôi thì trong lúc gấp gáp không tìm được đồ nhái để thay thế, nên đành thay cái lưỡi bên trong". Chủ tiệm kể lể qua loa.
"Oa...". Bác sĩ bắt đầu tự tưởng tượng thêm, tên hôn quân Dương Quảng sau khi phát hiện ra cái đạc không dùng được nữa, thì liền bị quân khởi nghĩa ở các nơi lật đổ triều Tùy. Phải công nhận rằng, chiêu này của chủ tiệm "trâu bò" hơn chiêu của Chu Vũ Vương, tách lưỡi đồng ra khỏi đạc, là giảm thiểu được nguy cơ bị người đời sau lợi dụng lần nữa. Nhưng lần này đòi Lục Tử Cương lắp lưỡi trở lại, tuy là để trấn áp Càn Khôn đại trận, nhưng ai có thể đảm bảo sẽ không xảy ra bất ngờ gì?
Bác sĩ không quên, Phù Tô đang sử dụng cơ thể của mình, chính là muốn thống nhất thiên hạ.
Chủ tiệm có vẻ đã nhìn thấu tâm tư của bác sĩ, gã bình thản nói: "Mọi việc đều là mệnh, chúng ta hãy cứ ngồi yên quan sát xem".
2
Hồ Hợi gỡ chiếc mặt nạ quỷ vàng xuống khỏi mặt, tần ngần một lát, rồi hạ quyết tâm bước vào thư phòng.
Con chim đỏ đậu trên chiếc giá phía bên cạnh đang ăn thịt bò khô, nghiêng nghiêng đầu nhìn chủ nhân, từ ngày anh trai chủ nhân tới, chủ nhân không còn ở trong hầm mộ tám tối ẩm thấp nữa. Phải, đó là một dấu hiệu tốt.
Hồ Hợi khẽ gõ cửa thư phòng mấy cái, đợi người trong phòng đồng ý mới đẩy cửa đi vào.
Dưới ô cửa sổ hướng nắng, Phù Tô mặc bộ đồ rộng rãi ở nhà, vẫn giữ thóen ngồi xếp bằng giống như kiếp trước. Ánh nắng chiếu tràn lên gương mặt tuấn tú, dát một vòng sáng vàng kim lên người hắn, khiến hắn trông càng cao quý lạ thường.
Hồ Hợi đứng lặng.người nhìn, tuy dung mạo của hoàng huynh trước mặt hắn đã khác, nhưng khí phách vẫn như xưa, cho dù đang ngồi trong một căn phòng hiện đại, cũng khiến Hồ Hợi ngỡ như hơn hai ngàn năm trước. Hồ Hợi bước lên trước một bước, rồi lập tức dừng lại. Hắn cúi xuống nhìn ngọn tóc bị ánh nắng đốt cháy khô, liền lầm lũi quay lại chỗ nắng không chiếu tới.
Phải rồi, hắn không còn là Tần Nhị Thế muốn làm gì thì làm nữa, hắn chỉ là một vong hồn vất vưởng nơi nhân thế.
Đợi lúc Phù Tô bỏ cuốn sách trong tay xuống nhìn, Hồ Hợi mới định thần, kể tỉ mỉ lại một lượt những việc hắn nhìn thấy qua chiếc mặt nạ quỷ vàng.
"Đạc Long Văn có thể khiến người khác nghe theo mệnh lệnh?" Phù Tô sờ tay lên cằm, đôi mắt lim dim. Hắn chưa bao giờ nghi ngờ về sự tồn tại của những thứ đồ kỳ quái đó, bởi vì thời kỳ Hạ Thương Chu xa xôi vẫn được người ta gọi là thời đại thần thoại, dù là thứ gì cũng không kỳ lạ.
"Thứ đồ này nếu được hoàng huynh sử dụng, thì sẽ không bị lãng phí". Hồ Hợi cẩn thận cất lời.
Từ khi Phù Tô đồng ý chuyển từ căn chung cư cũ kỹ của bác sĩ ra ở với Hồ Hợi, Hồ Hợi liền lập tức mua một căn hộ lớn sang trọng. Dù sao trong hơn hai nghìn năm nay, số đồ cổ hắn tích cóp cũng không ít hơn gã chủ tiệm, chỉ có điều hắn thích để hết số đồ cổ đó trong ngôi mộ cổ hắn ở, cũng không hiểu gì lắm về đồ cổ, hắn chọn đại ra một vài món nhìn ưng mắt đem bán là đủ.
Phù Tô nhìn hoàng đệ của mình, cười như không cười, cho dù đã ở cùng nhau mấy tháng, hắn vẫn cảm thấy mái tóc bạch kim và đôi con ngươi đỏ màu máu nhìn rất tức mắt. Lặng lẽ nhìn ra chỗ khác, Phù Tô nhếch mép cười: "Đã nghe thấy hai vị vua sử dụng đạc Long Văn ngày xưa là ai rồi chứ, có ai có kết cục tốt đẹp không?"
Hồ Hợi hơi giật mình, hai vị vua mà gã chủ tiệm nhắc tới, một người là Thương Trụ vương, một người là Tùy Dạng đế, đều là vua mất nước, đến thụy hiệu cũng mang nghĩa bạo ngược, rất ít hoàng đế xứng đáng với thụy hiệu ấy. Hồ Hợi ấp úng không biết nói gì, chỉ biết đứng buông thõng hai tay. Từ nhỏ, hắn đã chẳng ngẩng mặt lên nổi trước hoàng huynh, không ngờ sau hơn hai nghìn năm hắn vẫn vậy.
