- Tiểu vương tử Thát Đát tập kích biên giới nước ta, đại quân hai ngả Trác huyện, Xích huyện đều có chiến tích, chỉ riêng cánh quân ở Hoài Lai là hao binh tổn tướng, khiến cho một vị đô ty tử trận, Giám quân Ngự sử Diệp đại nhân cũng bị loạn quân giẫm chết. Tam Pháp Ty phụng thánh dụ xem xét, cân nhắc định tội Hà tham tướng, không ngờ sau khi bị giải vào kinh, Hà tham tướng lại đem hết thảy tội khinh địch, liều lĩnh tiến quân đổ lên người Giám quân Diệp đại nhân và Lưu công công.
Hà tham tướng là tướng lĩnh do bộ Binh tiến cử, nếu như Hà tham tướng bị trị tội, tự nhiên bọn họ sẽ khó tránh bị chỉ trích không biết dùng người. Cho nên bộ Binh ra sức bảo vệ Hà tham tướng, chỉ trích Giám quân đã không rõ việc dùng binh, lại can thiệp sai bậy. Lúc này đám Ngự sử ở Đốc Sát viện và nha môn Nội Quan đều không khỏi cùng mang lòng thù địch với bộ Binh, từ đó hai phe công kích nhau không ngừng.
Nha môn của ty Nội Quan chẳng qua chỉ toàn là một đám thái giám, vốn không có ý kiến gì về mặt quân sự, nhưng khi hồi kinh, Lưu công công lại mang về một phong thư.
Nói đến đây, Trương Tú quay sang Dương Lăng cười bảo:
- Đó chính là phong thư mà ngươi đã gửi cho Hà tham tướng.
Dương Lăng nói:
- Vâng, hạ quan từng có chút ý kiến nông cạn dâng cho Hà tham tướng, nhưng không biết phong thư đó tại sao lại rơi vào trong tay Lưu công công vậy ạ?
Trương Tú lắc đầu:
- Nội tình trong đó ta cũng không rõ. Lưu công công là người hầu hạ bên cạnh Thái tử, trong cung y có một người bạn tốt tên là Trương Vĩnh (1). Vị công công này cũng biết một chút về quân sự, xem xong phong thư của ngươi thì coi như vật chí bảo, lập tức xúi bẩy ty Nội Quan hạch tội bộ Binh, chỉ trích rằng: “Sức chiến đấu của binh sĩ trong quân không mạnh, năng lực trinh sát kém, bộ Binh không biết cách cầm quân, đó mới chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại.”
Ha ha, bộ Binh tuy phụ trách điều binh khiển tướng, thế nhưng thường ngày việc luyện binh và thống lĩnh quân đội thực chất lại do Ngũ Quân đô đốc phủ phụ trách. Thế là như trút được gánh nặng, bộ Binh liền lôi Ngũ Quân đô đốc phủ vốn không hề liên quan vào cuộc. Bốn nha môn bắt đầu đấu đá lòng vòng như đèn kéo quân.
Dương Lăng lắp bắp:
- Chuyện này... Chuyện này... Hạ quan thật không ngờ có thể xảy ra nhiều rắc rối như vậy. Chỉ là ban nãy đại nhân có nói bộ Công cũng xen vào cuộc tranh cãi này, không biết chuyện dùng binh thì có liên can gì tới bộ Công vậy?
Trương Tú đáp:
- Không liên can, thật ra không hề liên can. Có điều trong phong thư của ngươi lại đề cập đến cái hay khi vận dụng hỏa khí cùng với tác dụng quan trọng của nó đối với chiến sự sau này. Bộ Binh có một chủ sự tên là Vương Thủ Nhân (2), y xem xong thư thấy rất tâm đắc. Tính mọt sách nhất thời phát tác, y bèn dâng lên Hoàng thượng Vạn Ngôn Thư, lời lẽ lưu loát, bàn nhiều về đạo trị quân, lại đề cập tới súng hoả mai của bản triều, yêu cầu phải cải tiến ngay. Trong tờ điều trần y cũng tỏ ra không hài lòng về việc quân đội phương bắc được trang bị quá ít súng ống. Theo bản đốc thấy, nội dung mà y tấu lên cũng đánh trúng chỗ yếu đương thời, chỉ là chọn thời điểm có phần không thích hợp.
