Sau khi chiếm được Đồ Bàn, bắt sống vua Chiêm Chế Lam Lũ, quân Liên Việt nghỉ ngơi 10 ngày, chỉnh đốn binh sỹ, thu thập vật tư, quân dụng, chuẩn bị tiến quân đánh Parang (Paranguda – Phan Rang). Nào ngờ, chỉ mới ngày thứ 3, các tướng Chiêm đóng ở Parang cũng như các nơi khác khắp đất Chiêm tới tấp sai sứ giả đem thư xin hàng.

Trên biển, 9 tàu chiến của nhà Minh bị chặn lại ở vùng biển Mỹ Khê, Hà Tĩnh. Ba chiến hạm Rebecca, Trưng Vương và Đinh Tiên Hoàng chặn quân Minh lại ở ngoài biển. Tướng nhà Minh là Mông Trạch Đao sai thuyền nhỏ gửi thư cho tướng Việt, đại ý là khuyên bảo quân Việt nên tránh đường để quân Minh sang cứu Chiêm Thành, đồng thời cũng khuyên tướng Việt nên rút quân về ngay, không nên ở lại đất Chiêm. Chỉ huy tàu Trưng Vương, cũng là phó đô đốc hạm đội Biển đông Nguyễn Quý viết thư trả lời cho quân Minh rằng nên rút về, đừng can thiệp vào việc nước Nam mà hao binh tổn tướng. Chiêm Thành tấn công Đại Việt trước, nên Đại Việt tự vệ là việc tất phải làm, người phương Bắc “Chớ xía mũi vào việc phương Nam”

Mông Trạch Đao nhận thư, đọc lướt qua thì tức giận, mắng lớn “Tướng Nam thật là khinh người quá đáng, mau truyền lệnh bổn tướng quân, các thuyền chuẩn bị chiến đấu”

Có người khuyên bảo, nói rằng chiến thuyền của quân Minh chở đầy binh sỹ, không tiện cho giao tranh, nhưng Mông Trạch Đao gạt đi, nói rằng “Quân địch chỉ có 3 chiến hạm, nếu không dám cùng bọn chúng giao chiến, chẳng phải là mất mặt thiên triều ru” nói rồi hạ lệnh các tàu chuẩn bị nghênh địch

Bên trên boong chỉ huy tàu Trưng Vương, Nguyễn Quý mỉm cười, buông ống nhòm xuống nói lẩm bẩm “Chỉ chờ có thế” rồi hạ lệnh tàu Rebecca vòng sang bên trái, tàu Đinh Tiên Hoàng vòng sang bên phải, còn tàu Trưng Vương thì quay ngang chuẩn bị giao chiến

Bên kia, tướng giặc nhìn thấy 3 chiến hạm không lao lên mà lại tạt sang các hướng thì cười mà nói rằng “Quân Nam sợ hãi thiên uy, chuẩn bị bỏ chạy rồi kìa. Nhanh lên, không thể để cho bọn chúng chạy thoát”

Chiến hạm Rebecca đã hoàn tất quay ngang, các cửa sổ chứa pháo được mở ra, để lộ những họng pháo đen ngòm, giống như là con cọp để lộ ra răng nanh dữ tợn của nó. Các pháo thủ bắt đầu đo đạc góc độ, nhồi thuốc súng, nạp đạn, rồi sẵn sàng chờ lệnh

ĐOÀNG!!! ĐOÀNG!!! ... Quân Minh giành trước khai hỏa. Những viên đạn bay ra từ mũi tàu bắn về phía quân Việt, nhưng thật không may, viên đạn xa nhất cũng còn cách tàu Trưng Vương đến cả chục mét.

“BẮN!!!” Nguyễn Quý ra lệnh. 16 khẩu pháo gầm lên, trút đạn lên đầu quân giặc. Đạn pháo bắn thủng boong thuyền, rơi xuống đầu lính bộ binh nhà Minh, giết chết mấy chục tên.

Sau đó, tàu Trưng Vương lại xoay boong, chìa phần boong còn lại với những khẩu pháo đã nạp sẵn đạn xích, loại đạn đặc biệt gồm 2 viên đạn tròn được nối với nhau bằng dây xích, chuyên dùng để bắn phá cột buồm tàu địch. 16 khẩu pháo khai hỏa, chỉ có 2 phát đạn đánh trúng mục tiêu, nhưng sức phá hoại của nó thì rất khủng bố, 2 cây cột buồm bị đánh gẫy, 1 chiến thuyền của quân Minh đột nhiên chậm hẳn lại, bị bỏ rơi lại đằng sau

Lúc này, 2 tàu Rebecca và Đinh Tiên Hoàng cũng đã vòng qua hai cánh của tàu nhà Minh, 32 khẩu pháo đồng loại khai hỏa. 3 chiến hạm như gọng kìm sắt, lợi dụng ưu thế cơ động của mình vòng quanh, chơi trò mèo vờn chuột với quân Minh.

Sau 2 giờ giao tranh, quân Minh bị đánh đắm 1 chiến hạm, hơn một ngàn lính Minh làm mồi cho cá. 2 chiến hạm bị trọng thương, 1 tàu bị nước vào quá nửa, các thủy thủ cùng quân Minh vội vàng tát nước ra, nhưng chiến hạm vẫn cứ chìm dần xuống biển.

Lúc này, các chiến hạm của quân Minh đều đã thả mái chèo, mấy ngàn lính bộ binh cùng thủy quân bắt đầu chèo cật lực, cố gắng đuổi kịp chiến hạm của Liên Việt

Nguyễn Quý khinh bỉ bĩu môi “Thời đại nào rồi còn chèo bằng mái chèo chứ” rồi hắn quay sang lính thông tin “Ra tín hiệu cờ, các thuyền thay đạn hạt nho”

Những thùng đạn nhỏ được đổ vào miệng pháo, 3 chiến hạm quay đầu, tăng tốc lao về phía tàu của Đại Minh. Tiếng pháo của quân Minh nổ râm ran, có vài thủy thủ xấu số của Liên Việt bị viên đạn đá to tổ bố thằng ăn mày nện vào đầu, vì nước quên thân. Một vài viên đạn thì xuyên thủng buồm của chiến hạm, nhưng với hệ thống 18 lá buồm đủ các cỡ, 3 chiếc chiến hạm vẫn không si nhê gì, lao thẳng vào quân địch. 3 chiếc chiến hạm lao vào khe hở giữa các tàu của quân Minh, húc gãy hết mái chèo, rồi thì tất cả các khẩu thần công đều gầm lên, khói trắng mịt mù. Những con tàu của nhà Minh bị mấy ngàn viên đạn nhỏ nhắn, chỉ có kích cỡ bằng nắm tay trẻ nhỏ, đánh thủng lỗ chỗ, quân binh chết vô số. Máu đỏ chảy ra theo lỗ thủng, nhuộm hồng cả một vùng biển, gọi mời đến vô số cá mập. Quân Minh trên boong tàu cũng dùng cung, nỏ bắn trả, đánh chết mấy chục lính Liên Việt, nhưng chỉ thế mà thôi. Các chiến hạm Liên Việt vòng ra phía sau, thay đạn, lại là một trận oanh tạc điên cuồng với chiến thuyền của Minh. Kết quả là đến lúc mặt trời lặn, quân Minh treo cờ đầu hàng, phó soái Gia Cát Dự xin được quay thuyền về Minh. Nguyễn Quý suy nghĩ một lúc, đồng ý để mấy chiến hạm của Minh rút về, dù sao nếu quân Minh liều chết, thủy quân Liên Việt cũng sẽ bị thương nặng. Hơn nữa, theo hội Liên Việt 1 thời gian, Nguyễn Quý cũng hiểu được 1 chút, thời gian để triển khai chiến tranh toàn diện với nhà Minh chưa đến, cố gắng giữ hòa khí là tốt nhất.

Trận chiến này, quân Liên Việt chết trận 38 người, bị thương 62 người. Quân Minh chết trận 3493 người, bị thương khoảng hơn 2000 người, hai chiến hạm bị đánh đắm, 1 chiến hạm bị thương nặng, đô đốc Mông Trạch Đao bị đạn hạt nho bắn thành cái sàng, nhìn không ra người hay là ngợm (chắc là ngợm).

--------

Sau chiến thắng Mỹ Khê, ngày 10-10-1402, hội Liên Việt tuyên bố “Phù Trần Kháng Hồ” đưa quý tộc nhà Trần là Trần Quý Khoáng lên ngôi, lấy hiệu là Trùng Quang Hoàng Đế, xưng quốc hiệu Đại Việt, niên hiệu Thừa Thiên. Việc này làm cho khối kẻ tức ói máu ví dụ như Dương Cung, Trần Ngỗi... Hai tên này thèm rỏ dãi đất Thuận hóa giàu có, nhiều lần sai người đến thuyết phục hội Liên Việt, dù Mạnh không hề ưng thuận bất kỳ điều gì, nhưng hai tên vẫn cứ cho rằng Mạnh sẽ về phe mình. Nào ngờ đùng 1 cái, hội Liên Việt đưa Trần Quý Khoáng lên làm vua, làm cho hai tên vỡ mộng.

Sau khi đưa Trần Quý Khoáng lên ngôi, hội Liên Việt cũng đẩy ra bộ luật Trùng Quang 1402, khá đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân Liên Việt, các luật dân sự, hình sự, luật nghĩa vụ...

Luật Trùng Quang 1402 dựa trên cơ sở bộ luật 1992, có một chút cải cách như các đặc quyền của hoàng gia, của hội Liên Việt. Luật quy định thành viên hội Liên Việt được miễn án tử hình, bất kỳ tội gì đều lùi một bậc. Tội cao nhất là phản quốc, án là tử hình với người thường và chung thân cho hoàng gia cùng hội Liên Việt. Bộ luật này được đời sau đánh giá là “đầy đủ và hoàn thiện nhất thời phong kiến”.

Vào lúc này, ở phía Bắc, việc bình loạn của nhà Hồ cũng bắt đầu đi vào giai đoạn cuối cùng. Tháng 11 năm 1402, Hồ Nguyên Trừng đánh bại quân khởi nghĩa của Dương Cung ở Lạng Sơn, bắt giết được Dương Cung và Bế Thuấn, chém đầu quân khởi nghĩa hơn 4000, còn lại bắt làm nô lệ.

Tháng 12 năm 1402, Hồ Nguyên Trừng rút binh về Thăng Long, chỉnh đốn quân sỹ, chuẩn bị tiến công Ninh Bình, tiêu diệt Trần Ngỗi.

3 tháng đã trôi qua kể từ khi quân Liên Việt tiếp quản triều đình nước Chiêm, giai đoạn cải tạo ban đầu của hội Liên Việt có vẻ thành công tốt đẹp. Nhiều địa chủ, quý tộc người Chăm được đưa đi học lớp Tài chính cấp tốc, được giáo dục về tài chính, lợi nhuận, tư bản, dòng tiền... do giáo sư Lý Hạ Viên đích thân lên lớp. Sau khi kết thúc khóa học, rất nhiều địa chủ, quý tộc dần dần chuyển biến thành giai cấp tư sản kiểu mới, bắt đầu hưởng ứng phong trào đổi đất lấy nhà xưởng của hội Liên Việt.

Phong trào đổi đất lấy nhà xưởng do Lý Hạ Viên khởi xướng, mục đích là giải phóng tư liệu sản xuất, giải phóng lao động. Các địa chủ đem đất giao cho nhà nước, sau đó nhà nước sẽ đem đất chia cho dân chúng. Còn các địa chủ, nhà nước sẽ đem máy móc, nhà xưởng giao cho họ làm chủ, dạy họ kinh doanh, giúp đỡ về kỹ thuật cũng như công nghệ. Bởi vậy các công ty như Công ty thủy tinh Vajjai, công ty dệt liên doanh Parang, Công ty xi măng Vijaya, công ty đóng tàu Chế Tài... liên tục được khai trương. Các tướng lĩnh thì phải đi đào tạo sâu ở học viện quân sự, những tên trâu bò nhưng đầu óc ngu sy, chỉ có tứ chi phát triển đều được phân vào đội kỵ binh xung kích, còn lại những người có thể đào tạo thì vừa được học chiến thuật kiểu mới. Chương trình học chủ yếu là địa đạo chiến, phối hợp pháo binh – Bộ binh, chiến thuật về chiến tranh giai đoạn hỏa dược... Jame cũng bắt đầu đào tạo một thế hệ thuyền trưởng mới. Tất nhiên, không thể thiếu được những khóa học tẩy não do Trần Ngọc Quang, một trạch nam suốt ngày cắm đầu vào máy tính, nhưng rất yêu nước Việt và văn hóa Việt, lên lớp. Chỉ có điều, đồng chí này... nói sao nhỉ, có chút hơi phẫn thanh, giảng giải vô cùng máu lửa về chiến tranh văn hóa, đồng hóa... của anh bạn láng giềng phía Bắc. Đám tướng Chiêm tỏ ra rất tự hào được trở thành 1 phần của Đại Việt, tỏ ra yêu quý văn hóa Việt, và suýt nữa biến thành phần tử quá khích chống người Hoa... May mà Mạnh phát hiện sớm. Điều này chứng tỏ văn hóa rất đáng sợ...

Tháng 2 năm 1403, quân Đại Ngu, sau mấy tháng nghỉ ngơi ở Thăng Long, bắt đầu tiến đánh quân Hậu Trần ở Ninh Bình. Trần Ngỗi sợ hãi, vội gửi thư cầu cứu Trần Quý Khoáng. Trùng Quang Đế vội vàng tổ chức cuộc họp nội các, bàn việc có nên cứu Trần Ngỗi hay không.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play