("Thụy hiệu" là tên đặt sau khi chết để cúng, "Trụ" là tàn bạo, "Dạng" là bỏ lễ nghĩa, xa dân chúng)
Phù Tô thấy vậy lắc đầu cười nói: "Đến phụ hoàng của chúng ta còn có thể bị chỉ trích là bạo quân, thực ra hai người này cũng không hẳn là u tối đến mức như sử sách ghi chép, đều là kết quả của sự bôi nhọ trong đời sau". Phù Tô chỉ vào đống sách sử bên cạnh, mấy ngày nay ngoài lúc đến bệnh viện làm việc như thường, thì hắn ngồi đây đọc sách sử.
"Đế Tân văn võ song toàn, ông ta đem quân thống nhất tộc Đông Di ở vùng Đông Nam, nhưng cái giá phải trả cũng rất lớn. Tù nhân của tộc Đông Di quá nhiều, không thể trấn áp nổi. Lại thêm việc ông ta dụng binh quanh năm, quốc lực suy kiệt, dân chúng oán thán, Chu Vũ Vương thừa cơ tấn công, một lượng lớn tù nhân cũng quay giáo chống lại, kết quả là nhà Thương mất nước". Phù Tô tổng kết sự thật lịch sử mà hắn đọc trong mấy ngày nay, từ vô vàn lời nói rút ra, để đưa ra nhận định xác thực nhất. Đế Tân là tên của Thương Tru vương, thời vương triều Ân Thương, họ Doanh là quý tộc lớn giàu sang vô cùng, nên những điều bí mật, hắn cũng biết đôi chút, sự thật không phải như sách Thượng Thư nói.
Hồ Hợi lặng lẽ cúi đầu nghe, hắn biết hoàng huynh không cố ý dạy dỗ hắn một cách vui vẻ, mà chỉ vì đã quen với việc tư duy tìm tòi. Nếu kẻ đó có chí hướng giống hoàng huynh hắn, thì hiện giờ người đứng đây đã không phải là hắn rồi.
"Còn về Dương Quảng... hừ!" Phù Tô cười khinh miệt. "Lý Thế Dân cũng giết anh em, bắt ép cha, nhưng tại sao lại không bị đời sau chửi rủa?"
Phù Tô bình thường rất nhẹ nhàng, chẳng mấy khi có cái giọng khinh thường như thế, Hồ Hợi cũng bị coi như giết anh em, bắt ép cha, trên trán hắn toát mồ hôi lạnh. Tuy nói một cách chính xác thì hắn không phải chịu trách nhiệm về cái chết của Tần Thủy Hoàng, việc Phù Tô bị hại cũng do một tay Triệu Cao làm, nhưng Hồ Hợi cũng biết tiếng xấu trong sử sách của hắn không phải do đời sau cố tình bịa đặt.
Phù Tô có vẻ như không phát hiện ra sự bất thường của Hồ Hợi, vẫn tự nhiên cầm cuốn sách sử bên cạnh lên, mở đúng đến trang cần đọc: Sách "Tùy Thư" khen Dương Quảng phía Nam bình Ngô Hội, phía Bắc đuổi Hung Nô, trong số anh em, ông ta nổi trội nhất. Năm mười ba tuổi, Dương Quảng được ủy nhiệm làm tổng quản Tinh Châu, năm mười tám tuổi vào triều làm Ung Châu mục, năm hai mươi tuổi được phong tướng quân, đem quân nam tiến, tiêu diệt triều Trần, thống nhất Giang Nam. Sau đó ông ta lôi kéo lòng người, hóa giải được rất nhiều cách biệt về chính trị và văn hóa. Tiếp đó lại đem quân bắc tiến đánh bại Đột Quyết, vậy là sau thời kỳ Nam Bắc Triều, Nam Bắc đã thực sự thống nhất, nếu không thì lấy đâu ra thời thịnh trị nhà Đường. Sau khi Dương Quảng lên ngôi, lại mở ra chế độ khoa cử để tuyển chọn quan viên, được áp dụng tới cả ngàn năm. Ông ta còn sửa đổi đơn vị đo lường, ban hành bộ luật Đại Nghiệp, phát triển con đường tơ lụa, vạn nước triều công. Nếu nhìn nửa đời trước của Dương Quảng, thì có thể gọi là minh quân. Chỉ nhìn niên hiệu ông ta đặt là Đại Nghiệp, cũng đủ thấy chí lớn rồi".
Hồ Hợi càng nghe càng thấy mặt nóng bừng, hắn cũng hai mươi tuổi lên ngôi, nhưng chẳng biết gì về chính sự, sau khi cố nhúng tay vào mấy việc làm cho hỏng bét, hắn liền mặc kệ luôn. Bản thân hắn từ nhỏ chẳng được dạy dỗ gì, còn Dương Quảng thì được Tùy Văn đế Dương Kiên ra sức đào tạo, vì sợ lại xảy ra cảnh tướng lĩnh nắm quyền cướp ngôi như Bắc Chu. Chỉ có điều Tùy Văn đế chắc cũng không thể ngờ nổi, cho dù là con đẻ của mình, nhưng khi đã có quân đội và uy danh, thì cũng không cam chịu đứng dưới kẻ khác.
(Tướng Bắc Ngụy là Vũ Văn Thái có quyền hành lớn, sau khi Vũ Văn Thái chết, cháu trai là Vũ Văn Hộ ép Tây Ngụy Cung đế phải nhường ngôi cho Vũ Văn Giác (con thứ ba của Vũ Văn Thái), lập ra nhà Bắc Chu)
"Cứ nói là Dương Quảng dời đô về Lạc Dương, phải xây dựng công trình thổ mộc quá nhiều, nhưng dời đô về phía Đông là có lợi cho việc cai trị thiên hạ. Trường An ở vùng Tây Vực, quyền lực không vươn ra được Trung Nguyên, nền Lạc Dương tới thời Tống vẫn là trung tâm kinh tế văn hóa. Còn kênh đào Kinh Hàng, thì là công trình giao thông lớn nối liền Nam Bắc, nói về ảnh hưởng, thực không thua kém Vạn Lý Trường Thành của phụ hoàng đâu!"
Phù Tô vô cùng cảm khái, tuy miệng nói vậy, nhưng trong lòng hắn thực sự cho rằng kênh đào Kinh Hàng còn hữu dụng hơn cả Vạn Lý Trường Thành, chỉ có điều phụ hoàng tuy đã ra đi từ lâu, nhưng sự tôn kính của hắn không hề giảm sút.
Tùy Dạng đế cho xây kênh đào Kinh Hàng, cũng hao tổn tài lực như xây Vạn Lý Trường Thành, những công trình lớn lợi nước lợi dân ấy, ai cho xây cũng không được lòng người, nhưng đời sau vừa mắng chửi vừa tiếp tục cho cải tạo, đủ thấy là thế nào. Có điều thành bại đều ở một việc đấy cả, kênh đào Kinh Hàng hơn năm nghìn dặm chỉ làm trong sáu năm là xong, quốc khố của nhà Tùy hao tổn nghiêm trọng, tài lực cạn kiệt, dẫn tới họa lớn.
Hồ Hợi nghe mà đỏ mặt tía tai, cảm thấy câu nào của hoàng huynh cũng như có gai, lời nào của hoàng huynh cũng như đâm hắn, bèn kiên quyết ngẩng đầu lên, quay trở lại chủ đề ban nãy: "Hoàng huynh, chiếc đạc Long Văn đó có cần nữa không?"
Phù Tô bình tĩnh nhìn Hồ Hợi tóc bạc mắt đỏ, một lúc mới gật đầu: "Cần, sao lại không cần? Đệ đi lấy đi, nhớ phải cẩn thận". Âm điệu của Phù Tô lại trở lại như cũ, không nhanh không chậm, bình thản tự nhiên.
"Vâng". Hồ Hợi hít một hơi sâu, rồi quay người đi.
Phù Tô thì không đọc tiếp được cuốn sử trên tay nữa, đôi mắt nhìn ra nhành cây đang lên mầm xanh ngoài cửa sổ, nhìn sắc xuân nở rộ đầu cành, thẫn thờ một lúc lâu chẳng dứt.
3
Lục Tử Cương cẩn thận mở chiếc hộp gấm phía bên phải, lộ ra chiếc đạc Long Văn cổ kính bên trong.
Chuyện giao dịch lấy vật đổi vật của chủ tiệm, không hề dễ làm chút nào, thủ tục rất là rắc rối.
Thông qua các kiểu giám định như kiểm tra X quang, phân tích quang phổ huỳnh quang, giám định nhiệt quang khuôn đất, các chuyên gia đều đưa ra kết luận, chiếc đạc Long Văn này có thể là hàng giả cổ, được làm vào thời kỳ phong trào giả cổ lên cao đời Thanh. Bởi vì nó quá mới, đến gỉ xanh của đồng cũng chỉ nổi trên bề mặt. Đồ đồng thau không thể giám định đồng vị carbon 14c như đồ gốm, nhưng sau khi dùng hàng loạt máy móc chính xác để giám định, các chuyên gia đồng ý lấy vật đổi vật theo ý chủ tiệm.
Chiếc đạc này được giữ mãi trong bảo tàng, vì hiện còn tồn lại rất ít "đạc", nhưng bảo tàng cũng mãi chưa quyết được nên làm thế nào với nó, bởi vì đạc Long Văn chưa thể xếp vào hàng bảo vật cấp quốc gia, còn lâu mới đủ tư cách để vào gian trưng bày của viện. Giờ thì giải quyết xong một món đồ nhàn rỗi. Tuy mọi người không hiểu tại sao chủ tiệm lại dùng ba món đồ cổ giá trị ngất ngưởng để đổi lấy chiếc đạc Long Văn này, nhưng rồi đều nghĩ chắc chiếc đạc này là của tổ tiên truyền lại hay gì đó.
Lục Tử Cương không đem chiếc lưỡi đồng của chủ tiệm đưa cho anh ra, anh xin chiếc lưỡi đồng là vì hứng thú nhất thời thôi, nghĩ lại lần trước trong Á Xá anh ghép Vô Tự Bi, lần này hẳn là phải suy nghĩ cho kỹ. Hơn nữa, chủ tiệm rất coi trọng chiếc đạc Long Văn này, những máy móc hiện đại càng không giám đinh ra, Lục Tử Cương lại càng hiếu kỳ. Anh chắc chắn chiếc đạc này có chỗ nào đó thần kỳ, nên càng không dám tự tiện lắp lưỡi đồng cho nó trước mặt mọi người, đành phải đợi sau khi tan ca, lén lút chui vào phòng thí nghiệm của mình.
Lục Tử Cương đeo găng tay, cầm chiếc đạc to bằng bàn tay, lật lên xem, quả nhiên bên trong chiếc đạc rỗng không, dưới đáy có một bộ phận dùng để nối.
Lục Tử Cương cố định chiếc đạc vào giá, rồi lại mở chiếc hộp gấm nhỏ bên tay trái, lấy lưỡi đồng ra, dùng dụng cụ lắp lưỡi đồng vào một cách thật nhẹ nhàng, sau đó yên lặng đợi vài phút.