Nghe đến ba chữ Vương Thủ Nhân, Dương Lăng có cảm giác hơi quen quen, song nhất thời lại không nhớ ra được ông ta là ai. Có điều nếu y đã có ấn tượng, chắc hẳn lúc trước khi xem sách sử đã gặp qua. Mặc dù bây giờ Vương Thủ Nhân chỉ là một chủ sự nhỏ nhoi của bộ Binh, nhưng rất có thể sau này ông ta cũng sẽ trở thành một vị quan đạt được nhiều thành tựu, cho nên y thầm ghi nhớ trong lòng.
Trương Tú lại kể tiếp:
- Trong tình hình ấy bộ Công đâm lo sẽ bị những nha môn đang đùn qua đẩy lại kia sẽ đẩy trách nhiệm bại trận lên người bọn họ, thế là bèn quay qua phía Hoàng thượng kể khổ, nào là ngân lượng trích cấp không đủ, tố chất quân đội kém, súng hoả mai chế tạo không dễ...
Trương Tú vuốt cằm ra điều nghĩ ngợi một hồi, rồi lấy làm rất thú vị nói tiếp:
- Ừ... Sổ sách của bộ Công mới vừa trình lên đại nội hôm qua. Bản đốc đoán chủ quản vấn đề tiền lương của bộ Hộ mà nhận được tin tức xong, chắc sẽ lại biện hộ cho sổ sách đây.
Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười, y thốt lên:
- Sao lại có thể như vậy chứ? Hạ quan thật không ngờ lại nổi lên hồi phong ba thế này, sớm biết như vậy... phong thư đó không viết thì hơn.
Trương Tú vươn vai, uể oải nói:
- Ngươi bắt cua bao giờ chưa? Bỏ một bầy cua vào trong sọt, không cần phải đậy nắp lại nhưng cua vẫn không thể bò ra. Bởi vì chỉ cần có một con muốn bò lên, những con cua khác liền sẽ nhao nhao bám lên người nó, kết quả là nó bị kéo xuống. Rốt cuộc không một con nào có thể bò ra. Ha ha, trên quan trường xưa nay đều là như vậy, chẳng có gì lạ cả.
Cho dù không có phong thư của ngươi, bọn họ cũng sẽ tự tìm những cái cớ khác đề đùn đẩy trách nhiệm cho nhau thôi. Chẳng qua lần này ngươi nhờ thế mà vớ bẫm. Giờ đây Lục bộ đều biết đến đại danh của ngươi, Thái tử nghe chuyện như thế liền đòi xem thư của ngươi, xem xong bèn đến chỗ bệ hạ xin người, muốn ngươi vào kinh làm Thị độc. Ha ha ha...
Cười đã, vẻ mặt nghiêm túc trở lại, Trương Tú nói tiếp:
- Cuộc đấu đá lòng vòng ấy không hề có can hệ gì với Cẩm Y vệ của ta. Ngươi có biết vì sao hôm nay bản đốc đặc biệt triệu kiến ngươi không?
Dương Lăng đáp:
- Xin đại nhân mách cho!
Trương Tú trầm ngâm:
- Cẩm Y vệ của chúng ta chuyên điều tra xử phạt văn võ bá quan cùng dân chúng cả nước, nằm độc lập ngoài Tam Pháp ty, mà Đông xưởng thì phụ trách giám sát bá quan và cả Cẩm Y vệ. Mỗi khi ty Bắc Trấn Phủ của ta nhận chiếu xử trọng án, Đông xưởng đều sai người dự thẩm. Có thể nói, quyền hạn của Đông xưởng còn cao hơn cả Cẩm Y vệ của chúng ta.
Dương Lăng không biết lão ta nói mấy chuyện này để làm gì, trong lòng không khỏi có chút tò mò, lắng nghe lão nói tiếp:
- Nhưng trong Cẩm Y vệ có rất nhiều quan chức là hậu nhân của các vị công thần, hơn nữa có rất nhiều quan viên của Đông xưởng vốn là quan quân được chiêu nạp từ Cẩm Y vệ của chúng ta, cho nên có thể nói là Đông xưởng và Cẩm Y vệ có quan hệ rất mật thiết. Nếu thật sự phải xét về thực lực, Cẩm Y vệ chưa hẳn đã sợ gì Đông xưởng. Cũng may một xưởng một vệ chúng ta xưa nay vẫn luôn luôn thuận hòa, trước giờ chưa từng xảy ra khúc mắc.
Trương Tú liếc y rồi nói:
- Từ cuối năm ngoái đến nay, bệ hạ dần cảm thấy long thể bất an... Những ngày gần đây, bệ hạ có ý mở lại Tây xưởng để giám sát Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Trước mắt ngài đang sai người bí mật gây quỹ, mà quan viên thì phần lớn là thu nạp từ trong quân đội, tự lập thành một hệ, hoàn toàn không liên can gì với Đông xưởng và Cẩm Y vệ.
Dương Lăng nghe lão nói vậy thì chợt giật mình, suy nghĩ cẩn thận mới hiểu được ẩn ý trong lời của lão ta. Hoàng đế cảm thấy thân thể không tốt, đã bắt đầu lo tính cho người nối nghiệp. Tuy Đông xưởng và Cẩm Y vệ là hai tổ chức mà lão tin cậy nhất, nhưng quyền lực của họ lại quá lớn. Hơn nữa qua lời của Trương Tú, tuy xưởng có trách nhiệm giám sát vệ, song thật sự thì cả hai lại biểu hiện như người một nhà, cho nên Hoàng đế không yên tâm. Tây xưởng đang chuẩn bị được mở lại kia không điều một binh một tốt nào của Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mục đích chính là nhằm hạn chế thế lực của hai tổ chức này, tránh cho tân đế đăng cơ sẽ bị mất quyền lực.
Trương Tú lại nói:
- Thái tử tuổi còn nhỏ, Cẩm Y vệ ta có trách nhiệm bảo vệ an toàn cho hoàng thất, sao có thể không để ý cẩn thận chứ? Nhưng bệ hạ đã có lòng nghi ngờ, giờ đây Đông xưởng và Cẩm Y vệ không thể không tránh được hiềm nghi, cho nên không tiện sắp đặt người bên cạnh Thái tử. Lúc này ngươi sắp được làm Thái tử Thị độc, tức là cận thần bên cạnh Thái tử, nên phải gánh lấy trách nhiệm này. Ngươi hiểu ý của bản đốc chứ?
Dương Lăng làm gì mà còn chưa rõ dụng ý của lão? Cẩm Y vệ và Đông xưởng vui buồn có nhau, chung tay nắm quyền thế, giờ đây Tây xưởng sắp được thành lập, lấy việc giám sát cả hai làm nhiệm vụ, dĩ nhiên bọn họ sẽ không yên lòng để quyền lực bị tước mất.
Hiện giờ những kẻ bên cạnh Thái tử chỉ là một đám thái giám, tuy rằng bọn chúng cũng là đối tượng có thể lôi kéo, nhưng những vị thái giám đang nắm quyền ở Đông xưởng đương nhiên không vui lòng bồi dưỡng ra một đám đồng loại mà sau này có thể sẽ tiếm đoạt quyền lực của mình. Dương Lăng lại chưa có gốc rễ trong triều, bồi dưỡng một người như y, cho dù sau này có lên như diều gặp gió thì y cũng sẽ không rời bỏ hai cây đại thụ Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Hiển nhiên y là ứng viên thích hợp nhất.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nhấp nhổm không yên. Đối với một kẻ có tham vọng, loại cơ duyên cùng chỗ dựa vững chắc như vậy đương nhiên là trăm năm khó gặp một lần. Có điều trong tình hình ấy, một Thị độc nhỏ nhoi như y khó tránh sẽ trở thành cái gai trong mắt, cái dằm trong chân của một số kẻ khác, muốn an nhàn sống hết hai năm e chẳng dễ chút nào.
Nghĩ được điểm mấu chốt trong đó, Dương Lăng không khỏi lo sợ bẩm:
- Đa tạ đại nhân cất nhắc! Chỉ có điều, hạ quan... hạ quan tuổi còn trẻ, e rằng sẽ phụ sự tin cậy của đại nhân mất.
Ánh mắt Trương Tú chằm chằm ghim vào người y một hồi lâu, đến khi trong lòng Dương Lăng nổi lên từng cơn ớn lạnh thì Trương Tú mới mỉm cười, đảo mắt thờ ơ nói:
- Trên đời này, lớn nhất chính là Thiên tử, chỉ cần ở cạnh Thiên tử, không có chuyện gì là không thể.
Đoạn lão mỉm cười, tiếp:
- Nói đến Tây xưởng, ta lại nhớ đến một chuyện. Năm Thành Hoá thứ ba, Nam Man (3) nổi loạn, Bá tước Lý Cẩn và Thượng thư Trình Tín ở Tương Thành đốc quân thảo phạt, sau khi quét sạch loạn tặc đã bắt được vô số nam nữ. Bọn họ đưa đám nô lệ này về kinh thành chia tặng cho các vương hầu. Trong đám nô lệ này có một nam tử họ Uông và một bé gái họ Kỷ được đưa vào đại nội, nam tử bị thiến làm hoạn quan, bé gái được nạp làm cung nữ...
Nói đến đây, lão nhìn qua phía Dương Lăng rồi cười khà khà hỏi:
- Ngươi có biết hai người này về sau có tao ngộ như thế nào không?
Rồi không đợi y trả lời, Trương Tú đã tự đáp luôn:
- Mười năm sau, triều đình thiết lập Tây xưởng lần đầu tiên. Chỉ trong chốc lát, quyền lực của Tây xưởng đã khuynh đảo thiên hạ, vượt lên trên Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mà xưởng công của Tây xưởng đó... họ Uông, tên Trực, chính là tên hoạn quan bị bắt nhập cung mười năm trước đó.
Dương Lăng đã nghe nói về tên tuổi của Uông Trực, nghe vậy bèn "a" lên một tiếng. Trương Tú kể tiếp:
- Còn bé gái họ Kỷ ban đầu làm cung nữ, rồi được thăng lên nữ quan, sau đó được phong làm Thục phi, về sau lại còn được phong làm Hoàng hậu, chính là thân mẫu của đương kim hoàng thượng hiện giờ.
Lão vỗ tay, thở dài nói:
- Tao ngộ như thế cũng thật là hiếm thấy! Nghĩ lại những tù binh bị bắt ở Đại Đằng Hạp (4) khi xưa, cho dù trên đường áp giải bị binh sỹ tuỳ ý đánh chết cũng không tính là gì. Ai có thể ngờ rằng trong đó có hai người đã đến được bên cạnh Thiên tử, có thể tạo nên câu chuyện oanh liệt về sau chứ?
Lão mỉm cười rồi nói tiếp:
- Ngươi xuất thân là kẻ đọc sách, đám quan văn đó coi ngươi như người của mình. Ty Nội Quan, Đốc sát viện và bộ Binh lại đều khá có hảo cảm với ngươi, sau lưng ngươi còn có Cẩm Y vệ và Đông xưởng cùng giúp đỡ, có thể nói là vô số cơ duyên. Chỉ cần có thêm được sự yêu thích của Thái tử, một khi Thái tử lên ngôi cửu ngũ, chính là lúc ngươi sẽ như rồng gặp mây, danh vang khắp gần xa! Dương đồng tri, ngươi còn muốn tự coi nhẹ mình không?
Dương Lăng nhìn vào bộ mặt tươi cười "ân cần" đó của Trương Tú, dường như trông thấy cánh tay của Dương Bài Trường vung về phía trước, kêu lớn:
- A Mễ Nhĩ, tiến lên! (5)
****
"A Mễ Nhi" đã tiến lên, nhưng không phải tiến về phía tiền đồ xán lạn, mà là tiến về phía người vợ của y.
Vừa rời khỏi ty Bắc Trấn Phủ của Cẩm Y vệ, thấy đèn sáng khắp nơi, Dương Lăng liền sực nhớ Ấu Nương vẫn còn ở nhà chờ mình, bèn lập tức nóng lòng trở về ngay. Mấy cái câu kiểu như "kim lân khởi thị trì trung vật, nhất ngộ phong vân tiện hóa long (6)" gì gì đó lập tức bị y dẹp qua một bên. Chỉ còn có hai năm nữa, thời gian quý báu biết bao nhiêu, cứ nên tập trung chăm sóc cho tiểu nương tử dễ thương của mình thì hơn.
Kinh sư có hai hội chùa lớn, gọi là hội chùa đông và hội chùa tây. Hội chùa đông tổ chức tại chùa Long Phúc gần lầu Tứ Bài trên phố Đại Thị, được mở vào mùng chín và mùng mười hằng tháng. Hội chùa tây tổ chức tại chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc (7) ở phố Hộ Quốc Tự, được mở vào mùng bảy và mùng tám hằng tháng.
Hôm nay không phải là ngày hội chùa, nhưng hai con đường này bấy lâu đã hình thành nên khu thương nghiệp ổn định, quán trà, tiệm rượu, cửa hàng mọc lên san sát, vô cùng náo nhiệt. Sau khi ăn bữa cơm tối đầm ấm ở một quán ăn, Dương Lăng và Ấu Nương đi thẳng về phía chùa Hộ Quốc.
Dĩ nhiên y không dẫn theo hai gã người ngoài Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh. Kết quả là sau khi ăn xong bữa tối, từ trong ngõ đi ra, hai người lại đi nhầm lối, thế là đành phải hỏi thăm người đi đường. Những người đi đường nghe nói đôi phu thê trẻ này muốn đến chùa Hộ Quốc để dâng hương thì đều lộ vẻ ngạc nhiên, song vẫn chỉ đường cho bọn họ.
Thì ra ngôi chùa mười gian rộng lớn rất có tiếng tăm này giờ đây đã biến thành một chùa Lạt-ma. Đối với những vị bồ tát hình dạng kỳ quái mà Lạt-ma thờ cúng, các vị nhân sĩ chốn kinh sư vốn vẫn luôn có suy nghĩ "kính quỷ thần nhi viễn chi" (7) nên cũng không dám lĩnh giáo lễ nghi dâng cúng của các vị Lạt-ma. Chỉ những khi có hội chùa, du khách mới vui vẻ bước vào bên trong ngoạn cảnh còn ngày thường rất ít người ghé thăm. Vì vậy hương quả trong ngôi chùa này rất lèo tèo, hoàn toàn không giống với cảnh hương quả hưng thịnh ở những chùa miếu khác.
Nhưng người Hán không giống như những người phương Tây luôn vạch rõ giới hạn về tín ngưỡng tôn giáo. Đơn giản là anh có tín ngưỡng của anh, tôi có tín ngưỡng của tôi, tuyệt đối không vì anh thờ Nguyên Thủy Thiên Tôn, tôi thờ Phật Tổ Như Lai mà sẽ đánh nhau túi bụi, hay là cấm cản không cho con cái lấy nhau. Cho nên tuy người đi đường cảm thấy kỳ lạ khi cặp vợ chồng trẻ này muốn đi đến chùa Lạt-ma, nhưng cũng không ai làm khó bọn họ.
Những năm gần đây, không ít nhà sư từ Thanh Khang Tạng (9), thậm chí từ ngoài sa mạc, đến tấn kiến triều đình Đại Minh. Bởi vì vùng đất của bọn họ được cai trị theo chế độ chính giáo hợp nhất (*), những Lạt-ma này vào chầu cũng giống như quan viên từ nơi đó vào triều yết kiến, rất được triều đình xem trọng. Cho nên Hoàng đề đã ban vài ngôi chùa cho những tăng lữ có lòng muốn ở lại Trung Nguyên, chùa Hộ Quốc là một trong số đó.
(*): Chế độ cai trị mà nguyên thủ quốc gia và lãnh tụ tôn giáo cùng là một người, pháp luật được viết dựa theo giáo nghĩa của tôn giáo, dân chúng tôn thờ duy nhất một loại tôn giáo.
Tuy rằng hương hoả không vượng, nhưng may nhờ triều đình cấp dưỡng, nhu yếu phẩm được cung cấp đúng hạn, cho nên cuộc sống của những vị Lạt-ma ở đây cũng không hề kham khổ.
Bước vào cổng chính, Dương Lăng thấy trong chùa sáng choang. Mặc dù cũng có vài du khách, nhưng trông tuổi tác dường như phần lớn đều là những cụ già đi dạo mệt mỏi vào đây nghỉ chân, ngồi tán gẫu dưới hành lang. Còn ngay trước lối vào điện Kim Cương, tuy cửa điện rộng mở thế nhưng lại tĩnh mịch lạnh lẽo, không ai bước vào.
Dương Lăng ngoái đầu nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang cách mình hơn ba thước, bẽn lẽn theo sau, trong lòng bất giác cảm thấy buồn cười, không nhịn được bèn trêu:
- Nương tử, cùng đi trên phố mà cách xa như vậy để làm gì? Tướng công phải liên tục ngoái đầu nhìn nàng, sắp trẹo cổ rồi đây này.
Hàn Ấu Nương xấu hổ đi đến bên cạnh y, khẽ trách:
- Tướng công! Nói nhỏ chút đi mà, người ta nghe được sẽ cười cho đấy. Thiếp là nữ nhân, vốn không thể sóng vai bước ngang hàng với chàng mà.
Dương Lăng cười lớn nói:
- Được, vậy nàng cứ đi theo đằng sau đi. Phật dạy: “Kiếp trước ngoái đầu nhìn năm trăm lần mới có thể đổi được một lần thoáng gặp gỡ ở kiếp này.” Về sau nàng cứ đi theo tướng công mỗi ngày, tướng công không có gì làm sẽ ngoái đầu lại nhìn nàng một chút, nhìn đến năm ngàn, năm vạn lần, tranh thủ để kiếp sau vẫn làm phu thê.
Ấu Nương cười thẹn lườm y, chưa kịp đáp lời thì một giọng cười "hắc hắc" khó nghe đột nhiên vọng lại, kế đó là tiếng nói:
- Thuyết pháp này thật thú vị! Ta chỉ mới nghe nói rằng ”trăm năm tu duyên, nghìn năm tu phận, vạn năm tu duyên phận” mà thôi.
Ngoái đầu lại nhìn, Dương Lăng trông thấy một thư sinh trẻ tuổi, mặt như thoa phấn, tay cầm một cây quạt thếp vàng đang nhìn y cười hì hì. Tiểu thư sinh này có vóc người cao hơn Ấu Nương một chút, mặt mày sáng láng, vận một bộ đạo bào (một loại trang phục áo dài chấm gót đời Minh - tác giả.), lưng buộc đai gấm, đầu đội mũ quả dưa (10), chóp mũ đính một viên thạch anh, trông thật khôi ngô tuấn tú.
Tiểu thư sinh vừa mở miệng, cái tiếng vịt đực khó nghe trong thời kỳ bị vỡ giọng lại ồ ồ vang lên:
- Có điều, không biết cái ”ngoái đầu nhìn năm trăm lần” của vị huynh đài đây là điển cố trong bộ kinh văn nào vậy? Là Tam Quy Ngũ Giới Từ Tâm Yếm Ly Công Đức kinh, A Di Đà Phật Âm Vương Đà La Ni kinh? Hay là Tứ Thập Nhị Chương kinh vậy?
Nói đoạn y bung cây quạt thếp vàng dùng làm trang sức kia ra đánh xoạch, khẽ quạt quạt mấy lượt, dáng vẻ khá là tiêu sái. Kế đó y lại cảm thấy chán nên gấp quạt lại, rồi hỏi:
- Hôm nay tiểu đệ cùng huynh cũng xem như thoáng gặp gỡ, không biết vì sao kiếp trước huynh đài quay đầu nhìn ta nhiều lần như thế?
(1) Trương Vĩnh (1465 - 1529), Ngự dụng giám thái giám, tự là Đức Duyên, biệt hiệu "thủ am". Đầu những năm Hồng Vũ, ông cố nội của ông ta dời đến Tân Thành, Bảo Định (nay là huyện Tân Thành tỉnh Hà Bắc), trở thành người Tân Thành. Năm Thành Hoá thứ mười một (1475), ông ta được chọn vào cung, vào cung Càn Thanh hầu hạ cho vua Hiến Tông, năm đó ông ta gần mười tuổi. Sau đó ông ta được thăng chức làm Nội quan giám hữu giám thừa. Năm Thành Hoá thứ mười ba (1487), Hiến Tông qua đời, Hiếu Tông điều ông ta đến Mậu Lăng ty. Năm Hoằng Trị thứ chín (1496), ông ta được điều vào đông cung hầu hạ cho Thái tử Chu Hậu Chiếu, tức Vũ Tông sau này. Năm Hoằng Trị thứ mười tám (1505), Vũ Tông kế vị, điều chuyển Trương Vĩnh làm Ngự mã giám tả giám thừa, không lâu sau thăng làm Ngự dụng giám thái giám. Trương Vĩnh tấu sớ xin cố thái giám Ngô Trung nhượng lại điền trang rộng đến bảy dặm. Bộ Hộ chỉ trích ông ta vi phạm cấm lệnh, cần phải điều tra trừng trị, song Vũ Tông lại chiếu lệnh cho Trương Vĩnh quản lý tài sản.
(2) Vương Thủ Nhân(1472-1529), người Dư Diêu, Chiết Giang, tự là Bá An, hiệu Dương Minh Tử, đời gọi là Dương Minh tiên sinh, học giả đồng liêu gọi là Vương Dương Minh. Ông là nhà tư tưởng, triết học, văn học và quân sự nổi tiếng nhất thời Minh, là người đã thu thập để viết nên tập Lục Vương Tâm Học. Chẳng những tinh thông Nho gia, Phật gia, Đạo gia, mà ông còn có thể lĩnh binh chinh chiến, là nhà thông thái toàn năng hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được phong là "tiên Nho", pho tượng thờ thứ 58 trong miếu thờ Khổng Tử.
(3) Nam Man (nghĩa là "người man rợ phương nam") là từ miệt thị trong lịch sử Trung Quốc để chỉ các bộ lạc nổi loạn phía tây nam của Trung Quốc. Từ này xuất hiện sau khi có vương quốc Tam Miêu hùng mạnh vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên do người Miêu dẫn đầu. Trong thời kỳ Tam Quốc, người Miêu dưới sự lãnh đạo của Mạnh Hoạch đã nhiều lần nổi lên chống lại Thục Hán, sau khi Mạnh Hoạch bị Gia Cát Lượng bắt và thả bảy lần đã quy phục Thục Hán. Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua Kiếm Nam Tiết Độ Sứ. (theo wikipedia)
(4) Đại Đằng Hạp là hẻm núi (hạp cốc) rộng lớn và dài nhất trong phạm vi Quảng Tây, trở thành khu vực giao tranh của binh gia tự cổ chí kim. Cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của dân tộc người Dao ở thời Minh đã bùng nổ ở nơi đây, kéo dài trên hai trăm năm. Từ đầu những năm Hồng Vũ (~1375) đến năm Thiên Khải (1621 - 1627), Vương triều nhà Minh lần lượt đưa trọng binh trấn thủ, trấn áp cuộc khởi nghĩa của người Dao.
(5) nguyên văn "A Mễ Nhĩ, xung!" đây là câu nói thịnh hành lấy từ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng Trung Quốc "Người khách lên Băng Sơn". Trong phim, khi A Mễ Nhĩ cùng Cổ Lan Đan Mỗ trùng phùng, y đã không dám chạy tới ôm cô. Thấy tình hình như vậy, Dương Bài Trường đã ra lệnh: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!" Thời nay, nó được dùng như một câu khích lệ. Khi một thanh niên nhìn trúng một cô gái nào đó nhưng lại không đủ can đảm theo đuổi, bạn bè cậu ta sẽ đồng thanh cổ vũ bằng câu: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!"
(6) "Lân vàng há phải vật trong ao, nếu gặp phong vân sẽ hóa rồng" - trích câu nói nổi tiếng trong bộ phim Phong Vân. Nhưng thật ra câu "Kim lân khởi thị trì trung vật" lại bắt nguồn từ bài thơ trong tập "Tinh Học Đại Thành" của Vạn Dân Anh, thời Minh. Thơ rằng:
Nguyệt không chi nhân diệc hãn phùng, (月空之人亦罕逢)
Na kham quan quý tại kì trung; (那堪官贵在其中)
Kim lân khởi thị trì trung vật, (金鳞岂是池中物)
Bất nhật thiên thư hạ cửu trùng (不日天书下九重)
(7) Chùa Hộ Quốc lấy tên đặt trong vùng vào thời Nguyên đặt cho. Năm Tuyên Đức thứ tư (1264-1295) đổi tên thành chùa Đại Long Thiện. Năm Thành Hóa thứ tám (1472) được ban tên chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc. Vì chùa tọa lạc ở phía tây thành Bắc Kinh, cho nên người Bắc Kinh xưa còn gọi nó là "chùa Tây".
(8) Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ - Ung dã" (論語•雍也):
Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ ( 務民之義,敬鬼神而遠之,可謂知矣� �)
Tạm dịch như sau:
Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí.
Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"( 敬鬼神而遠之).
Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp mỉa mai, châm biếm khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. (theo wikipedia)
(9) Thanh Khang Tạng chỉ cao nguyên Thanh Tạng, vùng cao nguyên cao nhất thế giới ở châu Á. Vắt qua khu tự trị Tây Tạng, toàn bộ tỉnh Thanh Hải và khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, tỉnh Cam Túc và một phần tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
(10) Tên thông dụng của "lục hơp nhất thống mạo", một loại mũ đội được người dân trong kinh thành dùng nhiều. Mũ hình bán nguyệt dùng sáu miếng vải lụa ghép thành.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT