Lý Thiếu Hướng ghé mông ngồi xuống ghế, nở nụ cười lấy lòng nói: “Chuyện là như vầy, Thái Hành Sơn có không ít lợn rừng, dê núi và các loại thú hoang khác, dù sao hiện giờ tạm thời cũng chưa đánh trận, binh lính của doanh trại cung nỏ cũng nhàn rỗi, theo ta thấy không bằng cho họ lên núi đi săn thú, giờ lại đúng thời điểm thú rừng rất béo và mập mạp…”

A Mạch nghe nhưng không nói gì, thầm nghĩ hay thật, ta chỉ vừa mới ăn của ngươi một miếng thịt, trong khi cách nơi này hơn hai trăm dặm còn có đại quân của Thường Ngọc Thanh nhòm ngó, ngươi đã nghĩ đến chuyện đem binh lính mấy doanh cung nỏ của ta kéo ra ngoài giúp ngươi đi săn thú. Nếu ta ăn hết cả nồi thịt này, có phải là ngươi sẽ đòi toàn bộ binh lính quân Giang Bắc của ta lên núi Thái Hành đi kiếm lương thực cho ngươi không?

Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch không có gì phản ứng gì, trong lòng cũng dần dần cảm thấy chột dạ, nhưng vẫn không chịu từ bỏ ý định, xoa xoa hai tay vào nhau tiếp tục du thuyết(1): “Những tấm bia chết trên giáo trường đâu thể so được với những tấm bia sống trong núi, thứ nhất, đại nhân có thể cải thiện bữa ăn cho mọi người, thứ hai nếu săn được nhiều thú hoang còn có thể sấy khô để làm lương thực dự trữ, làm thực phẩm cho lễ mừng năm mới cũng rất tốt.”

A Mạch nhíu mày ngắt lời Lý Thiếu Hướng: “Ngươi có ý tốt nhưng cách này không thể làm được. Thát tử ở Võ An đối với chúng ta như hổ rình mồi, cách nơi này cùng lắm chỉ hơn hai trăm dặm, thiết kỵ chỉ cần một ngày một đêm là có thể phi ngựa đến đây, sao có thể đem các doanh cung nỏ phái lên núi săn thú được! Hơn nữa, ta đã tính đem các doanh cung nỏ sát nhập vào bộ binh doanh, nên lại càng không thể điều động riêng bọn họ ra ngoài được.”

Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nói vậy thì có chút ngượng ngùng, xoa xoa tay nói không ra lời. A Mạch không muốn anh ta sượng mặt, suy nghĩ một lát lại nói thêm: “Nhưng quả thật binh lính thao luyện cũng rất vất vả, cũng nên thường xuyên cải thiện bữa ăn cho họ. Như vậy đi, ta gọi Vương Thất trước lấy những người già yếu trong bộ binh ra cho ngươi dùng.”

Lý Thiếu Hướng thầm nghĩ ‘ngươi cho ta một đám người già yếu, bọn họ còn có khả năng lên núi săn thú ư!’ Song anh ta cũng là người khéo đưa đẩy, mặc dù trong lòng không vui cũng sẽ không biểu lộ ra mặt, chỉ nhìn A Mạch cười gượng hai tiếng.

A Mạch biết Lý Thiếu Hướng không vui, lập tức cười cười, còn nói thêm: “Ngươi đừng xem thường đám người này, cho dù không thể đi săn thú cho ngươi, thì cũng có thể giúp ngươi nuôi gà nuôi lợn cũng rất tốt. Trước kia ta từng nghe có người nói qua vài cách nuôi gà rất hay, đó là đem gà mái chia ra nuôi nhốt trong những lồng sắt nhỏ, mỗi ngày đều cho nó ăn nhưng không cho vận động nhiều, nó sẽ lớn rất nhanh, một con gà con chỉ cần hơn một tháng là thành gà lớn, thịt cũng rất nhiều.”

Thật ra Lý Thiếu Hướng chưa từng nghe thấy cách nuôi gà nào như thế này, cũng không biết có thể nuôi một con gà con trong vòng hơn một tháng là có thể thành gà lớn hay không, nhưng anh ta vừa nghe A Mạch nói đến mỗi ngày chỉ cho gà ăn mà không cho nó vận động, trên mặt lập tức xuất hiện một nụ cười rất tươi, đôi mắt một mí chỉ lộ ra khe hở hẹp nhìn A Mạch cười mà không nói gì.

A Mạch nhìn thế nào cũng cảm thấy nụ cười tươi này có chút quái dị.

Từ Tĩnh ngồi đối diện vốn vẫn yên lặng ăn cơm, đột nhiên ngẩng đầu lên nói với A Mạch: “Cách này thật ra rất hay, chỉ có điều lương thực cho người ăn còn không có thì ngươi bảo anh ta kiếm đâu ra lương thực cho gà ăn?”

Nàng chẳng qua là nhân lúc nghe Lý Thiếu Hướng nói đến chuyện săn thú, mới nhớ đến trước kia mẫu thân từng thuận miệng nói qua cách nuôi gà như vậy, hiện giờ bị Từ Tĩnh hỏi, không khỏi có chút ngượng ngùng. Nụ cười trên mặt Lý Thiếu Hướng lại càng tươi hơn, còn tự tay cầm đũa gắp một cái chân thỏ hoang thả vào trong bát của Từ Tĩnh mời mọc: “Từ tiên sinh, ngài nếm thử cái này đi, xem hương vị thế nào?”

A Mạch nhìn mà bực mình, nhưng cũng không nói thêm nữa, chỉ bảo: “Không nói chuyện này nữa, chờ Tiết Vũ về xem tình hình thế nào rồi sẽ nói sau.”

Nói xong, cũng không khách khí mà thò đũa vào nồi gắp một miếng thịt gà lớn bỏ vào bát.

Mùng sáu tháng mười một, Tiết Vũ từ Ký Châu tay không trở về. Nghe nói Tiếu Dực vốn cho anh ta mấy xe lương thực, Tiếu phu nhân còn cho thê tử của cháu trai ngoại một xe son phấn và tơ lụa, nhưng Tiết Vũ không lấy bất cứ thứ gì, xoay người trở về Thanh Châu.

Trong lòng A Mạch đã sớm đoán được điều này, lựa lời an ủi Tiết Vũ vài câu, rồi bảo anh ta về trước nghỉ ngơi, nhưng Lý Thiếu Hướng thì lại vô cùng tiếc nuối hơn chục cái xe kia, cứ nhắc mãi rằng: “Con ruồi tuy nhỏ nhưng cũng là thịt a, còn hơn là chẳng có gì a.”

Đối với việc này, Vương Thất vốn tán thành với cách xử sự của Tiết Vũ, giờ nghe Lý Thiếu Hướng nói thế không khỏi liếc xéo anh ta một cái, cả giận nói: “Ngươi không sợ ăn thịt ruồi bọ sẽ mắc ói sao!”

Lý Thiếu Hướng xoa xoa hai tay, bất đắc dĩ nói: “Ngươi mà thấy tình trạng của đám lính thì mới biết nỗi khó xử của ta.”

Vì chuyện lương thảo mà lo lắng không chỉ có một mình Lý Thiếu Hướng mà còn có chủ tướng A Mạch của quân Giang Bắc. Tuy đã sớm cùng Từ Tĩnh nhận định rằng Tiếu Dực khó có khả năng cho lương thực, nhưng trong lòng dù sao vẫn có chút hy vọng, hiện giờ chút hy vọng ấy đã tan thành mây khói, ngay cả A Mạch cũng khó tránh khỏi có chút sa sút tinh thần. Nhưng trước mặt Tiết Vũ và chư tướng quân Giang Bắc, nàng không dám mảy may biểu lộ, chỉ khi ở trước mặt Từ Tĩnh mới dám để lộ ra vẻ mặt đau khổ.

Từ Tĩnh vẫn uống loại trà Long Tĩnh không biết từ năm Minh Tiền thứ bao nhiêu mà Trương Sĩ Cường lấy được từ chỗ của Lý Thiếu Hướng, thần thái có chút khoan thai, hoàn toàn không thấy khẩn trương lo lắng, chỉ cười nói: “Ngươi lo cái gì? Chẳng phải trước khi Tiết Vũ đi ngươi đã dặn dò anh ta cách đối phó với Tiếu Dực rất rõ rồi hay sao? Quân Giang Bắc ở Thanh Châu không trụ nổi nữa, chỉ có thể mang theo dân chúng đến tìm ông ta để nương tựa thôi!”

A Mạch cười khổ nói: “Đó chẳng qua chỉ để dọa Tiếu Dực mà thôi, chẳng lẽ có thể thực sự đến chỗ ông ta để tìm nơi nương tựa sao? Ông ta cũng đâu để bị chúng ta uy hiếp.”

Trong mắt Từ Tĩnh chợt lóe tinh quang, nghiêm trang nói: “Sao lại là dọa? Trong thành của ngươi đã hết lương, không chạy về hướng đông thì chạy đi đâu? Chẳng lẽ lại ra khỏi thành quyết chiến cùng Thường Ngọc Thanh? Thế chẳng phải chính là rơi vào quỷ kế của Thường Ngọc Thanh thì là gì!”

A Mạch nhận ra trong lời nói của Từ Tĩnh còn có ý khác, không khỏi khẽ nghiêng người về trước nhìn Từ Tĩnh chằm chằm, hỏi: “Tiên sinh có kế sách đối phó với Thường Ngọc Thanh chăng?”

Từ Tĩnh vuốt râu khẽ cười hỏi: “Cái này còn phải xem ngươi có bỏ được thành Thanh Châu hay không.”

A Mạch hơi hơi mím môi, sau khi thoáng cân nhắc liền nói với Từ Tĩnh: “Xin tiên sinh chỉ giáo cho.”

Từ Tĩnh lại hỏi A Mạch: “Nhưng ngươi có dám bỏ Thanh Châu mà đi không?”

A Mạch yên lặng nhìn Từ Tĩnh một lát, phút chốc nở nụ cười, đáp: “Đánh không lại, bỏ thành đào tẩu chẳng qua cũng là chuyện thường tình của nhà binh. Việc này ta không phải là kẻ đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng làm vậy, tiên sinh nói có phải không?”

Từ Tĩnh nghe vậy vỗ tay cười to: “Không sai, nếu đánh không lại, cũng chỉ có thể bỏ chạy, dù sao thành là vật chết, người mới là vật sống!”

A Mạch đợi Từ Tĩnh ngưng cười, lại trầm giọng hỏi: “Tiếp đó thì sao?”

“Vào vụ gặt lúa mạch, trước khi Thường Ngọc Thanh đến tấn công, quân ta mượn cớ thát tử sẽ tàn sát thành mà gây rối loạn lòng dân trong thành, lưu chút tinh binh che dấu trong dân chúng, sau đó bỏ ngỏ việc phòng thủ thành Thanh Châu,” Từ Tĩnh đưa tay di chuyển đến trạm kế tiếp trên sa bàn, chỉ vào địa hình trên sa bàn nói: “Mai phục hai vạn tinh binh tại bờ sông Tử Nha phía bắc thành Thanh Châu, còn lại thì ẩn tại khe núi Phi Long. Nếu Thường Ngọc Thanh vào thành, thì nhanh chóng vây thành, bộ binh phối hợp với loạn dân toàn lực công thành, tiến hành chiến đấu trên đường phố, kỵ binh phân tán ở phía tây và phía nam thành, hai phía đánh du kích cắt đứt đường lui của Thường Ngọc Thanh, trận chiến này chắc thắng. Nếu Thường Ngọc Thanh trú quân ngoài thành không chịu vào…”

A Mạch nhanh chóng tính toán trong đâu, theo bản năng lại hỏi tiếp: “Chúng ta sẽ làm như thế nào?”

Từ Tĩnh nheo mắt, trầm giọng nói: “Chúng ta cũng không để ý tới loạn dân trong thành, cho năm vạn đại quân nấp trong khe núi phía đông thành cấp tốc rút rui về phía sau, dụ Thường Ngọc Thanh lọt vào khe núi Phi Long, hai vạn tinh binh mai phục bên bờ sông Tử Nha đánh tới, trận này thắng nhỏ, nhưng cũng phải chém được hơn vạn địch; Thát tử thất bại mà bỏ chạy,“Năm vạn đại quân” giữ vững, nhưng hai vạn tinh binh không đủ sức vây kín nên để trống phía tây nam, khiến cho địch phá vòng vây chạy về phía đó, lại dùng kỵ binh chặn đánh ở phía tây nam, tất đại thắng.”

A Mạch nghe xong trầm mặc không nói gì, chỉ dùng ngón tay gõ khẽ lên sa bàn nhìn đến thất thần. Từ Tĩnh biết nàng tất có chủ kiến, cho nên cũng không lên tiếng quấy rầy, chỉ ngồi xuống bên bàn lẳng lặng uống trà. A Mạch yên lặng nhìn một lát, lông mày khi thì nhăn lại, khi thì giãn ra, mọi cách tính kế đều nhất nhất xoay chuyển, cân nhắc trong đầu, lúc này mới ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh nói: “Nếu người khác dẫn quân thì tốt, nhưng nếu là Thường Ngọc Thanh e là sẽ không dễ dàng rơi vào bẫy như thế.”

Từ Tĩnh khẽ cười nói: “Nếu anh ta vẫn án binh bất động, kỵ binh bên ta thừa dịp đêm xuống mà xông đến doanh trại, từng bước vây sát, trận chiến này vẫn thắng.”

A Mạch chậm rãi lắc đầu: “Không phải ở đây, mà là ở đây.” Nàng đưa tay chỉ vào khe núi Phi Long, nói: “Với tính cách của Thường Ngọc Thanh, anh ta sẽ không dễ gì bị chúng ta dụ dỗ xâm nhập sâu vào khe núi Phi Long, mà trước khi chúng ta lui vào trong khe núi Phi Long sẽ phái kỵ binh vòng lại đây cắt đứt đường lui của quân ta, khi đó, trái lại là quân ta hai mặt thụ địch.”

Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, đưa mắt thận trọng nhìn sa bàn, lại ngưng thần suy nghĩ.

A Mạch lại nói tiếp: “Còn nữa, theo binh pháp, khi bộ binh cùng thiết kỵ thát tử đối trận thì rất ít khi giành được thắng lợi, điều đó rất dễ khiến quân sĩ của ta nảy sinh tâm lý sợ hãi, khi còn giữ thế phòng thủ thì không sao, nhưng một khi chuyển sang thế tấn công lại thành họa lớn.”

Từ Tĩnh vuốt râu gật đầu, rất tán thành với ý kiến của A Mạch, nhưng nếu muốn tìm bộ binh áp chế trực diện thiết kỵ của thát tử lại vô cùng khó khăn. Nam Hạ thiếu chiến mã, căn bản không thể lập thành một lực lượng lớn để có thể cùng thiết kỵ thát tử đối đầu trực diện. Mà trận địa bộ binh nếu bị kỵ binh đánh sâu vào sẽ rất dễ mất trận, cho nên về cơ bản là không thể cùng kỵ binh dã chiến, nhất định phải dựa vào công sự phòng ngự hoặc là thành trì để cùng kỵ binh đối kháng.

A Mạch suy nghĩ một lát, nói: “Trừ phi ở thành đông chúng ta không chỉ dụ binh mà còn có thể có cùng Thường Ngọc Thanh trực tiếp ganh đua thực lực!” Nói đến đây, một luồng suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu A Mạch, nàng đưa mắt nhìn Từ Tĩnh, ngữ khí đột nhiên thay đổi, đè nén một tia hưng phấn hỏi: “Tiên sinh, nếu đã đánh cược, chúng ta có thể đánh cược lớn hơn một chút được không?”

Từ Tĩnh nghe xong khẽ rùng mình, hỏi: “Đánh cược như thế nào?”

A Mạch đáp: “Ta đã từng xem qua đâu đó một loại chiến pháp, thật ra có thể khắc chế kỵ binh thát tử, chỉ có điều chưa từng nghe qua có người sử dụng bao giờ, lần này chúng ta thử nghiệm một lần xem sao. Nếu thắng, quân Giang Bắc sẽ thuận thế đông tiến, chiếm cứ Ký, Lỗ, lập uy tứ quốc, ở Giang Bắc cùng thát tử phân tranh.”

Đôi mắt nhỏ của Từ Tĩnh chớp chớp, hỏi: “Nếu bại thì sao?”

A Mạch cười cười: “Nếu bại, chúng ta rút rui vào khe núi Phi Long cũng chưa muộn.”

Một chiến pháp mới, không biết uy lực lớn đến đâu, nhưng nếu chưa từng được thực nghiệm qua chiến đấu, kết quả cuối cùng vẫn rất khó liệu. Trong lòng Từ Tĩnh có chút nghi ngờ, trầm ngâm một lát sau mới hỏi: “Chiến pháp gì?”

————————-

Chú thích:

1- du thuyết: thời xưa gọi các chính khách đi đến các nước khác thuyết khách là du thuyết, dựa vào tài ăn nói của mình thuyết phục vua các nước áp dụng chủ trương của mình.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play