Không có gì xảy ra cả, Lục Tử Cương cầm chiếc đạc trong tay, ngây người ra ngắm nghía hoa văn rồng tinh tế trên thân đạc, do dự không biết có nên lắc đạc để thử không.
Tuy rằng chủ tiệm có nhắc nhở anh không được lắc chiếc đạc Long Văn, nhưng ngày xưa cũng từng nhắc anh không được để Ngô đao dính máu đó thôi! Ngô đao của anh dính máu tươi từ lâu rồi, cũng không thấy xảy ra chuyện gì mà!
Lục Tử Cương là người rất cẩn thận, cái nghề này cần có đức tính ấy, nên anh cầm đạc Long Văn nghĩ đi nghĩ lại, mãi vẫn chưa đưa ra được kết luận.
"Nếu ta là ngươi, ta sẽ không lắc đạc Long Văn đâu". Bỗng có một giọng nói đột ngột cất lên trong phòng thí nghiệm.
Lục Tử Cương giật bắn mình, suýt thì đánh rơi luôn đạc Long Văn xuống đất. Anh run run đặt chiếc đạc xuống tấm vải mềm, rồi mới ngẩng đầu nhìn về phía kẻ lần thứ hai không mời mà đến.
Thiếu gia Hồ Hợi vẫn mặc chiếc áo khoác có mũ màu trắng, gương mặt tuấn tú vẫn xanh xao, mái tóc trắng bạc được buộc ra sau gáy, đôi mắt đỏ rực đang nhìn chằm chằm vào đạc Long Văn trước mặt.
Lục Tử Cương nhớ lại đêm hỗn loạn của mấy tháng trước, khi anh tỉnh lại với ký ức kiếp trước, anh nhìn thấy Hồ Hợi tay cầm khóa Trường Mệnh đã vỡ làm đôi. Trong phút chốc đầu óc anh hỗn loạn, trong vô thức cảm thấy Hồ Hợi chính là chuyển thế của Hạ Trạch Lan mà kiếp trước anh si mê, khiến anh bối rối vô cùng.
Nhưng mấy ngày này, sau khi bình tĩnh lại, Lục Tử Cương cũng cảm thấy bình thường. Mọi việc kiếp trước như một giấc mộng lớn, thái độ với gã chủ tiệm của anh thay đổi, ít nhiều là vì gã chủ tiệm bao năm nay vẫn là một người, nhưng Lục Tử Cương không cho rằng Hồ Hợi đứng trước mặt anh là Hạ Trạch Lan, dù sao vẫn là hai người hoàn toàn khác nhau. Hạ Trạch Lan đã chết rồi, trở thành một vết hằn trong đáy lòng anh kiếp trước, chẳng thể xóa, chẳng thể dứt bỏ. Anh sẽ hoài niệm, anh sẽ nhớ, nhưng anh không phải là Lục Tử Cương của kiếp trước.
Định thần trở lại, Lục Tử Cương cất giọng bất cần, nói với Hồ Hợi tự tiện ra vào khu vực cấm của bảo tàng: "Vì sao không được lắc?" Lục Tử Cương vẫn giữ thái độ như xưa với hắn, tuy anh biết thiếu gia đây hẳn phải có bí mật lớn lắm, nhưng anh không có hứng thú tìm hiểu.
Hồ Hợi cũng chẳng buồn bịa chuyện lừa anh, huống hồ hắn còn là công tử của Đại Tần, thậm chí đã từng làm hoàng đế, tất nhiên chẳng cần vì một việc nhỏ này mà phải hao tổn tâm trí, nên chỉ nhướng mày lên cất giọng bình bình: "Chẳng lẽ cái tên giao cho ngươi chiếc lưỡi đồng này không dặn ngươi là không được lắc đạc sao?" Hồ Hợi nói rất chắc chắn, bởi vì hắn nhìn thấy mọi việc qua chiếc mặt nạ quỷ vàng.
Lúc này thì Lục Tử Cương đã hoàn toàn muốn bỏ cuộc, đến Hồ Hợi cũng nói vậy, thì chắc là hắn cũng phải biết gì đó. Lục Tử Cương thấy đôi mắt Hồ Hợi vẫn dán vào chiếc đạc, đôi con ngươi đỏ rực không giấu diếm ngọn lửa bên trong, anh liền bật ra câu hỏi: "Chẳng lẽ ngươi cũng đến vì chiếc đạc Long Văn này? Không được, chiếc đạc Long Văn này có chủ rồi".
Hồ Hợi biết hết chuyện giao dịch giữa anh và chủ tiệm, tuy không nhìn rõ chủ tiệm đã đưa Lục Tử Cương ba món đồ cổ ở cấp độ nào, nhưng hắn cũng tự tin rằng mình có thể đưa ra nhiều đồ cổ hơn nữa để cạnh tranh. Vậy nên Hồ Hợi lấy từ trong người mình ra một thứ giống như khăn tay, ném về phía Lục Tử Cương: "Đây là giá ta đưa ra để đổi lấy đạc Long Văn".
Tấm lụa mỏng vẽ lướt trên không trung một đường tuyệt đẹp, rồi như cánh bướm múa lượn, rơi đúng vào tay Lục Tử Cương. Lục Tử Cương vừa cảm thấy tay chạm được vào chiếc khăn, thì sắc mặt liền thay đổi.
Anh từng nhìn thấy loại áo đơn "tố sa" khai quật trong khu mộ Mã Vương Đôi thời Hán, sợi tơ lụa cực mảnh, tổng diện tích phải khoảng 2,6m2, chỉ nặng 49gr, chưa đến một lạng, sau khi gấp có thể bỏ vào hộp diêm, đây là thứ đồ thủ công mà kể cả công nghệ hiện đại cũng không thể làm ra được. Áo "tố sa" có mắt đan thưa, nên bán trong suốt, còn tấm vải lụa trên tay anh thì thêu rất kín, có màu trắng bạc, cầm lên như không có gì, trên đó còn có mùi xông hương rất đậm. Dù mắt nhìn của Lục Tử Cương rất tốt, nhưng nhất thời cũng không dám xác định tấm vải lụa giản dị trên tay mình có lai lịch ra sao. Điều khiến anh bực tức nhất, đó là trên tấm vải quý thế này lại có chữ viết.
Sách "Mặc Tử" có viết: "Thư chi trúc bạch, lũ chi kim thạch" (viết vào trúc và vải, khắc vào kim loại và đá), vải lụa dành cho quý tộc viết chữ và vẽ tranh, còn dân gian không mua được lụa, nên viết trên thẻ tre. Thời Hán tuy đã phát minh ra giấy, nhưng mọi người đều biết là "lụa quý giấy hèn", dùng giấy để viết chữ, phần lớn là người dân không mua được vải lụa, quý tộc cung đình thì vẫn quen dùng vải lụa. Trên tấm vải lụa anh đang cầm, có viết sáu hàng chữ Tần triện.
Tần triện, hay là "tiểu triện", là loại chữ được giản hóa từ đại triện mà thành, sản sinh ở nước Tần thời kỳ cuối Chiến Quốc, lưu hành vào đời Tần và khoảng đầu thời Tây Hán, là loại chữ Tần Thủy Hoàng dùng để tiến hành chính sách "xa đồng quỹ, thư đồng văn" (xe cùng một cỡ, viết cùng loại chữ) sau khi thống nhất sáu nước. Bởi vì thời Xuân Thu Chiến Quốc, các nước sử dụng chữ viết khác nhau, không tiện cho việc thống trị, nên mới lệnh cho thừa tướng Lý Tư tiến hành thống nhất. Đời sau quen gọi thể chữ đó là "tiểu triện", thực ra cũng như tên gọi "Hán lệ", gọi là Tần triện sẽ làm rõ hơn ý nghĩa của nó.
Chữ Tần triện đường nét tròn đầy trôi chảy, kết cấu chặt chẽ, mỗi nét bút đều thẳng tắp mạnh mẽ. Lục Tử Cương cầm tấm lụa trong tay ngây ra một lúc, rồi mới định thần, đọc chữ Tần triện trên đó.
Nếu là người bình thường, e là chỉ có thể nhận ra vài chữ đơn giản trên tấm lụa mà thôi, nhưng Lục Tử Cương thông kim bác cổ, nghiên cứu nhiều về văn khắc thời Tần, nhanh chóng đọc xong nội dung sáu hàng chữ trên tấm lụa, anh lập tức cứng cả họng lại, không tìm lại nổi tiếng nói của mình nữa.
Hồ Hợi rất hài lòng với vẻ mặt của Lục Tử Cương, đồ cổ là thứ hắn thấy hàng đống trong mộ cổ, cứ chọn bừa vài cái là cũng đủ đập vào mặt người khác. Hồ Hợi rất sung sướng sau khi cảm thấy đã chiến thắng khi đọ của cải, nên cũng rất rộng lượng cho phép Lục Tử Cương không trả lời ngay, hắn chỉ nhếch mép giục: "Thế nào? Dùng để đổi lấy đạc Long Ván, ngươi đồng ý chứ?"
Đôi tay cầm tấm lụa của Lục Tử Cương hơi rim lên, anh không nhịn được nữa, phải hỏi dồn: "Chiếc đạc Long Văn này có gì đặc biệt? Vì sao các người đều muốn có nó?"
Hồ Hợi không trả lời câu hỏi, chỉ hơi nheo mắt lại.
Lục Tử Cương biết là hắn dùng sự im lặng để từ chối trả lời, anh vẫn vò tấm lụa trong tay, rồi lại cúi đầu nhìn lại sáu hàng chữ Tần triện trên đó, cuối cùng anh kiên quyết lắc đầu: "Hồ thiếu gia, tôi xin nhận tấm lòng của anh, nhưng giao dịch của tôi với chủ tiệm đã xong rồi, tôi nhất quyết không thể thất tín được".
Tuy Lục Tử Cương có phần không cam lòng, nhưng anh nói rất kiên định. Một phần là vì không muốn lỡ hẹn với gã chủ tiệm, dù sao thì tiền đặt cọc cũng đã đưa, món đồ cổ giao cho anh cũng đã được bảo tàng cất giữ rồi, mấy hôm nữa là đem ra làm triển lãm chuyên đề rồi. Nhưng một phần nữa là vì tuy anh thấy đồ cổ của Hồ thiếu gia hoàn toàn có thể cầm được, nhưng cảm giác có vẻ sẽ có hậu quả khôn lường. Nói cho cùng, Lục Tử Cương vẫn cảm thấy gã chủ tiệm đáng tin cậy hơn gã Hồ thiếu gia hư hỏng này.
Hồ Hợi nghe xong, đôi mắt đỏ nheo lại, đối với hắn mà nói, hắn đã cho Lục Tử Cương đủ cơ hội để lựa chọn rồi, nhưng anh đang thách thức tính nhẫn nại của hắn. Hồ Hợi chẳng muốn tốn nước bọt thêm với anh, nếu tên này đã không muốn uống rượu mời, vậy thì hắn cũng không ngại cho uống rượu phạt.
Lục Tử Cương vừa nhìn thấy Hồ Hợi sa sầm mặt mày tiến lại, phản ứng đầu tiên của anh là ôm chặt lấy chiếc đạc Long Văn trước mặt. Sao anh lại quên được, gã này chẳng phải hạng tử tế gì, hồi xưa trong sân bàn cờ Lục Bác, tên này từng nhìn thảm kịch xảy ra trước mặt mà mặt không biến sắc. Lục Tử Cương lập tức cảm thấy hối hận, đáng ra anh phải báo cảnh sát ngay khi phát hiện ra Hồ Hợi đột nhập, chứ không phải ngồi nói chuyện dông dài với hắn.
Đối với Hồ Hợi, sự cản trở của Lục Tử Cương chẳng hề có tính uy hiếp, hắn giật lại đạc Long Văn một cách nhanh chóng. Trong khi Lục Tử Cương lấy điện thoại ra định gọi cảnh sát, thì một ý nghĩ điên khùng nảy ra trong đầu hắn.
"Keng...".
Hồ Hợi khẽ lắc cổ tay, đạc Long Văn trong tay hắn phát ra âm thanh giòn tan như tiếng chuông, vang vang trong phòng thí nghiệm rộng lớn.
Khi Lục Tử Cương đã nhận ra tiếng của chiếc đạc Long Văn, anh quên luôn việc gọi cảnh sát, kinh ngạc ngẩng đầu lên, trợn mắt nhìn chiếc đạc trong tay Hồ Hợi. Đã bảo là cấm được lắc đạc rồi mà? Tên kia!!!
"Không được gọi cảnh sát". Hồ Hợi ra lệnh cho Lục Tử Cương, giờ đây hắn đã có đạc Long Văn trong tay, đương nhiên là có thể điều khiển hành vi của người khác. Không phải là hắn sợ đối phương báo cảnh sát, cũng không phải hắn sợ cảnh sát, nhưng dù sao bớt phiền phức cũng tốt hơn.
"Được". Lục Tử Cương thấy vẫn còn cơ hội thương lượng, bèn gật đầu đồng ý rồi nói, "Nhưng anh phải bỏ chiếc đạc Long Văn xuống đã".
Khóe miệng của Hồ Hợi còn chưa kịp nhếch lên thì đã cứng đơ lại. Người bị điều khiển mà vẫn còn hạch sách được sao? Hồ Hợi im lặng trong chốc lát, rồi lại lắc chiếc đạc trong tay, nhân khi tiếng vang còn chưa dứt, hắn vội vàng nói: "Đưa Ngô đao của ngươi cho ta".
Lục Tử Cương lại tròn mắt nhìn mà cạn lời, Hồ thiếu gia này ban nãy vẫn còn có vẻ là nói chuyện được, sao tự nhiên não bộ chập mạch thế này?
Hồ Hợi nhìn chiếc đạc Long Văn mà không dám tin rằng đã lắp lưỡi đồng vào đạc Long Văn rồi, tại sao vẫn không thể ra lệnh cho người khác? Hay là cách dùng của hắn không đúng?
Sau đó, Hồ Hợi bắt đầu thử mọi cách, liên tục lắc chiếc đạc Long Văn, tiếng đạc văng vẳng không dứt. Ban đầu Lục Tử Cương còn nghi hoặc chưa biết làm sao, cuối cùng thì tìm một cái ghế ngồi xuống, tay chống cằm, nhìn màn tấu hài trăm năm khó gặp của Hồ thiếu gia.
Giờ thì Lục Tử Cương hiểu rồi, thế này mà gọi là không được lắc ư? Chủ tiệm và Hồ thiếu gia này coi anh là đồ ngốc rồi! Hồ thiếu gia lại còn đang lắc điên cuồng kia kìa! Nhưng có điều, tiếng nhạc của chiếc đạc Long Văn này đúng là rất hay.
Trong lúc Hồ Hợi đang không biết phải làm gì, bỗng hắn thấy có một vệt xanh bay vụt qua mặt, mu bàn tay phải đau nhói, không cầm nổi chiếc đạc Long Văn nữa. Phía bên kia cũng là tiếng hô ngạc nhiên của Lục Tử Cương, nhưng không ai nghe thấy tiếng chiếc đạc Long Văn rơi xuống đất.
Hồ Hợi đưa mắt nhìn, mới phát hiện ra vệt xanh ban nãy là một chú chim ba chân màu xanh, màu lông xanh biếc, thân thể nhanh nhẹn, chỉ có điều mấy chiếc lông đuôi tuyệt đẹp mọi khi đã gãy, phía đuôi mất một mảng, trong lòng Hồ Hợi biết rõ, đó là chiến công của chim Minh Hồng nhà mình.
Thật đáng tiếc, đáng ra hắn phải mang con chim đỏ nhà mình tới, thay vì cho nó ở nhà ăn thịt bò khô.
Hồ Hợi nhìn theo chim Tam Thanh đang ngậm chiếc đạc Long Văn bay về phía góc phòng thí nghiệm, nó chậm rãi đậu lên một cánh tay đang vươn ra, ngoan ngoãn bỏ chiếc đạc Long Văn cắp trên mỏ xuống bàn tay gã kia.
"Chủ tiệm? Sao anh cũng... đến đây?" Thực ra Lục Tử Cương muốn hỏi "Sao anh cũng vào được đây". Anh đặt tay lên trán một cách bất lực, anh nhận ra mình bây giờ có thể hoàn toàn bình thản đối mặt với mọi sự việc kỳ quái rồi.
"Tôi sợ để lâu sinh biến, nên đến giao dịch sớm cho xong". Chủ tiệm liếc nhìn tấm lụa đặt ữên bàn của Lục Tử Cương, nhìn thấy sáu hàng chữ Tần triện trên đó, thầm rủa tên công tử kia vẫn ăn tàn phá hại như hơn hai nghìn năm trước, hắn lấy ra từng này đồ mà không thèm chớp mắt lấy một cái. Hơn nữa ngày trước gã viết chữ Hán lệ là để cho Lục Tử Cương dễ đọc, đâu có như tên Hồ Hợi kia cố tình viết Tần triện để khoe mẽ. Nhưng chữ Hồ Hợi viết dù sao cũng đẹp hơn hai nghìn năm trước nhiều rồi, có thể thấy hắn cũng bỏ không ít công sức luyện tập.
Chủ tiệm chỉ cho Lục Tử Cương xem hai chiếc hộp gấm đặt bên cạnh, bình thản nói: "Đây là hai món đồ cổ còn lại như đã giao hẹn, cậu kiểm tra xem".
Lục Tử Cương vội vàng xua tay: "Không cần, không cần kiểm tra, tôi tin chủ tiệm". Lục Tử Cương chỉ mong sao hai ông thánh này mau chóng đi ra ngoài, còn chuyện đồ cổ thì anh tin chủ tiệm không phải là người chơi xấu.
Hồ Hợỉ nhìn con thỏ vải không biết đâu ra trên vai chủ tiệm, có vẻ trầm ngâm, rồi như hiểu ra, gật đầu nói: "Phải rồi, ngươi chỉ dụ ta ra đây thôi, ta biết ngươi đã phát hiện ra công dụng của chiếc mặt nạ quỷ vàng, nhưng sao vẫn treo trong phòng, thì ra là kế dụ địch".
Đôi tai con thỏ vải nhúc nhích, có vẻ như đang sợ hãi. Chủ tiệm dùng bên tay đang không cầm đồ gì vỗ lên chú thỏ, nhìn thấy Hồ Hợi định lôi chiếc khăn vàng của Trương Giác ra, gã bèn nói: "Chẳng lẽ ngươi không muốn có chiếc đạc Long Văn này nữa sao?"
Hồ Hợi hừ một tiếng: "Chiếc đạc Long Văn này là đồ giả, ta ban nãy đã thử rồi". Lúc này hắn cũng không còn sợ Phù Tô trách tội, dù sao đem chiếc đạc giả này về cũng vô dụng.
Chủ tiệm mỉm cười: "Đây là đồ thật. Có điều cái lưỡi đồng mà ta đưa Lục Tử Cương thì không phải". Gã vừa nói, vừa tháo chiếc lưỡi đồng trong đạc Long Văn ra, rồi rút trong người ra một miếng gỗ.
"Ơ? Chẳng lẽ đạc Long Văn là một cái mộc đạc? Chứ không phải là kim đạc?" Lục Tử Cương nhìn chiếc lưỡi gỗ trong tay chủ tiệm không rời được mắt.
"Đúng thế, năm xưa Dương Quảng dùng đạc Long Văn để xây công trình thổ mộc, hại đến người dân trăm họ, tôi đã dùng chiếc lưỡi gỗ khác để thay chiếc này, chiếc lưỡi thay thế kia theo năm tháng dần bị mục nát rồi". Chủ tiệm vẫn bình thản, lắp chiếc lưỡi gỗ vào đạc Long Văn.
Lúc này Hồ Hợi mới hiểu ra là mình sai ở đâu, thì ra là như vậy, thảo nào rõ ràng trước đây chủ tiệm nói đã thay chiếc lưỡi khác rồi, mà hắn vừa nãy nhìn chiếc đạc Long Văn trước khi Lục Tử Cương lắp lưỡi đồng thì bên trong không có gì cả.
Lúc này chim Tam Thanh bỗng nhiên dang cánh vỗ hai cái, tiếng kêu cất lên lanh lảnh khiến Hồ Hợi bất giác ngẩng đầu lên, rồi ngay sau đó hắn nghe thấy một tiếng lắc nhạc cụ du dương kỳ lạ vang lên.
"Keng...".
Rõ ràng chỉ có một tiếng, nhưng dường như kéo dài không dứt, vang mãi bên tai hắn.
"Hãy quên việc ta xuất hiện ở đây đi, quay về với Phù Tô, hãy giả vờ như đang giúp hắn, nhưng ngấm ngầm báo cáo với ta mọi động tĩnh của Phù Tô thông qua mặt nạ quỷ vàng". Một tiếng nói lành lạnh xuyên qua lớp lớp sương mù, đi thẳng vào trong não hắn, cho dù Hồ Hợi cố gắng chống lại trong vô thức, nhưng cũng chỉ có thể giãy giụa chốc lát, rồi liền trở lại bình tĩnh.
"Rõ". Hồ Hợi đáp lại một tiếng, rồi như một cái máy, vò chiếc khăn vàng trong tay, một giây sau đã biến mất.
Lục Tử Cương trợn mắt há mồm không nói được câu nào, anh quay đầu lại, muốn chủ tiệm cho anh một lời giải thích hợp lý, nhưng anh chỉ kịp nhìn thấy cổ tay chủ tiệm khẽ lắc lên một cái.
"Keng...".
Tiếng của đạc Long Văn lại vang lên.
"Quên việc xảy ra sau khi tôi lắc đạc Long Văn ban nãy đi, cậu đã hoàn thành giao dịch với tôi rồi".
Khi Lục Tử Cương định thần trở lại, anh phát hiện ra trong phòng thí nghiệm chỉ còn lại mình anh và hai chiếc hộp gấm để góc phòng.
Anh cứ cảm thấy mình hình như quên mất việc gì đó, ôm đầu nghĩ mãi, mà không cách nào nhớ ra nổi.
4
"Nói như vậy, mọi việc đều là do anh sắp xếp à?" Bác sĩ nhìn chiếc hố sâu xuất hiện trước mặt, cảm thấy tiếc nuối thở dài: "Chiếc đạc Long Văn tốt như thế, mà lại phải chôn xuống mắt trận sao? Này chủ tiệm, sao anh không dùng chiếc đạc Long Văn để điều khiển Phù Tô? Bắt hắn trả lại cơ thể cho tôi có phải tốt không."
Đôi tay cầm chiếc hộp gấm đựng đạc Long Văn của chủ tiệm hơi run, gã khẽ thở dài một hơi rồi mới chậm rãi nói: "Không phải tôi không muốn đòi lại cơ thể cho cậu, nhưng Phù Tô... không thể dễ dàng bị lừa thế đâu".
Trên đời này, kẻ hiểu rõ Phù Tô nhất chính là gã, lần này gã có thể lừa được Hồ Hợi, cũng bởi vì Phù Tô không để ý tới Hồ Hợi mà thôi, nếu không thì đâu có dễ dàng thế?
Bác sĩ nghe xong cũng thở dài, cho dù anh cảm thấy tên Phù Tô này có bệnh tự mãn cao, nhưng không thể coi hắn như thiếu niên tuổi mới lớn được. Đó là người kế thừa được Tần Thủy Hoàng ra sức đào tạo, dù hắn chết bất đắc kỳ tử, nhưng tâm kế thì cao hơn hẳn người thường. Bác sĩ đã cố nén ý muốn kêu ca của mình xuống, nhưng vẫn không cam tâm, lắc lắc đôi tai thỏ: "Có vậy thì cũng không cần thiết phải chôn đạc Long Văn mà? Dùng đồ cổ khác để thay thế không được sao?"
"Đây là thứ đồ ma quái. Bởi vì có được nó quá dễ dàng, người ta thường sẽ không trân trọng, lâu dần rồi người ta còn nghĩ đó là điều đương nhiên". Chủ tiệm cầm hộp gấm, nửa như cười nửa như không: "Thương Trụ vương và Tùy Dạng đế, thời còn trẻ đều là những quân vương hiếm có của ngàn năm, nhưng khi lên làm vua, điều tệ hại nhất chính là nghĩ mình là "thiên tử", nghĩ người khác phục tùng mình là điều đương nhiên".
"Mà lòng người thì luôn thay đổi, không thể nào bị khống chế mãi được". Chủ tiệm khẽ thở dài, "Cho dù là đạc Long Văn chuyên dùng để điều khiển người khác, cũng không có tác dụng gì".
Bác sĩ không phản bác thêm câu nào nữa, cúi đầu cùng chủ tiệm nhìn đạc Long Văn được chôn vào mắt trận, rồi nền đất lại trở về nguyên dạng.
"Nói thế tức là đạc Long Văn chỉ là đồ giả?" Phù Tô đang tự đánh cờ Lục Bác, bộ cờ hắn dùng lại chính là bộ lấy từ trong khu nhà cờ Lục Bác ra, một quân Hiêu có một vết nứt, đã được ai đó dùng vàng nạm lại cẩn thận.
"Phải, đệ đã thử rất nhiều lần, mới phát hiện ra là không có tác dụng". Hồ Hợi cúi gằm mặt, trong vô thức vẫn cảm thấy mình quên điều gì đó, nhưng tiếng nói trong đầu hắn vẫn không ngừng nói với hắn, không nhớ ra cũng chẳng sao đâu.
"Ồ, chắc là đạc Long Văn đã mất tác dụng rồi". Xem ra Phù Tô hoàn toàn không băn khoăn gì, chỉ phẩy tay nói: "Tạm thời không có việc gì nữa, đệ làm gì thì làm đi".
Hồ Hợi kính cẩn hành lễ với Phù Tô, lui ra khỏi thư phòng, nhẹ nhàng khép cửa lại.
Phù Tô tiện tay ném sáu cây đũa ra, rồi di chuyển quân cờ Lục Bác trên bàn theo số đũa hướng mặt cong lên trên.
"Thành hiêu nhi mâu, hô ngũ bạch ta". Phù Tô lẩm nhẩm đọc, đưa tay lật một quân cờ lên, trên đó vẫn dùng mực đỏ viết tên Hồ Hợi trên đó.
(Trích trong bài "Chiêu hồn". "Mâu" nghĩa là thắng tuyệt đối, "ngũ bạch" nghĩa là ném đũa được năm mặt trắng quay lên, có thể tùy ý ăn quân của đối thủ. Đại ý cả câu là "Quân Hiêu thắng tuyệt đối, nên mới hô lớn "ngũ bạch" để mừng chiến thắng." Về cờ Lục Bác, xin xem lại chương 6, tập 2)
Phù Tô cầm quân cờ lên cười nhạt một tiếng, rồi lại nhặt chuẩn xác một quân cờ khác trên bàn cờ lên, quả nhiên, trên đó dùng mực đỏ viết ba chữ.
Lục Tử Cương.
"Xem ra ván cờ này còn chưa đánh xong đâu...". Phù Tô cúi xuống đặt hai quân cờ trở lại bàn, sau đó nở một nụ cười chờ đợi.
"Tất Chi, lâu rồi không đánh cờ với ngươi, ta bỗng thấy nhớ quá...".
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT